Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Tìm hiểu về quan họ docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.83 KB, 158 trang )


Quan họ
Quan họ là một làn điệu dân ca, một
lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng
bằng Bắc Bộ, Việt Nam mà tập trung chủ
yếu ở vùng Bắc Ninh-Kinh Bắc.
Nội dung chính trong buổi hát quan họ
thường là khi hai bên nam-nữ hát đối nhau.
Bên nam gọi là liền anh, bên nữ gọi là liền
chị. Các câu hát có thể được chuẩn bị sẵn,
nhưng ra đến khi đối đáp nhau thì thường
dựa trên khả năng ứng biến của hai bên.
Các chàng trai, cô gái xứ sở quan họ
hào hứng, hồi hộp đón chờ ngày hội làng,
bởi trong những ngày hội đó, họ được thức
thâu đêm, suốt sáng để được nghe, được
hát và thi hát. Qua đó, họ học thêm ở nhau
những câu ca, những làn điệu mới, họ tìm
thấy ở nhau sự đồng cảm qua những ánh
mắt, nụ cười.
Quan họ hiện đã được Thủ tướng
Chính phủ đồng ý giao cho Bộ Văn hóa
Thông tin có kế hoạch lập hồ sơ đề nghị
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi
vật thể của thế giới.
Các loại làn điệu quan họ
Các làn điệu quan họ cổ: La rằng,
Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn,
Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi,
Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát trăng
thanh, Tứ quý


Làng Quan họ quê tôi -
Mối liên hệ giữa thi ca và âm
nhạc
Bài thơ Làng Quan họ của nhà thơ
Phan Hách được sáng tác năm 1969 đầu
tiên in trên báo Văn nghệ, đó là tâm tư,
tình cảm của nhà thơ trước cuộc đời và
cuộc kháng chiến chống Mỹ, đồng thời
xuyên suốt đó là một không gian văn hóa
Quan họ hiện lên trên từng lời thơ. Bài thơ
đã được nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo phổ
nhạc năm 1978 thành bài hát Làng Quan họ
quê tôi - một trong những bài hát đặc sắc
và tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của âm nhạc
bác học đến dân ca.
dân ca Quan họ có những mạch ngầm
cảm xúc phù hợp với mạch cảm xúc của
thi ca và đó cũng là mạch cảm xúc của con
người Việt Nam. Chính giá trị nghệ thuật
đó là nguồn thi hứng, nguồn chất liệu dồi
dào để nhà thơ viết lên những vần thơ đậm
chất Quan họ. Nguyễn Phan Hách sinh ra,
lớn lên trên vùng quê Quan họ, là người
say mê và am hiểu Quan họ. Chính tình yêu
và tâm hồn đồng điệu với những làn điệu
Quan họ đã khơi nguồn cảm xúc để nhà thơ
viết bài Làng Quan họ, bài thơ đã tái hiện
được những nét văn hóa cổ truyền của
Quan họ với những:
Tháng giêng mùa hát hội

Áo nâu ướp hương trầm
Nón thúng quai thao rủ
Buông dài nếp xống thâm
Đối với người dân vùng Kinh Bắc mùa
xuân tháng giêng là mùa của lễ hội, tình
yêu đôi lứa. Bài thơ nhắc đến những hình
ảnh quen thuộc của Quan họ ở đấy là
những câu ca, nón thúng quai thao, áo nâu,
cửa đình, rồi đến hình ảnh chị cả tựa mạn
thuyền, Quan họ về trao duyên tất cả cho
thấy một không gian văn hóa của người
Kinh Bắc hiện lên trên trang thơ đầy ắp
chất Quan họ.
Bên cạnh đó Làng Quan họ còn là
những vần thơ miêu tả về không khí chiến
đấu chống Mỹ của dân tộc, lời ca Quan họ
theo người chiến sỹ lên đường ra trận,
người phụ nữ đưa chồng, tiễn người yêu
cũng bằng câu hát:
Em tiễn anh lên đường
Đứng bên bờ em hát
Muốn gửi đi theo anh
Cả dòng sông trong mát.
Với người Kinh Bắc câu ca Quan họ
giờ đây không chỉ là câu hát đơn thuần
trong những ngày lễ hội, nó còn là những
tâm tư nguyện vọng, là tình cảm quê
hương, là tình yêu đôi lứa và hơn hết được
lồng vào tình yêu đất nước.
Từ sáng tác của thi ca đến âm nhạc bác

