Tải bản đầy đủ (.pdf) (529 trang)

TÌM CỘI NGUỒN CỦA NGÔN NGỮ VÀ Ý THỨC doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 529 trang )


TÌM CỘI NGUỒN
CỦA NGÔN NGỮ VÀ Ý THỨC

Trần Đức Thảo


(Đoàn Văn Chúc dịch)








Tìm thứ nhất


Động tác chỉ dẫn như là hình thức gốc của ý
thức


Tìm thứ hai


Ngôn ngữ hỗn hợp


I. Sự tiến triển của dụng cụ




Từ Dự-người đến Người khả năng


Từ sự chuẩn bị dụng cụ đến sự tu chỉnh nó


Sự phát sinh lao động làm đá. Vượn Kafou như là
giai đoạn thứ hai của sự phát triển dự-thành nhân


Từ tu chỉnh dụng cụ đến sản xuất dụng cụ. Văn hoá
oldovien như là bước kết thúc thời kỳ mang thai


II. Sự ra đời của ngôn ngữ


Dấu hiệu chỉ dẫn triển khai


Những bước đầu ngôn ngữ ở dự-thành nhân


Những dấu hiệu đầu tiên của sự biểu hiện


A. Những bước đầu của sự biểu hiện ở trẻ em



B. Những nguồn gốc của dấu hiệu biểu hiện trong
sự phát triển dự-thành nhân


C. Dấu hiệu chỉ dẫn phức hợp


D. Công thức chung của sự biểu hiện đối tượng
vắng mặt


E. Dấu hiệu biểu hiện hỗn hợp của hình thức
dụng cụ tính


F. Sự bắt chước trì hoãn như là dấu hiệu biểu hiện
hỗn hợp nhấn mạnh của sự vận động của đối tượng vắng
mặt


Câu chức năng


A. Những hình thức sơ đẳng của câu chức năng


Những hình trực tiếp của sự liên lạc cử chỉ tính



B. Những bước đầu của câu chức năng trong sự
phát sinh loài


C. Những loại hình triển khai câu chức năng


D. Sự tách mình của hình thức và sự ra đời của
danh từ


III. Cái nang của phép biện chứng


Vào đề sự cấu tạo câu


Tìm thứ ba


Học thuyết Mácxít và học thuyết tâm phân. Những
nguồn gốc của khủng hoảng ơđipiên


I. Nguồn gốc của giai đoạn tiền Ơđipiên


II. Sự phát sinh của khủng hoảng Ơđipiên



III. Bi kịch sinh học của người nữ và sự ra đời
người-chế tác (homo-faber)


IV. Dấu hiệu của người đàn bà dương vật và
ngữ nghĩa Ơđipiên


V. Biểu tượng thiến và phức cảm Ơđíp nữ


VI. Từ „Ơđíp“ néanderthalien đến Ơđíp ấu thơ





Nguồn: Theo bản gốc Pháp văn Recherches sur
l’origine du langage et de la conscience của Nxb
Editions Sociales, Paris, 1973. NXB Văn hoá Thông tin
1996


Ebook: tovanhung (www.thuvien-ebook.net)

Lời nói đầu
Nếu hỏi một bạn đọc Trần Đức Thảo là ai,
hẳn anh ta lập tức nói là một trong những nhà triết
học của Việt Nam và (với đôi chút ngần ngừ) của
cả thế giới nữa. Nếu hỏi tiếp ông ta đã viết những

