Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NHỮNG VẺ ĐEP CỦA TÂM NĂNG VÀ TRÍ NĂNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.75 KB, 6 trang )

NHỮNG VẺ ĐEP CỦA TÂM
NĂNG VÀ TRÍ NĂNG
Đây là lần thứ hai, cách nhau chưa
đầy hai năm, hai triển lãm mĩ thuật
hiện đại đương đại của hai nhóm
họa sĩ Nhật Bản khác nhau được
giới thiệu tại Thủ đô Hà N
ội. Nhóm
trước là hội họa giá vẽ, nhóm sau l
à
nghệ thuật sắp đặt.
Lịch sử mĩ thuật Nhật Bản vốn có
một hành trình dài đầy biến động và tự hào. Từ thế kỷ thứ VI, qua giao
lưu - tiếp biến với mĩ thuật Phật giáo Trung Hoa, hội họa Nhật Bản đã
đạt được những thành tựu xuất sắc về loại tranh thờ ở những ngôi chùa
nổi tiếng. Những trường phái Sesshu, Nanga đã ra đời. Thế kỷ thứ IX
- X nghệ thuật cung đình với trào lưu Yamato-e đã bước vào th
ời thịnh,
với phong cách hoàn toàn Nhật Bản. Đó là những tấm Panô trang trí
lớn, những bức bình phong, cửa vách lùa, Album, tranh cuộn ngang tô
màu (e-maki) với những đề tài phong cảnh, bốn mùa, tích truyện, danh
nhân đã nở rộ, nét vẽ thanh thoát, tinh tế, màu sắc hài hòa, lắng đọng.
Hai trường phái Kasuga, Tosa được xem là điển hình của nghệ thuật
Nh
ật Bản. Tới thế kỷ XVII, nước Nhật đã có những đổi thay lớn lao về
kinh tế, chính trị. Nghệ thuật in khắc gỗ mộc bản đen trắng và màu đã
ra đời với trào lưu Ukyo-e. Nghệ thuật sơn và gốm cũng phát triển. Nó
hướng vào phục vụ lớp công chúng mới, thay bằng chỉ phục vụ số ít
quý tộc trước đó.
Ngày nay, xem l
ại những kiệt tác Cô gái soi gương, Cô gái Geisha của


Utamaro, Chân dung nhà Chúa của Fujiwara Takanobu; Giông tố,
Phong cảnh của Sesshu; Rừng Tùng của Tohaku; Bình phong Cảnh
biển của Sotatshu Monomura; Màu đỏ - Màu trắng của Ogata Korin;
Các cô gái chơi đàn thập lục của Haronobu; Dưới vòm sóng của
Hokusai; Cơn giông, Trạm nghỉ trên đường của Hiroshige Tưởng nh
ư
quá khứ vàng son chỉ còn vang vọng và thực sự nó đã kết thúc vào cu
ối
thế kỷ XIX.
Công cuộc canh tân với khẩu hiệu: Văn hóa Nhật bản + Khoa học kỹ
thuật phương Tây = Nhật Bản phú cường, giàu bản sắc đã thành công
mĩ mãn với nước Nhật.
Triển lãm “Bắc tới Bắc” của nhóm họa sĩ Nhật Bản lần này, như một
lời giải đáp về sự thật nghệ thuật đã phát huy,bi
ến đổi mạnh mẽ với các
thế hệ họa sĩ của xứ sở mặt trời, võ sĩ đạo và Thiền học. Sáu gương m
ặt
Nh
ật Bản và một họa sĩ Việt Nam, đều là hội viên mĩ thuật chuyên
ngành. Họ sinh vào 2 thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX, thế kỷ của cách
mạng thông tin bùng nổ và kinh tế toàn cầu. Họ đã suy nghĩ và sáng t
ạo
đúng với tinh thần thời đại mà họ đã sống, là chủ nhân của đất nước
tiên tiến phú cường. Họ vừa tiếp thu truyền thống, vừa hiện đại hóa
nghệ thuật cho chính mình.
Taniguchi AKASHI. Sinh 1961. Với 2 tác phẩm: một l
à vòng tròn Oval
làn sóng (hình trái xoan dài, méo) với hai màu nâu đậm nhạt. Chất liệu
là gỗ dán mỏng. Tác phẩm thứ hai là bốn hạt thon dài nối kết không
đều theo một vệt dài mỏng manh. Mỗi tác phẩm đều gắn trên bức tư