học là một quá trình sáng tạo và biến đổi.
Đến năm 1978 bài thơ Làng Quan họ được
nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo phổ nhạc và có
tên là Làng Quan họ quê tôi. Như vậy sau
mười năm bài thơ tồn tại theo đúng nghĩa
của một bài thơ, Làng Quan họ đã được
chắp lời ca tiếng hát từ đó tồn tại trong
một loại hình nghệ thuật mới. ở đây phải
kể đến vai trò của người nhạc sĩ là rất
quan trọng, Nguyễn Trọng Tạo đã thổi vào
bài thơ một sức sống mới, một tâm hồn
đồng điệu giữa thi ca và âm nhạc, từ đó
tạo ra sự hài hòa cân đối và sâu lắng. Khi
trở thành một tác phẩm âm nhạc, bài hát
Làng Quan họ quê tôi đã có một sức sống
mới, có sự biến đổi để phù hợp trong môi
trường tồn tại của mình. Đối chiếu giữa
hai văn bản của thơ ca và âm nhạc chúng
ta rất dễ dàng nhận ra điều đó. Nhạc sĩ
Nguyễn Trọng Tạo đã bắt được cái hồn
của bài thơ, ông không lấy nguyên mẫu
từng câu từng chữ trong Làng Quan họ, mà
sử dụng những câu, những đoạn phù hợp
với ý tưởng của mình.
Cho đến nay bài hát Làng Quan họ quê
tôi từ một tác phẩm âm nhạc bác học trở
thành một bài hát dân ca, chính xác hơn là
lẫn vào dân ca và tồn tại như một bài dân
ca Quan họ, đây thật sự là một trường hợp
hy hữu và rất đặc biệt. Có được điều này

bởi trong Làng Quan họ quê tôi chứa đựng
những yếu tố của Quan họ, từ lời ca đến
nhạc điệu đều đạt đến chuẩn mực của một
bài Quan họ với những câu thơ sâu lắng,
duyên dáng và nhạc điệu nhẹ nhàng, tình
tứ. Nhà thơ và người nhạc sĩ đã có sự
đồng cảm, gắn tình yêu quê hương đất
nước với tình yêu lứa đôi, gắn truyền
thống với hiện tại.
Từ Làng Quan họ đến Làng Quan họ
quê tôi biểu hiện sự ảnh hưởng của Quan
họ đối với thi ca, thi ca đối với âm nhạc
bác học và âm nhạc bác học đối với dân
ca (âm nhạc dân gian). Có thể nói đây là
hiện tượng tiêu biểu cho ảnh hưởng của
văn nghệ dân gian đến những sáng tác hiện
đại và ngược lại. Hiếm có một loại hình
nghệ thuật dân gian nào lại có được sự ảnh
hưởng đến văn chương mạnh mẽ như Quan
họ và cũng hiếm có một bài thơ nào lại
được sáng tác và trở thành một bài dân ca
Quan họ hay đến vậy. Bài hát Làng Quan
họ quê tôi đã tồn tại trong những môi
trường như thế.
Theo BBN
Quan họ làng Diềm
Nếu như hội Lim được đông đảo khách
thập phương biết đến bởi quy mô vùng
miền, diễn ra trên phạm vi không gian rộng
lớn thì lễ hội đền Vua Bà gói gọn trong

