Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Con người và tri thức docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.32 KB, 12 trang )

Con người và tri thức- yếu tố sống còn của
nền GD
19:39' 28/01/2006 (GMT+7)
(VietNamNet) - Một mùa Xuân mới đang về trên quê hương Việt nam yêu
dấu. Đó là mùa Xuân của hy vọng, của tương lai tương sáng và cả những
thách thức đang chờ đợi. Sự thách thức ấy đặt gánh nặng lên đôi vai của
những người làm công tác Giáo dục, bởi một xã hội tươi đẹp cần có "Minh
quân, Lương tướng" và "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia".
Góp phần cùng công cuộc đổi mới ấy, chúng tôi, những Nghiên cứu sinh của Quỹ
học bổng VEF, đang theo học tại Mỹ, ở nhiều chuyên ngành khác nhau, xin được
đóng góp cách nhìn của mình vào một chủ đề không bao giờ cũ: Con người trong
môi trường Giáo dục Đại học hiện đại của Việt nam, và xin đề xuất 10 diểm sau:
Phát huy truyền thống và mạnh dạn áp dụng những tư duy mới: Người Việt
nam có truyền thống ngàn năm "Tôn sư trọng đạo". Đó là một truyền thống quý
giá và hơn cả, đó là một phong cách sống và cư xử. Các giáo sư Mỹ, thường
ngạc nhiên và thích thú khi làm việc với học sinh Việt nam, bởi sự kính trọng mà
các học sinh Việt nam dành cho họ, không giống với cách thể hiện của các học
sinh phương Tây. Truyền thống này cần được phát huy, tuy nhiên, trong một
khung cảnh mới, đó là sự bình đẳng giữa một nhà khoa học thế hệ trước và
một nhà khoa học thế hệ sau, và chấp nhận những quan điểm khoa học
không đồng nhất. Khoảng cách giữa thày và trò ở Việt nam cần được thu hẹp
lại, với tư duy cởi mở hơn, với thói quen tranh luận một cách lành mạnh.
Linh hoạt trong một môi trường năng động: Để liên tục cập nhật được kiến
thức mới và đáp ứng được sự thay đổi của yêu cầu thực tế, các giáo viên, giáo
sư đại học có toàn quyền thiết kế bài giảng, giáo trình, sách đọc, cách
giảng dạy và chấm điểm. Họ đồng thời hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung
bài giảng và chất lượng sinh viên. Mỗi năm, bài giảng được thay đổi, cập nhật
thông tin và các xu hướng mới, kể cả thay đổi hoàn toàn những bài kiểm tra, để
theo kịp kiến thức hiện tại. Sinh viên có toàn quyền góp ý về bài giảng, về nội
dung, và đánh giá khoá học theo ý kiến riêng của họ. Sự tương tác giữa thày
và trò mang lại chất lượng ngày một cao hơn cho khoá học ở những năm


tiếp theo với một hình ảnh luôn luôn được tự làm mới. Trong khoá học, lực
lượng trợ giảng đóng một vai trò đáng kể, và là cơ hội thuận lợi cho họ thực hành
khả năng giảng dạy ngay từ khi còn là sinh viên. Vị trí trợ giảng cũng mang lại
một nguồn tài chính đáng kể và được đánh giá cao trong lý lịch khoa học sau
này.
Tự trọng và kỷ luật nghiêm khắc: danh dự và đạo đức học tập được đặt lên
hàng đầu, đó chính là đề cao giá trị cá nhân và cái tôi của mỗi nhà khoa học.
Tất cả các trường đại học lớn đều có hệ thống Luật danh dự (Honor code) được
tôn trọng triệt để. Tất cả mọi hình thức gian lận trong thi cử, nhận trợ giúp khi
không được phép đều chịu kỷ luật nặng nề theo hình phạt từ Toà án danh dự
lập ra bởi sinh viên. Hình thức kỷ luật thấp nhất thường là đình chỉ học tập một
năm, không được phép tham gia các hoạt động chung của sinh viên. Đạo văn
(plagiarism) cũng được đánh giá nghiêm trọng không kém, như một hình thức ăn
cắp tri thức của người khác, dù chỉ là một câu nói hay một ý tưởng. Luật danh
dự và bản quyền cũng áp dụng tương tự đối với Giáo viên hay trợ giảng, hay bất
kỳ một người làm khoa học nào. Người vi phạm không thể nói lời xin lỗi, chỉ có
thể chấp nhận kỷ luật mà thôi.
Đánh giá đúng năng lực và sử dụng đúng người: Không chỉ riêng giáo dục, ở
các nghành khác tại Việt nam vẫn tồn tại đánh giá năng lực của một con người
thông qua 2 yếu tố chính: Đức và Tài. Thực sự, đây là hai khái niệm mơ hồ và
mang tính chủ quan, không có tiêu chuẩn nhất định. Một phong cách ăn mặc hơi
lập dị, một phát ngôn không đúng lúc có thể được coi rằng kém Đức, mà Tài luôn
luôn chỉ ở vị trí thứ hai. Việc sử dụng người cần thoát ra khỏi những khái niệm đó
và nó chỉ bao gồm chất lượng của công việc (với những tiêu chuẩn cụ thể) và
không vi phạm pháp luật. Một giáo sư danh tiếng tại trường Đại học North
Carolina, vẫn thường xuyên thổi saxophone tại một quán bar, với một phong
cách ăn mặc kỳ lạ, và hình ảnh của ông vẫn rất đẹp trong mắt tất cả đòng nghiệp
và sinh viên.
Nâng cao sức cạnh tranh của bằng cấp: cũng là
sự tôn trọng giá trị thực của bằng cấp. Chúng ta vẫn