ờng
trắng, không gian rộng thoáng. Với tính giản lược, đơn b
ạc, không gian
thanh vắng, người xem không thể không nghĩ tới thế giới “sắc sắc -
không không” của Phật - Thiền, vốn là đời sống tinh thần tàng ẩn đã
từng được nuôi dưỡng lâu đời trong tâm thức Nhật Bản.
Fujimoto KAZUHIRO. Sinh 1965. Chỉ với một đoạn thân
trúc khô đen,
đốt và mấu nhô ra, gắn trên tường trắng, điểm vào đó là vài ô vuông có
vẽ hình, tô màu. Dưới nền đất cũng ghép những ô vuông, đặt một bệ
sáp cao (giả đá cẩm thạch) cắm một đoạn trúc khô đen mảnh mai hình
chim nước thân cao mỏ dài đang hướng lên bầu trời. Phải chăng cũng
là con đường tìm về cõi Tâm Định?
Tabata TAKUYA. Sinh 1958. Tác phẩm là một sợi dây thép trắng
mong manh hình sóng gợn như nhịp cầu bắc trên hai trụ cũng là thép
trắng đan xen nhau không theo một trật tự, hơi rối theo chiều thẳng
đứng. Tất cả được gắn trên tường như những sợi chỉ mong manh đầy
tâm tưởng.
Sen dai ARIA. Sinh 1957. Tác phẩm là một chùm hoa lá với các màu
đỏ, xanh, vàng, tương phản, giàu chất trang trí, cũng đặt trên một mảng
tường trắng, không gian khoáng đãng, gợi cho ta nhớ tới những bức
tranh sơn truyền thống Urushi-e.
Saito SHU. Sinh 1968. Tác phẩm là những ô vuông hình màu trừu
tượng nhiều sắc độ ghi nhanh những mẩu sinh hoạt đời thường gắn lãn
g
đãng trên tường và dưới nền.
Bando HIROYA. Sinh 1956. Tác phẩm là những ô vuông xanh, đen,
vàng trừu tượng ghép thành hình chữ thập dài, rộng choán cả một bức
tường. Một sự suy tưởng đầy duy lý, triết luận về sự sống.
Đàm Đăng Lại. Sinh 1973. Họa sĩ Việt Nam. Tác phẩm là những mảnh

sắt sơn đỏ cắt xén không đều nhau theo các hình kỷ hà, dựng vào tư
ờng
và đặt trên mặt sàn. Trên bề mặt những mảnh sắt là những hình chạm
nổi - vòng tròn đồng tâm lồng nhau, vòng tròn đơn tuyến, hình gẫy
khúc răng cưa, hình ngôi sao tám cánh, đường song song Những
motif quen thuộc mà ta thường bắt gặp trên các trang phục hay trang trí
kiến trúc các dân tộc thiểu số vùng cao, hoặc những hình trang trí trên
đồ đồng Đông Sơn, thuộc thời văn minh nguyên thủy của người Việt.
Đó là những dòng sữa mẹ, hay nguồn suối mát nguyên sơ đã nuôi
dưỡng sự nghiệp sáng tạo cho người nghệ sĩ thăng hoa, trở thành “bất
tử”.
Một tập hợp tác giả, tác phẩm khác, như tổng quát phòng tranh, gồm
Đàm Đăng Lại (Việt Nam) với hình đầu người bằng gốm nhìn nghiêng
treo lơ lửng rủ xuống ngang tầm mắt. Bando HIROYA là bức tranh
trừu tượng màu xanh lam - đen khung trắng gắn trên tường. Sen dai
AKYRA với hai chiếc lá sơn màu nâu nhạt và xanh da trời xếp chồng
lên nhau theo một góc vuông lệch. Fujimoto KAZUHIKO là ba chi
ếc lá
khô ép trong ba khối mi ca mỏng trong xanh không đều xếp theo hình
song song đặt trên một bệ vuông trắng.
Tất cả, phải chăng các tác giả đều gặp nhau ở những mạch ngầm tâm
tưởng của thế giới hiện đại và chất Thiền còn vọng về xa xăm trong họ?

“Nghệ thuật Nhật Bản là chất duy lý, luôn biểu lộ một thị hiếu trang trí
đầy màu sắc, hơn là tính vĩnh cửu của một truyền thống triết học như
trường hợp hội họa Trung Hoa. Nó quan tâm đến sinh hoạt đời thường,
nên rất gần gũi với con người.” Đó là nhận định của một số nhà nghiên
cứu và phê bình nghệ thuật. Đối chiếu với những tác phẩm của cuộc
triển lãm, rõ ràng đó là những nhận xét có cơ sở. Các tác giả đã suy
nghĩ và sáng tạo ngay trên cái nền của đất nước và thời đại mà họ đang

sống. Họ rất thành thực, biết thích nghi trong điều hòa thế giới tư
tưởng, tình cảm giữa quá khứ với hiện tại và tương lai. B
ỗng tôi nhớ tới
những dòng viết thật giàu ý nghĩa của nhà văn hóa - xã hội người Pháp
Alain Touraine về xã hội hôm nay: “Hiện đại hóa, đòi hỏi sự cắt đứt
nhưng cũng đòi hỏi tính liên tục. Nếu cắt đứt hoàn toàn thì hi
ện đại hóa
chỉ đến từ bên ngoài, hay sự lệ thuộc, đúng hơn là tính hiện đại. Ngược
lại, đó là tính liên tục thì không trở thành cái khác được, vẫn bất động
và ngày càng kém thích nghi với môi trường đang thay đổi. Tấm g
ương
về sự liên kết, sự thay đổi và tính liên tục, trong một thời gian dài nhi
ều
nước xã hội dân chủ như Thụy Điển, đã biết kết hợp mở cửa kinh tế và
duy trì một sự kiểm soát dân tộc đối với các tổ chức xã hội và văn hóa.
Sự lệ thuộc lẫn nhau của các chủ thể cá nhân và sự bảo vệ cộng đồng
đã đưa tới một tư tưởng trực tiếp đối lập với tư tưởng đã từng thông trị
đời sống trí tuệ. “
Trong thời đại hội nhập - phát triển - toàn cầu hóa, phòng triển lãm mĩ
thuật “Bắc tới Bắc” của nhóm các họa sĩ Nhật Bản, thực sự là một lời
giải đáp rõ ràng, sinh động và tích cực đối với nghệ thuật hiện đại -
đương đại. Cũng là bài học bổ ích cho các nhà văn hóa - nghệ thuật
Việt Nam cần suy nghĩ trong lao động - sáng tạo của mình.
Trần Thức


×