một đơn vị hành chính nhỏ hẹp hơn, ấy là
làng Diềm. Tuy vậy, đối với giới nghiên
cứu văn hoá dân gian, đây mới là một lễ
hội đậm đặc nét văn hoá Quan họ mà ít bị
phân tán bởi các hoạt động bên lề.
Trong 49 làng Quan họ gốc, chỉ ở
Diềm mới có đền thờ Thủy tổ Quan họ gọi
là đền Vua Bà. Theo tục lệ của làng, một
năm có 4 tiết lệ chính là: Hội chùa (15
tháng Giêng âm lịch), Hội đền Vua Bà (6 -
2), Hội tát giếng (3 - 3), Hội đình (6 - 8),
mỗi tiết lệ có một sắc thái riêng, trong đó
Hội đền Vua Bà - kỷ niệm ngày Đức Vua
Bà du xuân giáng hạ xuống Trang Viêm Xá
là hoạt động có tính chất tâm linh truyền
thống, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ
nguồn” của người dân miền Quan họ.
Trong Hội đền Vua Bà truyền thống, dân
làng tổ chức lấy nước từ giếng Ngọc để
làm lễ bao sai, sau đó cử hành tế lễ. Đến
tối tất cả các bọn Quan họ trong làng tụ tập
trước cửa đền Vua Bà hát Quan họ với nội
dung ca ngợi công đức của Người. Mỗi
khi gặp hạn hán, người dân làng Diềm lại
tổ chức lễ cầu đảo tại đền mong mưa thuận
gió hoà, mùa màng tốt tươi, vật nuôi sinh
sôi nảy nở. Hội đền Vua Bà mấy mươi
năm nay không còn được tổ chức bài bản
và đầy đủ như trước đây nữa song vẫn giữ
nguyên giá trị tâm linh, đặc biệt là trong

sinh hoạt văn hoá Quan họ ở 5 mặt hoạt
động: Dân ca Quan họ, tục kết bạn Quan
họ, văn hoá hành vi Quan họ, lễ hội Quan
họ và tín ngưỡng Quan họ. Năm nay, phần
Khai mạc lễ hội được tổ chức ngắn gọn,
sau các tiết mục văn nghệ của chi Hội
Người cao tuổi thôn, màn biểu diễn của
của dàn nhạc gồm 9 trống, 4 chiêng do
Viện Văn hoá - Thông tin (Bộ Văn hoá -
Thông tin) trao tặng năm 2006 tạo ấn
tượng đặc biệt. Tiếng trống hội muôn đời
vẫn thế, dồn dập, rộn ràng thúc giục bước
chân du khách mau về với hội để thưởng
thức những giá trị văn hoá riêng có vùng
Thủy tổ. Trong lễ hội đền Vua Bà, ở đâu
du khách cũng nghe những giai điệu trầm
bổng hội tụ đủ vang – rền – nền – nảy của
người Quan họ. Dù là trong đền Cùng, đền
Vua Bà, trên thuyền rồng hay ở “nhà chứa”
của các bọn Quan họ thì những lời ca đằm
thắm, mượt mà của Quan họ sở tại giao
lưu với các làng kết bạn và khách thập
phương vẫn làm mê đắm hồn người. Đến
làng Diềm ngày thường đã thấy Quan họ là
đặc trưng, ngày đông hội tưởng như là khí
thở bởi người người hát Quan họ, nhà nhà
hát Quan họ. Ngay tại trung tâm văn hoá
của thôn, chúng tôi được thưởng thức
“Khách đến chơi nhà” do 2 liền chị
Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Thị Hải – cặp

hát đối đạt giải Nhất 50 bài tại Hội thi Hát
Quan họ đầu xuân Đinh Hợi trình bày.
Quan họ giống như dòng suối cứ chảy mãi,
chảy mãi được tiếp nối muôn đời. Du
khách mọi miền tìm đến hội Diềm cũng
bởi để thoả lòng mong ước được thẩm thấu
thứ âm nhạc độc đáo ấy. Chị Trịnh Lan Ly
công tác ở Hà Nội năm nào cũng ghé hội
Diềm cất công tìm học cho được đôi ba
làn điệu Quan họ cho biết “Tôi có thể thức
thâu đêm để được nghe các liền anh, liền
chị hát canh. Thật khó lý giải vì sao mình
lại yêu thích đến thế lối hát truyền thống
này, dường như có một sự giao hoà đặc
biệt giữa tâm hồn những người hát để rồi
lưu lại sau mỗi lần gặp mặt là nỗi vấn
vương thật khó tả ”