có quá nhiều những tiến sĩ giấy, tiến sĩ ảo với những
công trình khoa học vô tác dụng, hoặc kết quả của
những công trình nghiên cứu có thể đoán đuợc
trước khi thực hiện. Đó là kết quả của nền giáo dục
thiếu tính cạnh tranh, và ở mức độ hiểu biết thấp.
Những công trình khoa học ở cấp độ Tiến sĩ cần
phải có một hội đồng thẩm định khách quan, ở
trình độ quốc tế, và có thể phải có sự góp ý của
các chuyên gia hàng đầu về lĩnh vực đó ở cả trong
nước và nước ngoài. Một tấm bằng hoàn toàn có
thể dược cấp bởi chính trường Đại học đó, và chất
lượng công việc của người mang bằng thể hiện
thương hiệu của nhà trường.
Thái độ cầu thị và hợp tác trong lĩnh vực khoa học: Chúng ta nên tận dụng tối
đa sự giúp đỡ và hợp tác với các nhà khoa học nước ngoài cũng như các nhà
khoa học Việt kiều. Đó là một nguồn lực sẵn có và là một nguồn tri thức cần
được khai thác. Tiếp nhận ý tưởng mới, dẹp bỏ sự đố kỵ trong khoa học là xu
hướng tất yếu để rèn lưyện một moi trường khoa học và giáo dục lành mạnh. Sự
trao đổi hợp tác có thể bắt đầu ngay từ những cá nhân mà không nhất thiết chờ
đợi hoặc kỳ vọng sự trợ giúp chính thức được ký kết.
Chấp nhận thử nghiệm hệ thống giảng dạy và tính điểm có khả năng cạnh
tranh cao: các kỳ thi tuyển lựa vào đại học ở Việt nam thường rất khó khăn, có
thể còn khó khăn hơn nhiều nước phương Tây. Nhưng khi đã trở thành sinh viên,
nhìn chung tất cả đều tốt nghiệp, cho dù kết quả học tập thấp hoặc thi lại nhiều
lần. Điều này tạo nên một áp lực học tập rất thấp. Trong một môn học ở Việt
nam, điểm trung bình trên 5/10 được coi như hoàn thành, nhưng ở các trường
đại học khác trên thế giới, ít nhất cần đạt được 70-75%. Và mỗi sinh viên chỉ có
quyền đựoc điểm thấp hơn mức này 2 lần trong suốt một chương trình đào tạo
Tiến sĩ, nếu không muốn bị buộc thôi học. Trong các lớp học thường thì khoảng
30% sinh viên đứng đầu lớp được điểm A, 40% đạt điểm B, còn lại đạt điểm C.

"Hãy đặt trọn niềm tin vào lớp
trẻ"
Thư của Đại tướng Lê
Đức Anh gửi lưu học
sinh VEF
"Chúng cháu
xin nhận sứ
mệnh bảo vệ
Tổ quốc từ
xa "
Con người và tri
thức- yếu tố sống còn
của nền GD
Tạo "Đột phá và tăng
tốc" cho GDĐH
Đại học đẳng cấp cấp
Quốc tế: Bài học từ
Hàn Quốc
Hiếm có lớp học 100% sinh viên đạt được điểm A. Vì vậy, muốn đạt được điểm A
các sinh viên phải phấn đầu cạnh tranh nhau để đạt được kết quả cao trong học
tập.
Phát triển hệ thống đánh giá kết quả học tập dựa
trên quan điểm đánh giá toàn bộ quá trình học.
Để hoàn thành một khoá học ở các trường đại học ở
các nước có nền giáo dục cao, các sinh viên phải nỗ
lực trong toàn bộ khoá học. Số điểm của một môn
học là một luỹ tích của rất nhiều bài tập, thực hành,
dự án, kiểm tra giữa kỳ, cuối kỳ bao gồm rất nhiều
kỹ năng khác. Khoá học cũng như một cuộc đua
đường dài, mà chỉ cần đuối sức ở một chặng, có thể

