FRANCIS BACON-NGƯỜI
HOẠ SĨ KỲ DỊ
Trên thế
giới, trong
các họa sĩ
siêu th
ực có
lẽ không ai
kỳ lạ bằng
họa sĩ
Francis
Bacon.
Xuyên suốt
sự nghiệp của ông, trừ một số tranh mang tính chất trang trí do có thời
ông làm nghề thiết kế nội thất, còn toàn bộ đều là những bức tranh
nhuốm mầu u uất, đau đớn, kinh hoàng và bi thương. Ông có khoảng
70 tác phẩm nổi tiếng trên giấy và sơn dầu, trong đó nổi bật nhất là bức
tranh Ba dáng vẻ con người dưới chân cây thập tự năm 1944, Người-
thịt năm 1954 và Ba tự họa năm 1985…
Francis Bacon sinh ngày 28 tháng 10 năm 1909 tại số 63 phố Lower
Baggot Dublin Ai Len. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả, cha là
cựu chiến binh trong chiến tranh Boer, sau này là huấn luyện viên ng
ựa
tam bản Triptych
đua, mẹ là con gái địa chủ hãng thép và than đá. Thuở nhỏ, ông bị hen
suyễn, dị ứng với ngựa và chó, thường phải tiêm thuốc giảm đau. Do
yếu ớt bệnh tật, cộng với việc gia đình thường xuyên phải di chuyển
giữa Ai Len và Anh, đã định hình trong ông một tính cách bất ổn, ông
thường xuyên mặc váy, bôi son, trang điểm như con gái. Năm 1925,
khi 16 tuổi, giận cha, ông đã bỏ nhà đi đến ở tạm nhà một người bạn
cha tại London Anh. Năm 1927, ông tới Đức chứng kiến sự xa hoa của
Berlin và nền cộng hòa Weimar. Cùng năm ông đến Paris - Pháp, tại
đây trong một lần tham gia triển lãm 106 bức tranh tân cổ điển của
danh họa Pablo Picasso tại galery Paul Rossenberg Paris, ông bỗng
đam mê tranh, thơ cũng như phim siêu thực.
Cuối năm 1928, ông trở lại London làm nghề thiết kế nội thất tại số 7
Reece Mews, South Kensington. Ông làm vi
ệc tại đây từ năm 1961 đến
năm 1992 cho đến khi qua đời. Khi thiết kế nội thất ông vẫn tự học vẽ
tranh. Năm 1929 bị thôi thúc bởi cảm hứng hội họa, ông đã chuyển
sang chuyên vẽ tranh và có buổi giới thiệu đầu tiên gồm các tranh vẽ
trên thảm và đồ đạc tại Reece Mews. Sự chuyển biến đột ngột bắt đầu
từ đầu năm 1934, khi ông thuê được một galery tại nhà Sunderland,
phố Curzon, Mayfair, và tổ chức thành công cuộc triển lãm mang tên
Tranh của Francis Bacon gồm bảy bức tranh sơn dầu và năm bức tranh
mầu bột, trong đó có bức tranh nổi tiếng Chúa bị đóng đinh trên cây
thánh giá năm 1933.
Năm 1935, ông lại thăm Paris và mua được một cuốn sách miêu tả cặn
kẽ về căn bệnh lở mồm loe loét, cũng trong năm này ông đã xem bộ
phim Chiến hạm Potemkin của đạo diễn Sergei Eisenstein. Trong phim
có cảnh cô y tá mặt đầy máu la hét khi chạy xuống cầu thang, và hình
ảnh máu me bê bết như vậy về sau đã xuất hiện trong rất nhiều bức
tranh của ông. Từ đây, ông bắt đầu một thiên hướng sáng tác mới tách
biệt khỏi cuộc sống đời thường và đi sâu vào khai thác những cái lập dị
thuộc phạm trù cái đau, nỗi khống khổ, sự cô đơn, hãi hùng… Những
tác phẩm đầu tay thuộc loại này rất trừu tượng, dựa trên hình thể con
người bị che lấp bởi đồ vật, các nét vẽ ngẫu hứng hay nói cách khác là
sự chưa định hình của nỗi đau mà mới chỉ dừng ở ảo giác. Một tác
phẩm tiêu biểu là Hình người trừu tượng năm 1936 và đã bị thiêu hủy
trong chiến tranh.
Từ năm 1939 - 1940, hình người hiện lên rõ ràng hơn trong tác phẩm.
Thời điểm này, chiến tranh thế giới nổ ra, do sức yếu không nhập ngũ
được, ông xin vào làm tại đội tự vệ của thành phố London và ban
phòng chống không tặc, nhưng vì bụi khói khiến bệnh hen nặng hơn,
ông phải bỏ việc. Trong khói bụi của chiến tranh, chứng kiến máu đổ,
bao con người hiền lành trở nên bạo ngược, ông đã nhìn nhận về cuộc
sống khác hẳn. Hình ảnh con người hiện lên trong tranh họa sĩ giờ đây
đã bị bao phủ bởi sự u ám, những toan tính, nỗi sợ hãi và cái tàn nhẫn.