gì, và nhất là viết như thế nào, anh ta sẽ rất lúng
túng, nhưng lại có thể kể ra được một loạt giai -
huyền thoại xung quanh tác phẩm của ông. Có
tình trạng đó là vì, một phần đa số tác phẩm của
Trần Đức Thảo viết bằng tiếng Pháp, phần khác
độc giả ta thường vẫn tự bằng lòng với những hiểu
biết đại khái của mình. Trình độ học thuật hiện nay
không còn cho phép bạn đọc, nhất là các nhà
nghiên cứu, làm việc với những hiểu biết truyền
khẩu mà còn phải đọc tư liệu gốc. Hơn nữa, trong
việc kiểm kê di sản để tìm hiểu vốn văn hoá dân
tộc hôm nay, nhất là di sản triết học, tôi nghĩ
không thể bỏ qua những trang viết của Trần Đức
Thảo được. Một di sản muốn có tác dụng phải
phục sinh nó vào đời sống đương đại. Bởi vậy, tôi
cho rằng việc dịch cuốn Recherches sur l’origine du
langage et de la conscience (Tìm cội nguồn của
ngôn ngữ và ý thức), tác phẩm quan trọng nhất
của ông, là một việc làm rất có ý nghĩa.
Trần Đức Thảo sinh ngày 26-09-1917 tại xã
Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Hà Bắc, trong một
gia đình viên chức nhỏ. Năm 1935, sau khi đỗ tú
tài vào loại xuất sắc, ông theo học trường Luật tại
Hà Nội. Năm 1936, ông sang Pháp học để chuẩn
bị thi vào Ecole Normale Supérieure de la Rue d’Ulm
(Trường Đại học Sư phạm phố d’Ulm). Đây là một
trong những trường nổi tiếng của Pháp, chỉ tuyển
dụng những người xuất sắc nhất của đất nước. Có
thể nói, đó là một thứ “siêu đại học”. Bởi vậy nhiều
học giả, nhà nghiên cứu, sau khi tốt nghiệp trường

này, đã có học vị tiến sĩ, nhưng khi viết sách vẫn
không quên chua thêm vào là “cựu sinh viên” của
trường Đại học Sư phạm. Năm 1939, Trần Đức
Thảo thi vào trường đỗ cao, và đến năm 1943 tốt
nghiệp thủ khoa, nhận được học vị thạc sĩ với luận
án La méthode phénoménologique chez Husserl
(Phương pháp hiện tượng luận ở Husserl) Bấy giờ
một số tờ báo ở Pháp và ở Đông Dương coi đây là
một sự kiện đặc biệt, biểu hiện của một tài năng
thiên phú. Sau đó, Trần Đức Thảo đăng kí làm
luận án tiến sĩ về hiện tượng luận Husserl.
Nhưng chiến tranh thế giới II tràn vào Pháp và
Cách mạng tháng Tám thành công ở Việt Nam.
Trần Đức Thảo tích cực tham gia vào những hoạt
động yêu nước ở Pháp và hướng lòng về Việt
Nam. Bấy giờ, hiện tượng luận, trong việc xử lý
mối quan hệ giữa hiện tượng và bản thể, đã chia
thành hai nhánh. Một chú trọng hơn đến hiện
tượng, cái nghiệm sinh, coi hiện tượng là có trước
và tạo ra bản chất. Hai coi bản chất là cái có
trước, và hiện tượng chỉ là sự hiện thực hoá nó.
Nhánh trước dẫn đến chủ nghĩa hiện sinh. Nhánh
sau dẫn đến chủ nghĩa Marx. Nhiều trí thức Pháp
với tinh thần cá nhân đi theo con đường thứ nhất.
Trần Đức Thảo, với tư cách là người Việt Nam,
không thể tách cá nhân mình ra khỏi vận mệnh
dân tộc, đã chọn con đường thứ hai: chuyển từ
hiện tượng luận sang chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Thế là xảy ra cuộc tranh luận nổi tiếng giữa
nhà triết học Việt Nam với nhà văn, triết gia hiện

sinh Pháp J. P. Sartre. Và tháng 8 năm1961, Trần
Đức Thảo cho in cuốn Phénoménologie et
matérialisme dialectique (Hiện tượng luận và chủ
nghĩa duy vật biện chứng) ở nhà in Minh Tân tại
Paris - Sau đó ông trở về tổ quốc theo đường dây
Paris-London-Praha-Moskva-Bắc Kinh-Tân Trào, bỏ
lại sau lưng cuộc sống sung sướng ở Paris và một
tương lai học thuật rạng rỡ.
Ở chiến khu Việt Bắc, Trần Đức Thảo trở
thành khách mời của Bộ giáo dục, đi điều tra nhiều
cơ sở trường học và chuẩn bị xây dựng nền giáo
dục mới. Ông là Ủy viên Ban Văn Sử Địa, tiền thân
của Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia hiện nay. Sau hoà bình, ông là Phó giám
đốc trường Đại học Sư phạm Văn khoa, rồi chủ
nhiệm khoa Sử, giáo sư Lịch sử triết học, của đại
học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1958, sau vụ
“Nhân văn-Giai phẩm”, ông chuyên nghiên cứu
những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê
và trở thành chuyên viên của NXB Sự thật, nay là
NXB Chính trị Quốc gia.
Tuy ở Việt Nam trong hoàn cảnh thông tin
thiếu, Trần Đức Thảo vẫn tiếp tục đọc sách báo,
trao đổi học thuật với các học giả Pháp. Đặc biệt,
ông vẫn tiếp tục nghiền ngẫm cái điều mà ông đã
tự đặt ra cho mình được viết trong Lời mở đầu của
cuốn Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện
chứng năm 1951: tìm trong chủ nghĩa Marx “cách
xử lý khả thủ duy nhất những vấn đề do hiện
tượng luận đặt ra”. Những tìm kiếm của ông được