Hội đền Vua bà ít ồn ào mà sâu lắng,
nhẹ nhàng, đúng như phong thái của người
Quan họ. Lễ hội tôn vinh Đức Vua Bà đã
không còn chỉ của riêng làng Quan họ
Viêm Xá mà đã trở thành một tín ngưỡng
độc đáo hướng về một vị nữ vương có
công lớn khai sinh và truyền dạy sinh hoạt
văn hoá Quan họ.
Theo BBN
Đôi điều về Công, Dung,
Ngôn, Hạnh của phụ nữ
Quan họ

Trong lễ giáo xưa, những chuẩn mực
để đánh giá người phụ nữ là Tam Tòng
(Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng phu, Phu
tử tòng tử), Tứ Đức (Công, Dung, Ngôn,
Hạnh). Trải qua tiến trình lịch sử, có
những giá trị, chuẩn mực không còn phù
hợp nữa. Tuy nhiên, sự phát triển luôn gắn
liền với tính kế thừa. Trong truyền thống
và đương đại “Tứ Đức” của người phụ nữ
Quan họ thể hiện như thế nào?
Theo quan niệm xưa, Công là sự khéo
léo của phụ nữ trong việc làm tại gia đình.
Họ phải biết sắp xếp công việc sao cho
hợp lý, việc gì cũng cần chu đáo, không
chỉ khéo léo về nữ công gia chánh, đảm
đang nội trợ mà còn phải biết “đối nội, đối
ngoại” khôn khéo, nuôi dạy con cái khỏe
mạnh, chăm ngoan. Sự tháo vát, nhanh
nhạy của người phụ nữ Quan họ ngày xưa:
“Gái Nội Duệ-Cầu Lim đẹp người, đẹp nết
vẫn được ngợi ca “Bấy lâu con gái làng
nhà/Đảm đang nức tiếng, tài hoa nhất
vùng/Đã thạo dệt cửi, lại giỏi nữ
công/Ngược xuôi Nam Bắc, gánh gồng bán
buôn”. Người phụ nữ thời nay ngày càng
tham gia nhiều hơn vào các hoạt động xã
hội, họ không chỉ “đảm việc nhà” mà còn
“giỏi việc nước”.

Dung là sự hòa nhã trong sắc diện. Đó

là vẻ đẹp của sự hài hòa giữa hình thức và
tâm hồn. Thời thế thay đổi, song không ít
chuẩn mực vẫn nguyên chân giá trị. Vẻ đẹp
mang tính cổ truyền của người phụ nữ thời
xưa “Những cô hàng xén răng đen/ Cười
như mùa thu tỏa nắng” không còn phù hợp
với nhịp sống hiện đại nữa, nhưng có ai
phủ nhận “Cái nết đánh chết cái đẹp”? Sắc
đẹp là diễm phúc. Nhưng bản thân cái đẹp
không phải là đức tính. Nữ tính là nét
chung, chỉ cần gọn gàng, tinh tế trong cách
ăn mặc, trang điểm, một vẻ mặt tươi tắn,
phong thái cởi mở, khiêm nhường thì
người phụ nữ đã đẹp lên rất nhiều trong
mắt người khác giới. Về cách ăn mặc,
trang phục truyền thống của người phụ nữ
Kinh Bắc nói riêng và vùng đồng bằng
Bắc Bộ nói chung chủ yếu là áo, yếm, váy
một kiểu. Ngày nay, sự giao thoa với cộng
đồng thế giới và do công việc đã khiến
trang phục của chị em thật phong phú về cả
màu sắc lẫn kiểu cách. Họ quan tâm xem
mặc trang phục gì, khi nào và ở đâu để
vừa đẹp lại vừa thuận tiện, thoải mái. Nếu
là công chức, họ nhanh nhẹn, năng động
với bộ vest công sở; nếu là công nhân ở
các khu công nghiệp mặc bảo hộ lao động,
cuốn gọn mái tóc dài duyên dáng để bảo
đảm an toàn trong sản xuất Tất cả thể
hiện họ là phụ nữ của thế kỷ XXI, bao hàm

trong chữ Dung là sự hòa quyện giữa tâm
hồn và hình thức.