Một tác phẩm nổi tiếng là Người đàn ông bước ra t
ừ chiếc xe năm 1939
- 40, Người đàn ông đội mũ trai và Người đàn ông ngồi năm 1943 mà
con người thực chính là Hitler.
Tuy nhiên, phải tới giữa thập niên 50, s
ự nghiệp của ông mới bay bổng.
Năm 1944, ông có một kiệt tác cho phép ông sánh ngang với nhiều
danh họa trong quá khứ, đó là tác phẩm Ba dáng vẻ con người dưới
chân cây thập tự, miêu tả về ba nỗi đau, vẽ bằng sơn dầu trên ba tấm
khổ lớn và trong khoảng thời gian hai tuần. Họa sĩ đã tặng bức tranh
này (vào năm 1953) cho Galery Tate, London Anh.
Đặc sắc không kém là Họa Phẩm năm 1946 được thế giới xem là một
bản ca kịch. Vốn họa sĩ chỉ định vẽ một con tinh tinh đang chơi đùa
trên một bãi cỏ dài (hiện nay một phần của hình vẽ cũ vẫn còn m
ờ mờ),
xong sau đó ông đổi sang vẽ một con chim đang săn mồi, rồi không
hiểu sao nét bút đi chệch hướng và tự nhiên lái ông sang một nội dung
khác căn bản, từ con tinh tinh thay bằng một con người, từ con chim
đang phóng mình vồ lấy con mồi trên đồng cỏ là một con gia súc rất to
ở tư thế mà dân gian quen gọi là móc hàm, với hai chân giạng ra hai
bên và phía dưới là người bán thịt với dáng vẻ hằn học tò mò của một
cảnh sát hay chính khách. Năm 1948, Họa Phẩm đã có mặt tại bảo tàng
Mỹ thuật hiện đại New York Mỹ. Góp phần tạo dựng nét nổi bật của
tranh Francis Bacon là loạt tranh miêu tả những cái đầu. Cuối năm
1948 sau đợt khảo sát châu Âu, ông trở về London, và từ tháng bảy tới
tháng chín năm 1949 tổ chức tại galery Redfern một cuộc triển lãm
mang tên Triển lãm Mùa hè, giới thiệu bức tranh Cái đầu I vẽ trên gi
ấy.
Tiếp tục từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1949 tại galery Hanover - Đức
là triển lãm Những bức tranh mầu với sáu tác phẩm từ cái đầu I đến cái
đầu VI, bức tranh Nghiên cứu về thân thể con người năm 1949 v
à Chân
dung tự họa năm 1949 vẽ bằng sơn dầu. Nhìn vào sáu cái đầu này, sẽ
thấy nó là những cái quái dị nhất của bộ mặt người, mắt trợn trừng,
miệng há hốc, từ tai, mũi, mắt, miệng, trán, cằm không còn nguyên
vẹn, và vượt lên trên mọi cảm nhận chính là sự kinh hoàng. Nhận xét
về tranh của ông bấy giờ, nhà báo Robert Melville đã có bài in trên tờ
tạp chí Horizon so sánh tác phẩm của ông ngang tầm với phim ảnh của
châu Âu, với các tác phẩm của Pablo Picasso,…
Năm 1948, Francis Bacon đã phối hợp mở một quán rượu và nước giải
khát tại số 41 phố Dean, Soho London và nhờ thế đã gặp gỡ và k
ết giao
được với nhiều văn nghệ sĩ và nhân v
ật huyền thoại, trong đó có họa sĩ,
nhà minh họa John Minton, nhiếp ảnh gia John Deakin, nhà phê bình
nghệ thuật David Sylvester…
Thập niên 60, ông chính thức được cả thế giới biết tới với những tác
phẩm miêu tả con người hoặc là với sự đau khổ, hoặc là với sự gian ác
và tội lỗi. Có lẽ những mất mát trong cuộc đại chiến, và từ cảm nhận
tinh tế của một dị nhân thiên tài, đã từng trải qua nhiều khổ cực, dưới
đáy của xã hội mà đã nảy sinh những tác phẩm đặc biệt. Ông đã được
xem là một họa sĩ vĩ đại nhất của thế giới thế kỷ 20, và khi so sánh
những hình vẽ trong tác phẩm của ông, thì những hình ảnh kinh dị trên
phim ảnh hiện nay còn kém xa.
Nhận thấy tài năng của Francis Bacon, năm 1950 John Minton đã giới
thiệu ông với Đại học Mỹ thuật, và ông đã làm giảng viên mỹ thuật tại
đây hai buổi một tuần.