đăng dần trên tạp chí La Pensée (Tư tưởng) từ
năm 1966 đến 1970, và năm 1973 được Editions
Sociales (Xuất bản xã hội) in dưới tiêu đề Tìm cội
nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Sau khi sách ra đời
đã được dịch ra nhiều thứ tiếng ở châu Âu, và
được in ở Mỹ năm 1981.
Sau đại hội VI, Trần Đức Thảo cho ra đời
cuốn Vấn đề con người và chủ nghĩa “lý luận không
có con người” (NXB TP Hồ Chí Minh, 1988). Năm
1992, Trần Đức Thảo được sang Pháp chữa bệnh
và lấy thêm tư liệu để viết công trình La logicque
du présent vivant (Logic của cái hiện tại sống
động). Nhưng tiếc thay, cuốn sách chưa hoàn
thành thì ông ngã bệnh và qua đời ở Paris ngày
19-04-1993. Di hài Trần Đức Thảo được đưa về
Hà Nội và chôn ở nghĩa trang Văn Điển. Có thể nói,
cái chết của Trần Đức Thảo đã thức dậy ở độc giả
Việt Nam ham muốn tìm hiểu tác phẩm của ông.
Việc xuất bản các bài giảng của ông dưới tiêu đề
Lịch sử tư tưởng trước Mác (NXB Khoa học Xã hội,
1995) là một bằng chứng. Việc có người dầy công
nghiền ngẫm và dịch cuốn Tìm hiểu cội nguồn của
ngôn ngữ và ý thức là một bằng chứng khác.
Con người sở dĩ thành người chính là ở chỗ nó
có ý thức. Ví dụ nổi tiếng của Marx về sự khác
nhau giữa một con ong khéo léo nhất với một kiến
trúc sư tồi nhất đã nói lên điều đó. Nhưng ý thức
bắt nguồn từ đâu và có từ bao giờ; đó là niềm băn
khoăn lớn của nhân loại và cũng là câu hỏi mà
Trần Đức Thảo muốn trả lời bằng cuốn Tìm cội

nguồn của ngôn ngữ và ý thức. Có hai con đường
để nghiên cứu hồi cố sự phát sinh của ý thức:
Nghiên cứu qua cử chỉ và ngôn ngữ ở trẻ nhỏ.
Qua những tư liệu về người tiền sử. Hai phương
pháp này bổ trợ cho nhau rất tốt, và cũng tuỳ
theo từng trường hợp cụ thể mà lấy một trong hai
cái làm chủ đạo. Có thể làm được như vậy là vì sự
phát sinh tộc loại luôn luôn lặp lại trong sự phát sinh
cá thể. Chính định đề này là sợi chỉ vừa xuyên suốt
vừa bện kết ba nghiên cứu như riêng Trần Đức
Thảo thành một cuốn sách hoàn chỉnh.
Nghiên cứu thứ nhất có tiêu đề Hành động chỉ
dẫn như là hình thức gốc của ý thức khảo về dấu
hiệu đầu tiên nhờ đó mà con người vượt qua con
khỉ. Đó là việc người nguyên thuỷ đi săn thì bao giờ
cũng nhằm vào con yếu nhất trong bầy thú và chỉ
cho người khác. Đầu tiên chỉ người khác rồi mới chỉ
đến con thú, cử chỉ vòng cung. Cứ như thế, đoàn
người ra dấu cho nhau. Nhưng người chạy sau
cùng thì không còn người khác nữa nên chỉ vào
mình và chỉ vào con vật. Dần dần, từ chỉ vòng
cung đến chỉ thẳng đến con vật kèm theo tiếng
nói… Như vậy, ý thức đầu tiên là ý thức về đối
tượng và bản thân, và sự phân tích của Trần Đức
Thảo soi sáng cho câu của Marx: “Ý thức là một
sản phẩm xã hội nhất thời”. Cuối cùng, ông đi đến
kết luận: Ngôn ngữ là ý thức thực (Marx) bởi vậy
thời điểm gốc của ý thức là ngôn ngữ cử chỉ và lời
nói mà chủ thể hướng vào chính nó sau khi đã
hướng vào người khác.

