Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Nợ xấu, những mảng màu không dễ nhận diện pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.16 KB, 3 trang )

Nợ xấu, những mảng màu không dễ nhận diện
Tài sản đảm bảo, có cũng như không!
Thực tế, có ngân hàng tài trợ cho dự án đóng tàu theo dự toán và khoản vay lên tới
100 tỷ đồng. Tuy nhiên, khi con tàu đang đóng dang dở thì thị trường có biến
động, suy thoái kinh tế khiến ngành đóng tàu suy giảm, ngân hàng đứng trước tình
trạng tiến thoái lưỡng nan: tiếp tục tài trợ thì việc bán tàu không giúp thu hồi
khoản vay bởi giá tàu giảm mạnh, cuối cùng ngân hàng lựa chọn giải pháp ngưng
tài trợ, chấp nhận dỡ tàu bán “sắt vụn”. Mặc dù có tài sản bảo đảm, nhưng tài sản
bảo đảm gần như trở thành vô giá trị.
Một trường hợp khác, nhiều ngân hàng tranh chấp nhau khi xử lý tài sản bảo đảm
là một kho hàng của DN. Ngay cả khi bán toàn bộ kho hàng đi cũng chỉ đủ trả cho
khoảng 40% tổng số dư nợ của DN.
Những trường hợp trên cho thấy, mặc dù có tài sản bảo đảm, nhưng nợ xấu hoàn
toàn không thể xử lý được. DN không có khả năng trả nợ, tài sản bảo đảm từ có
thành không, khoản cho vay của ngân hàng coi như mất trắng.
Đâu là nguyên nhân?
Về quy trình phê duyệt khoản vay, sau khi tiếp nhận hồ sơ từ khách hàng, cán bộ
tín dụng có trách nhiệm thẩm định khoản vay, đánh giá các điều kiện vay, xem xét
DN có đáng tin cậy, việc sử dụng khoản vay có đúng mục đích, khả năng trả nợ ra
sao… Tuy nhiên, việc đánh giá, thẩm định khoản vay vẫn có thể sai lầm do thị
trường, do bối cảnh kinh tế biến động dẫn đến ngay cả những thương hiệu lớn
cũng sụp đổ. Do đó, tài sản bảo đảm là yếu tố quan trọng, được coi như phao cứu
sinh giúp ngân hàng thu hồi vốn khi khách hàng không trả được nợ. Về nguyên
tắc, tài sản bảo đảm phải có giá trị, dễ xử lý (không có vướng mắc về sở hữu), dễ
quản lý (tránh mất mát) và phải đạt được yếu tố bảo vệ tài sản (tài sản bảo đảm là
ô tô phải có bảo hiểm để phòng ngừa thiệt hại khi có tai nạn).
Như vậy, nếu nợ xấu có tài sảm bảo đảm thì ngân hàng sẽ xử lý được khoản nợ đó
thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm. Nhưng thực tế, nhiều khoản nợ xấu thường
đi kèm với việc không thể xử lý tài sản bảo đảm. Nguyên nhân là vì tài sản bảo
đảm có tranh chấp, thanh khoản kém (như cổ phiếu OTC), bị giảm giá trị mạnh
(như cổ phiếu hoặc bất động sản trong thời điểm hiện nay) và do bị dính líu vào vụ


án lừa đảo. Yếu tố định giá cũng góp phần khiến nợ xấu khó xử lý khi định giá tài
sản quá cao và khi xử lý chỉ thu được một phần nhỏ so với khoản vay.
Nợ xấu, đâu là con số thực?
Trong khi đó, những số liệu “vênh” nhau về tình hình nợ xấu cho thấy, việc nhìn
thẳng, đánh giá đúng thực trạng nợ xấu vẫn là đòi hỏi cấp thiết. Theo số liệu công
bố của 4 ngân hàng niêm yết thì đến hết quý III/2012, tỷ lệ nợ xấu của ACB là
2,08%, VCB là 3,21%, STB là 1,4%, EIB là 1,89%. Tỷ lệ nợ xấu bình quân của 4
ngân hàng này là 2,145%, được xem là khá “ổn” nếu so với tiêu chuẩn về nợ xấu
dưới 3%, cũng như tỷ lệ nợ xấu tính theo báo cáo của tất cả các NHTM là 4,9%.
Tuy nhiên, con số 4,9% này khá xa so với tỷ lệ mà NHNN công bố là 8,82%, tỷ lệ
13% của một tổ chức quốc tế và 14,01% (chưa kể khoản lỗ của Vinashin) của
Trung tâm Nghiên cứu thuộc Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội)
công bố. Điều này được lý giải là do quan điểm về nợ xấu khác nhau, song nó
cũng thể hiện có thể có một con số không nhỏ nợ xấu không được đưa vào tổng dư
nợ.
Đầu tư, thực tế có không ít trường hợp ngân hàng tài trợ cho DN những khoản lớn
lên tới hàng trăm tỷ đồng, nhưng lách dưới vỏ bọc một giao dịch nào đó như tạm
ứng thanh toán, đặt cọc giao dịch… Những khoản này đều không được tính vào
hợp đồng tín dụng và do đó, ngay cả khi trở thành nợ xấu thì vẫn được để ngoài
bảng. Việc đảo nợ, gia hạn nợ theo chính sách hiện nay khiến cho không ít khoản
nợ xấu đang giấu mình trong khối nợ tốt và có lẽ chỉ chờ đến hạn là chuyển thành
nợ xấu. Chưa kể, nợ trong hạn nhưng tài sản bảo đảm mất hết thì thực chất đây
cũng là nợ xấu

×