Năm 1950, ông có ba bức tranh tiêu biểu dựa trên họa phẩm của họa sĩ
Diego Velazquez miêu tả về giáo hoàng, và được triển lãm tại
Hannover Đức. Cũng năm này, ông vẽ tác phẩm Người Nude - Người
khỏa thân hay Khỏa thân nằm và Người bị nhốt trong xà lim (khung) là
hai trong số ít tác phẩm chưa được công bố được phát hiện trong ph
òng
vẽ của họa sĩ sau khi ông qua đời. Người trong xà lim miêu tả một con
người tàn phế khốn khổ, khó có thể gọi là người, và có thể bức tranh đ
ã
bị ông bỏ đi vì đã để cho mầu vẽ và nhiều chất bẩn vương vào.
ông còn có tác phẩm Người - khỉ, Nude, Chân dung Lucian Freud và
loạt tranh ba vị giáo hoàng I,II,III đều sáng tác năm 1951 và được triển
lãm tại Hannover 1951 - 1952.
Năm 1964, Fracis Bacon quen người bạn đồng phòng Eastender
Goerge Dyer. Hai người rất thân thiết. Năm 1971, Dyer tự vẫn, và để
tưởng nhớ về Dyer năm 1973 ông đã có tuyệt phẩm tam bản Triptych.
Năm 1974, ông quen một chàng trai nghèo khiếm thị, mù chữ tên là
John Edwards, đây cũng là người bạn thân cuối cùng của họa sĩ. Năm
1985, ông đoạt giải thưởng Mỹ thuật quốc tế Emmy Award, và có
nhiều triển lãm lớn tại nhiều thành phố như London Anh, Paris Pháp,
New York, Washington, Los Angeles Mỹ, Dublin Ai Len và Moscow
Nga Ngày 28 tháng 4 năm 1992, do một cơn đau tim họa sĩ Francis
Bacon đã mất tại thủ đô Madrid Tây Ban Nha, và để lại toàn bộ nhà c
ửa
cũng như số tác phẩm trị giá 11 triệu bảng Anh cho Edwards, vị này
sau đó đã tặng lại cho Galery Hugh Lane Dublin. Căn nhà nhỏ vừa là
nơi ở vừa là phòng vẽ, rất lộn xộn. Trên sàn nhà bừa bãi những tập
giấy, bút vẽ, bảng biểu và chất cao những giá đựng ký họa, tranh, ảnh,
các ghi chép… Bên trái căn nhà là giường ngủ, nơi tiếp khách, bên ph
ải
là giá vẽ. Họa sĩ đã từng nói: Tôi chỉ có thể vẽ trong nhà tôi, trong mớ
lộn xộn và kinh khủng này mà nảy sinh cảm hứng sáng tác. Tôi không
thể làm việc ở nơi quá gọn gàng, s
ạch sẽ Ông cũng không vẽ cảnh đời
thường mà l
ấy cảm hứng từ một đống ảnh, minh họa, cáctalô, sách, báo
và tạp chí; sử dụng các chi tiết hoặc một điểm nào đó trên ảnh hoặc tr
ên
các minh họa báo để tạo nên ý tưởng hội họa.
Năm 1998, căn nhà của Francis Bacon được tặng cho Galery Hugh
Lane. 10 nhà khảo cổ đã phải dành ba năm nhẫn nại để ghi chép mà v
ẫn
giữ nguyên hiện trạng căn nhà: những bức tranh sơn dầu bị lem luốc,
rách nát nằm lăn lóc trên sàn; những cây bút vẽ, lon hộp đựng mầu vẽ
cùng giẻ lau bằng len và nhung, những bức tường và cửa bê bết các
mảng mầu được họa sĩ dùng như một bảng mầu mẫu; những tập ảnh
bạn bè và người mẫu, những trang sách và tạp chí bị vò nhàu, rơi vãi
lung tung; những bản ghi chép bằng tay ý tưởng của bức vẽ nằm chồng
chất lẫn trong những đống rác… và một bức tự họa cuối cùng còn dang
dở trên giá vẽ. Có tất cả 7.000 đồ vật được lập danh sách, và là bộ dữ
liệu đầu tiên được lập trên máy tính của thế giới, qua đó từng đồ vật
hiện lên với đầy đủ các thông tin, hình ảnh, kích cỡ. Căn nhà được chia
làm nhiều gian, tầng, bậc giới thiệu từ cầu thang, cửa, các sàn nhà, trần
nhà, giá đỡ tới phòng vẽ, nơi ở, nhà bếp, phòng tranh và phòng
ảnh cho
thấy toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của họa sĩ vĩ đại.
Cuộc đời của họa sĩ Francis Bacon đã được dựng thành phim, với tên
gọi Tình yêu là quỷ sứ, dựa trên kịch bản của nhà văn Daniel Farson
năm 1993 và đạo diễn John Maybury, công chiếu năm 1998.
Chưa có ai trong lịch sử kể từ thời danh họa Pablo Picasso, có thể diễn
tả nỗi đau, sự khủng khiếp thành công như Francis Bacon. Những sáng
tác của ông được xem là những họa phẩm bất hủ của thời đại.
Chu Mạnh Cường