Ngôn ngữ hỗn hợp là nghiên cứu thứ hai của
cuốn sách, tìm hiểu sự sinh thành của ý thức qua
những biểu thị ngôn ngữ gắn với sự phát triển của
công cụ người. Con khỉ chỉ biết dùng cơ quan tự
nhiên của nó để sử dụng một dụng cụ, còn con
người thì dần dà biết dùng dụng cụ để chế tác ra
công cụ, như việc dùng một hòn đá để ghè một
hòn đá khác thành rìu. Muốn đẽo được thành rìu
thì ít nhất trong óc nó phải có hình ảnh của một đối
tượng vắng mặt và một ngôn ngữ biểu thị cái đối
tượng vắng mặt đó. Dựa theo những dữ kiện mà
các giai đoạn sản xuất tiền sử cung cấp, cũng như
ở tâm lý học trẻ em, Trần Đức Thảo đã phân tích
rất tỉ mỉ sự hình thành ý thức ở homo faber (người
chế tác).
Nghiên cứu thứ ba về Những nguồn gốc của
khủng hoảng Ơđíp. Xuất phát từ sơ đồ của Freud,
nhưng Trần Đức Thảo không cho rằng Ơđíp là một
nguyên bản có nguồn gốc từ quan hệ của trẻ em
với cha mẹ và cần thiết cho sự phát triển cái tôi
của nó, mà là một dư sinh của những giai đoạn
nhất định trong sự phát sinh loài. Thực ra, trong
Vật tổ và cấm kị, Freud cũng đã cho ơđíp có một
nguồn gốc lịch sử, nhưng Trần Đức Thảo phê phán
ông là không đúng khi đồng nhất xã hội người với
bầy động vật. Nhà triết học giải thích mặc cảm
Ơđíp bằng bi kịch sinh học của người đàn bà. Thời
đá cũ sơ kì sản phụ tử vong rất nhiều vì xương
chậu chưa kịp phát triển thích hợp khi con người
đứng thẳng. Do nạn khan hiếm phụ nữ nên lớp

thanh niên phải nhịn sinh lý đối với những người
phụ nữ cùng lớp tuổi của mình cho đến năm ba
mươi tuổi để lấy lớp con cái họ mới mười bốn mười
lăm tuổi. Bởi vậy ham muốn tình dục của một cậu
con trai không phải với chính mẹ đẻ của mfinh, mà
với mẹ vợ mà giờ đều gọi tên chung là “mẹ”. Như
vậy, ham muốn này chỉ là loạn luân từ góc độ ngữ
nghĩa học. Cũng từ luận điểm cơ bản này, tác giả
giải thích mặc cảm Ơđíp ở bé gái và những mặc
cảm khác như mặc cảm thiến hoạn… tất cả đều
bằng lao động xã hội.
Tóm lại, cả ba nghiên cứu đều khẳng định
nguồn gốc của ý thức do ngôn ngữ và lao động xã
hội, khước từ một bản chất người phi lịch sử, khước
từ một Ơđíp kiểu Freud. Người ta thấy, qua tác
phẩm này, Trần Đức Thảo lại làm một bước
chuyển nữa: từ chủ nghĩa duy vật biện chứng đến
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Như vậy, hành trình triết học của Trần Đức
Thảo đi từ hiện tượng luận của Husserl đến chủ
nghĩa duy vật biện chứng, rồi lại từ chủ nghĩa duy
vật biện chứng đến chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đấy
cũng là con đường của một số trí thức lớn của
Pháp, nhưng về sau họ đều “xét lại” tín điều của
mình như E. Morin, R. Aron… Duy Trần Đức Thảo
vẫn trung thành với nó đến hơi thở cuối cùng. Ông
là một nhà triết học trung kiên của chủ nghĩa Mác-
Lê. Sau khi cuốn Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý
thức của ông ra đời, vì có sử dụng sơ đồ của
Freud, nên ông rất ngại bị hiểu lầm là thuộc phái