Các cụ ta có câu “Chim khôn kêu tiếng
rảnh rang/Người khôn nói tiếng dịu dàng
dễ nghe”, lời nói có duyên bao giờ cũng
gây được thiện cảm với người nghe. Ngôn
trong Tứ Đức là lời nói dịu dàng, có
duyên. Không thể phủ nhận sức thuyết phục
của người phụ nữ mỗi khi lên tiếng khuyên
chồng, dạy con ở nhà, cho đến dàn xếp
công việc, thương lượng trong kinh doanh,
buôn bán. Quan niệm về Ngôn của người
con gái thời nay kế thừa, phát triển để phù
hợp với sự giao lưu rộng rãi với thế giới
bên ngoài. Phụ nữ hôm nay vẫn “học ăn,
học nói” để nói năng lịch thiệp, xã giao
khéo léo, mạnh dạn, ứng xử thông minh và
có kiến thức. Tìm về với sinh hoạt văn hóa
Quan họ để thấy sự khéo léo của các liền
chị. Quan họ mời nhau miếng trầu mà gửi
biết bao nhiêu tình cảm “Cái miếng trầu
ngon kết ngãi đá vàng/ Đá vàng là bạn
trăm năm/Nguyện xin hảo hợp sắt cầm hòa
hai/Trầu này thắm mãi không phai” Cái
duyên của người Quan họ đã vấn vít bao
khách thập phương khi đến với vùng đất
Kinh Bắc-Bắc Ninh để mỗi mùa xuân-mùa
trẩy hội cứ “đến hẹn lại lên”-“Quan họ trở
ra về có nhớ đến chúng em chăng?/Ai đem

người ngọc thung thăng chốn này/Quan họ
trở ra về khăn áo người gửi lại đây/ Chữ
nhớ thương em xếp để dạ này bao quên”.
Chẳng phải chỉ ngày xưa mà cả thời nay,
phụ nữ Kinh Bắc vận áo mớ ba mớ bảy,
cất câu “Người ơi, người ở đừng về” với
đầy đặn vang, rền, nền, nảy thì có ai mà
không lưu luyến, vấn vương?

Hạnh thể hiện phẩm chất đạo đức của
người phụ nữ. Đó là thương chồng, thương
con, giàu lòng nhân ái, đức hy sinh, son sắt
thủy chung “Chồng em áo rách em
thương/Chồng người áo gấm xông hương
mặc người” (Ca dao). Vẫn cần giữ nguyên
những phẩm chất đó, phụ nữ thời nay còn
là những công dân sống có trách nhiệm với
cộng đồng, họ có ước mơ, có hoài bão và
biết nỗ lực để biến ước mơ, hoài bão ấy
trở thành hiện thực.

Trong thước đo của xã hội hiện đại,
Công, Dung, Ngôn, Hạnh có nhiều thay
đổi. Song là sự kế thừa và phát triển thêm
những giá trị để phù hợp với thời đại. Sự
tiếp biến về văn hóa khi giao lưu với cộng
đồng quốc tế là sự hòa nhập chứ không
hòa tan. Và với người phụ nữ Việt Nam
nói chung, người phụ nữ Kinh Bắc-Bắc
Ninh nói riêng, những phẩm chất tốt đẹp ấy

vẫn cần được lưu giữ
Vũ Thanh Phúc
Giá trị nội dung tư tuởng
của sinh hoạt văn hóa Quan
họ
Khi quan niệm Quan họ là một hình thái sinh
hoạt văn hóa dân gian, một tổng thể do
nhiều yếu tố văn hóa nghệ thuật hợp thành,
trong đó, nổi bật là giá trị của nghệ thuật ca
hát Quan họ, thì giá trị nội dung tư tưởng của
Quan họ bao hàm nhiều ý nghĩa phong phú,
sâu, rộng hơn.
Quan họ là một tổng thể hợp thành từ nhiều
yếu tố văn hóa hóa nghệ thuật dân gian xứ
Bắc (tên gọi theo sự phân vùng văn hóa dân
gian, chỉ vùng đất phía Bắc Thăng Long, sông
Hồng, chủ yếu là đất Bắc Ninh ngày nay),
trong một quá trình lịch sử lâu dài, có nhiều
tầng, nhiều lớp trong một chỉnh thể văn hóa;
gắn bó với văn hóa, văn minh làng xã, thu
hút và biểu hiện những ước mơ tập hợp và
hành động chung cho những nguyện vọng,
những khao khát của con người xứ Bắc nhiều
đời, đối với quyền sống, quyền hưởng hạnh
phúc của con người trên bình diện văn hóa -
xã hội.
Theo chiều dài lịch sử, quan họ đã sáng tạo,
dung nạp, chuyển hóa, sinh thành, đào thải
để thích nghi, đáp ứng những nhu cầu về văn
hóa, nghệ thuật, những nguyện vọng về