những người chủ trương kết hợp Marx với Freud,
một xu hướng triết học - tâm phân học lớn ở Tây
phương với những tên tuổi như E. Fromm (La Peur
de la liberté, 1941, L’Art d’aimer, 1954), H.
Marcuse (Eros et civilisation, 1995, l’Homme
unidimentionel, 1964)… Ông đã viết báo cáo để
khẳng định lại vấn đề này. Cuốn Vấn đề con người
và chủ nghĩa “lý luận không có con người” được
viết ra để phản bác lại L. Althusser, nhà triết học
Pháp muốn kết hợp Marx với cấu trúc luận. Trần
Đức Thảo muốn bảo vệ sự thuần nhất của triết
học Mác-Lê.
Tuy không phải là một triết gia (người sáng lập
những triết thuyết, mà chỉ là một nhà triết học
(người nghiên cứu, giảng dạy triết học) nhưng Trần
Đức Thảo là một người suốt đời bận tâm triết học.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù khó khăn về vật
chất hoặc tinh thần, không làm ông thôi suy tư về
nó. Điều đáng quý hơn nữa là ông luôn có ý thức
không để mình lạc hậu so với trình độ tri thức
chung của thế giới. Vì thế, người ta thấy ông lúc
nào cũng đọc, đọc rất nhiều từ dân tộc học, nhân
học tiền sử, đến tâm lý học trẻ em, tâm phân
học… Nhưng có ý thức là một chuyện, còn kịp thế
giới lại là một chuyện khác, bởi phụ thuộc vào
phẩm cách cá nhân một phần, phần khác vào môi
trường thông tin. Bởi vậy, ngày nay đọc sách của
Trần Đức Thảo, bạn đọc có thể thấy đây đó một
số tư tưởng đã cũ, một số những kết luận đã bị tư
liệu mới vượt qua, hoặc những lập luận tuy nhất

quán nhưng còn đơn tuyến cứng nhắc… Đó cũng
là điều dễ hiểu, hẳn vì không ai có thể toàn bích,
không ai chống lại được thời gian. Nhưng đóng góp
lâu dài của Trần Đức Thảo cho học thuật Việt Nam
là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước
hết thể hiện ở một năng lực tư biện cao (điều hiếm
ở Việt Nam) sau đó là khả năng biết đặt và giải
quyết những vấn đề cơ bản của khoa học, phương
pháp nghiên cứu liên ngành… Hình như tất cả
những ưu điểm trên đều hội tụ trong Tìm cội
nguồn của ngôn ngữ và ý thức.
Đỗ Lai Thúy



Tìm thứ nhất
Động tác chỉ dẫn như là hình thức gốc của ý
thức

Một trong những khó khăn chính của vấn đề cội
nguồn của ý thức là biết đặt chính xác những bước
khởi đầu cả nó vào đâu. Phải vạch cụ thể ở đâu
đường phân giới giữa cái tâm thần cảm giác vận
động của các động vật với cái tâm thần hữu thức
mà chúng ta thấy được phát triển ở người?
Hẳn sẽ là tự nhiên khi định niên đại của ý thức
ngay ở chính bước đầu của nhân loại, với sự xuất
hiện những công cụ (outils) đầu tiên mà sự sản
xuất chúng đã bao hàm sự biểu hiện tiên dự hình
dạng chúng trong đầu óc chủ thể đã sản xuất nên

chúng. “Cái phân biệt ngay từ thoạt kỳ thủy- Marx
viết- người kiến trúc tồi nhất với con ong thành
thạo nhất, ấy là người kiến trúc đã xây dựng cái cơ
cấu trong đầu ông ta trước khi xây dựng nó bằng
sáp. Kết quả mà lao động đi tới, tiền tồn một cách
ý tưởng trong trí tưởng tượng của người lao động.”
[1]

“Như thế, những người đầu tiên xuất hiện ở thời kỳ
tiền- chélléen, với hoạt động sản xuất, đã có một
hình thức sơ đẳng của ý thức”. Nhưng liệu đó đã
phải
hình thức sơ đẳng
nhất? Nếu cho rằng đó là
hình thức sơ đẳng nhất, chúng ta phải giải thích nó
trực tiếp bằng sự phát triển của hoạt động dụng cụ
tính như nó bắt đầu xuất hiện ở vượn. Mà đó là
điều khó có thể, bởi sự sử dụng những vật tìm
thấy trong thiên nhiên làm dụng cụ chỉ là một
công
việc thích nghi
với hoàn cảnh hiện diện. Hình thức
của dụng cụ tự nhiên có thể thay đổi từng lúc,
miễn sao nó cho phép thoả mãn cách này hay
cách khác nhu cầu tức thời. Ngược lại, sự biểu hiện
của công cụ bao hàm hình ảnh về một hình thức
ổn định, cố định trong bản thân nó một lần là
xong. Thói quen của sự hoạt động dụng cụ trong
những điều kiện tự nhiên tất sẽ làm cho chủ thể
động vật khéo léo hơn, nhưng người ta không hề

thấy làm thế nào mà hoạt động dụng cụ, bằng
bản thân nó, lại có thể dẫn chủ thể vượt qua
những yêu sách tức thời của tình thế hiện diện mà
vươn tới sự biểu hiện ý tưởng tính một hình thức
điển hình, là cái ắt sẽ cho phép chủ thể chuyển
sang sự sản xuất công cụ.
Tất nhiên rằng giữa lao động thích nghi như ta
thấy ở tình trạng rời rạc ở những người vượn
(anthropo; ides), với hình ảnh ý tưởng tính về công
cụ mà người vượn Java (le Pithécanthrope) đã phải
có trong đầu osc để có thể đi vào lao động sản
xuất, khoảng cách là quá lớn để đi vào lao động
sản xuất, khoảng cách là quá lớn để không thể
vượt bằng một lần là xong. Vậy là phải tìm bước
khởi đầu của ý thức trong một giai đoạn trung
gian, trước khi xuất hiện con người cổ sơ nhất.
Những tìm tòi của khoa nhân học mácxít đã xác
lập sự hiện tồn của một giai đoạn
dự- thành nhân
(state préhominien)
, được đại diện nhất là bởi các
hài cốt của vượn Nam phương (l’Australopithèque):
“Vượn Nam phương là những linh trưởng phát triển
cao, đi hai chân trên mặt đất, và trong quá trình
tiến hoá thích nghi với các điều kiện khó khăn của
môi trường bao quanh, đã đạt tới sử dụng có hệ
thống một số đối tượng với tư cách là dụng cụ.”
[2]
Ở đây là một giai đoạn trong đó chủ thể đã
được nâng lên trên tính thú vật đúng nghĩa, bằng

cách có thói quen lao động thích nghi, nhưng vẫn
chưa đạt tới hình thức sản xuất đặc thù của xã hội
người. Vậy ấy là ở trình độ mà chúng ta phải tìm
hình thức nguyên thủy của ý thức, như nó nảy
sinh trong dòng đi của sự phát triển của hoạt động
dụng cụ tính, là cái, bắt rễ trong sự tiến hóa động
vật, thực thao sự chuyển đoạn sang loài người.

*
Ý thức phải được khảo cứu trước hết trong “tính
hiện thực trực tiếp” của nó: ngôn ngữ, tất nhiên
hiểu theo nghĩa chung, là ngôn ngữ cử chỉ và ngôn
ngữ khẩu thiệt. Ngôn ngữ vốn được cấu thành
ngay trên bản than động tác lao động thích nghi,
bắt đầu từ trình độ người vượn: “Trước hết là lao
động, rồi sau đó và đồng thời với nó là ngôn ngữ:
đấy là hai kích thích tố chủ yếu, do ảnh hưởng của
chúng mà bộ óc con vượn dần dần biến thành bộ
óc của người,” Engels viết như vậy.
[3]

Những con vượn, mà chúng ta đã biết, không thực
sự nói tiếng nói. Vô số thủ đoạn diễn đạt của
chúng- cử chỉ, tiếng kêu… liên quan nhiều đến
phương diện xúc động, chủ yếu sinh học, của tình
thế. Chúng cũng có thể dung những tín hiệu cho
những ứng xử nào đó nhưng không có ý nghĩa
thực sự, với tư cách là ý nghĩa về đối tượng, điều
ấy chứng minh sự vắng mặt ở con vượn mối quan
hệ hữu thức với đối tượng như được diễn đạt cụ

thể trong ngôn ngữ. Ngay cả những người vượn
cũng không có được dấu hiệu ngôn ngữ sơ đẳng
nhất: cử chỉ chỉ dẫn (le geste de l’indication). Người
ta có thể thấy điều ấy qua mẩu chuyện sau đây
của người chủ một con khỉ đột: “Người hang thịt
vừa mới đem đến cho tôi một súc thịt bò, và như
mọi lần tôi cho nó một miếng thịt sống, tôi cắt một
miếng bạc nhạc ở rìa súc thịt đưa cho nó. Nó nếm
thử và đưa trả lại tôi một cách trịnh trọng. Rồi,
cầm tay tôi nó đặt vào chỗ ngon của súc thịt. Tôi
bèn cắt một miếng nhỏ, cho nó, nó ăn.”
[4]