cuộc sống của cộng đồng người sáng tạo,
nuôi dưỡng, giữ gìn, phát triển Quan họ,
trong mọi chặng đường lịch sử, nên giá trị nội
dung bản chất của quan họ giàu có, phức
tạp, đa diện. Ðến với ngày hội có hàng trăm
nhóm quan họ nam nữ tươi vui, mời chào, ca
hát hoặc đến với một canh hát do quan họ
gái, trai mời nhau đến nhà ca một canh
"mừng xuân, mừng hội, vui bàu, vui bạn "
ta có thể thấy ở đây sự phô diễn dồn nén,
tích tụ, sinh động những giá trị của văn hóa
quan họ: người đẹp, trang phục đẹp, cử chỉ
đẹp, ngôn ngữ đẹp, tiếng nói, tiếng cười,
miếng trầu, chén nước đều có chuẩn mực
văn hóa, thắm đượm tình người, nghĩa nặng,
ân sâu. Tiếng hát quyện hòa thơ nhạc, bổng
trầm, non nỉ, thiết tha, âm vang, đối đáp,
bay lượn, quấn quýt trong một tổng thể vẻ
đẹp ấy từ chập tối đến tàn canh đã đưa mọi
người vào một thế giới của tình bạn, tình
yêu, tình người "sum họp trúc mai", "bốn bể
giao tình", thế giới lung linh, say đắm của
sáng tạo và thưởng thức nghệ thuật, thật sự
mang lại những khoảnh khắc hạnh phúc cho
con người. Cho nên, đến với Quan họ là đến
với sự liên kết con người bằng sợi dây ân
nghĩa, yêu thương, của tình bạn trọn đời, tình
bạn truyền đời, tình yêu nam nữ mang màu
sắc lý tưởng kiểu Quan họ, như phong tục, lề
lối Quan họ đã ước định. Con người có thêm

sức mạnh, niềm tin yêu để chống lại sự cô
đơn, sự bất lực trước một xã hội còn nhiều
bất công, áp bức đè nặng nhiều thế kỷ.
Sự phân biệt đẳng cấp, phân biệt thân phận,
nhất là trong xã hội xưa, là nỗi đau tinh thần
của nhiều người. Ðến với Quan họ là đến với
mối quan hệ tôn lẫn kính chung, sự bình đẳng
giữa con người với con người: giữa nam và
nữ, giữa các thân phận rất khác nhau trong
đời thường. Không ở đâu trong xã hội cũ con
người lại được sống trong mối quan hệ
"người với người là bạn" như trong sinh hoạt
văn hóa quan họ.
Trước vũ trụ bao la, huyền bí, đi trong cuộc
đời xưa nhiều rủi hơn may, người Quan họ đã
lấy tiếng hát Quan họ làm nhịp cầu đến với
thế giới thần linh để cầu mưa, cầu phúc, cầu
duyên, cầu lộc, giải hạn hy vọng vượt qua
được mọi thác ghềnh, hy vọng tấm lòng
thành kính và tiếng hát diệu kỳ kia sẽ xua đi
mọi tai ương, bất hạnh, mang lại niềm tin
cho cuộc sống. Tiếng hát Quan họ đã trở
thành người bạn đồng hành mang đến sự che
chở, an ủi vĩnh hằng trước mọi đe dọa của
thế giới siêu nhiên.

×