Tất nhiên đấy là một con vật rất thông minh.
Nhưng lịch sử chỉ rõ ràng rằng sự thông minh súc
vật không đạt tới trình độ của ý thức. Nếu con khỉ
đột có tri giác
hữu thức
về miếng thịt bò, thì hẳn
nó chỉ việc
chỉ vào
chỗ thịt nó muốn, bằng cách giơ
tay chỉ vào đó, chắc chắn không phải bằng ngón
tay, nhưng ít nhất cũng bằng bàn tay. Cử chỉ chỉ
dẫn đánh dấu quan hệ sơ đẳng nhất của ý thức
với đối tượng với tư cách là đối tượng bên ngoài.
Tất nhiên là con vật tri giác rõ đối tượng bên ngoài
nhưng tính ngoại hiện của đối tượng đối với nó
không tách rời khỏi tổ chức cảm giác- vận động
của chính nó. Nói khác, hình ảnh đối tượng mà tri

giác nó đem lại cho nó chỉ được xác định tùy theo
các khả năng hoạt động của chính thân thể nó-
được nối dài nhiều hay ít bởi những vật thể khác
mà nó có thể điều khiển. Vậy đối tượng đối với nó
là cái nó có thể thực tại
đụng tới
, trực tiếp hay qua
một trung gian: đó chính xác là điều con khỉ đột
làm với miếng thịt, bằng trung gian của bàn tay
chủ nó là cái, có thể nói, nối dài động tác của chính
bàn tay nó. “Và đúng là bởi hình ảnh tâm thần về
đối tượng trình ra như thế là tiếp cận với những
động tác ảo đã được phác thảo ít nhiều trong
chính thân thể con vật, mà con vật thì thấy mình
bất lực để
chỉ dẫn
đối tượng từ xa, dù khoảng
cách ấy chỉ rất ngắn. Nói khác, nó không có hình
ảnh về khoảng cách với ý nghĩa là khoảng cách,
đến mức nó tri giác rõ đối tượng ngoại tại nhưng
không tri giác đối tượng là
ngoại giới
trong tính
ngoại hiện khách quan. Mà tính cách chủ yếu nhất
của tri giác người, với tư cách
tri giác hữu thức
lại
cụ thể là nhằm vào đối tượng ngoại giới
là ngoại
giới

, trong tính ngoại biên khách quan, điều ấy bao
hàm hình ảnh của khoảng cách với ý nghĩa là
khoảng cách, hình ảnh về quan hệ giữa tính ngoại
hiện của đối tượng đối với chủ thể.” Đó tất nhiên là
cơ sở của thứ “
chủ nghĩa hiện thực ngây thơ”
của
mỗi người lành mạnh về trí tuệ, mà Lénin nói, tức
là niềm xác tín rằng sự vật, môi trường, thế giới
tồn tại
độc lập
với cảm giác.

Như chúng ta thấy thế ở người, cử chỉ chỉ dẫn
được trình ra dưới hình thức kép. Đứa trẻ chỉ vào
một lọ mứt với mẹ nó, nó có thể hoặc lấy ngón trỏ
chỉ thẳng vào đối tượng, hoặc làm một động tác
hình cánh cung, trước tiên bàn tay giơ về phía mẹ
sau đó chỉ vào đối tượng. Ở người lớn, cử chỉ được
thực hiện gần như hoàn toàn theo đường thẳng,
nhưng hình thức đường cánh cung cũng có thể
diễn ra trong những lúc xúc động. Như khi tôi chỉ ra
cho ai cái cửa, cố nhiên ngón tay tôi sẽ rọi vào cái
cửa. So khi tôi đang tức giận, có thể tôi bắt đầu
bằng chỉ ngón tay vào người đương sự, sau đó chỉ
ra cửa. Bởi chúng ta biết rằng những hình thức sơ
khai của ứng xử tái xuất hiện trong xúc động, nên
ta có thể nghĩ là động tác hình cánh cung ấy đã

×