ảnh hưởng đến kết quả của toàn cục. Đánh giá kết
quả học tập theo quá trình có nhiều lợi ích cho việc
đào tạo sinh viên ưu tú. Sinh viên không phải chịu
áp lực lớn cho kỳ thi cuối kỳ như ở Việt Nam. Do
phải làm nhiều bài tập; thực hành; dự án, sinh viên
được áp dụng ngay những kiến thức thu thập trong
quá trình học tập. Kết quả học tập phản ánh khách
quan hơn việc tiếp thu, áp dụng kiến thức của sinh
viên. Việc đánh giá kết quả học tập chỉ dựa vào duy
nhất kỳ thi cuối kỳ đễ tạo thói quan cho sinh viên "nước đến chân mới nhảy", kết
quả học tập mang tính đầy may rủi do chỉ được phản ánh trong kỳ thi cuối cùng.
Sinh viên chỉ cần "ôn thi" để qua "kỳ thi" chứ chưa quan tâm đến việc áp dụng và
tìm tòi và phát triển những kiến thức mới. Thậm chí việc chấp nhận cho thi lại, ôn
thi, luyện thi ở Việt nam một cách tương đối thoải mái, điểm thi lại được công
nhận chính thức trong bảng điểm vừa mang tính tiêu cực vừa thiếu sự công
bằng.
Đẩy mạnh năng lực viết và xuất bản: Năng lực công bố, xuất bản các công
trình nghiên cứu khoa học là thước đo tri thức của các nhà khoa học.
Chúng ta có một tỷ lệ xuất bản trên các tạp chí khoa học uy tín quá thấp so với
các nước khác trong khu vực và thế giới. Chúng ta cần bắt buộc (với đội ngũ
giáo sư) và khuyến khích (với đội ngũ sinh viên) tham gia việc xuất bản các công
trình khoa học trên các tạp chí khoa học quốc tế và viết sách. Đó là một thách
thức lớn, nhưng cũng là sự vinh dự cho bất kỳ nhà khoa học nào. Sự thiếu tự tin
vào bản thân, cũng như thiếu tự tin ở kết quả nghiên cứu là một rào cản đáng kể
cho việc xuất bản.
Ngoại ngữ là một yêu cầu bắt buộc: Tiếng Việt không phải là một ngôn ngữ
phổ thông trên thế giới, vì thế biết ít nhất một ngoại ngữ phổ biến ở mức độ cao
(đọc, viết, giao tiếp thành thạo) là yêu cầu không thể thiếu với một giáo sư hay
một sinh viên có tham vọng trở thành nhà khoa học trong thời kỳ Việt Nam trao
đổi, hợp tác quốc tề về khoa học. Nếu không có chiếc chìa khoá này, mọi ngả

"Hãy đặt trọn niềm tin vào lớp
trẻ"
Thư của Đại tướng Lê
Đức Anh gửi lưu học
sinh VEF
"Chúng cháu
xin nhận sứ
mệnh bảo vệ
Tổ quốc từ
xa "
Bài học từ Hàn Quốc và mô
hình cho VN
đường vào khoa học hoàn toàn bịt kín. Và bắt đầu học ngoại ngữ không khi nào
là muộn với bất cứ ai.
Mười điểm đề xuất trền được rút ra từ những quan sát, kiểm nghiệm và tâm
huyết của nhóm lưu học sinh VEF học tại các trường hàng đầu tại Mỹ vói mong
muốn nền giáo dục nước nhà "tăng tốc" để đào tạo "nhân tài" tầm cỡ quốc tế.
Nhóm tác giả mong muốn được sự trao đổi, thảo luận với các độc giả về chủ đề
này.
Xin được gửi tới quý vị độc giả vài lời tâm giao trên. Xin kính chúc quý vị và gia
đình một năm mới hạnh phúc, an khang và thịnh vượng.
Nhóm tác giả:
• Nghĩa Nguyễn – PhD student- Public Health trường đại học UNC-CH.
• Thắng Trịnh - PhD student- Public Health trường đại học UNC-CH
• Phương Phạm – Ms student – Chemical Engineering trường đại học
Stanford Anh : Trợ giảng tại Đại học UNC-CH
Nguồn lực quan trọng nhất là con người
18:12' 23/12/2006 (GMT+7)
(VietNamNet) - Bà Nguyễn Hồng Mai, TGĐ Công ty cổ phần chứng khoán
Âu Lạc nói rằng nhân lực là yếu tố quan trọng nhất để cuộc cạnh tranh kinh

doanh giành được thắng lợi. Bà Mai đã có cuộc trao đổi về vấn đề này với
VietNamNet trong buổi ra mắt Công ty Âu Lạc chiều 21/12.
- Chỉ trong một thời gian rất ngắn đã có hàng loạt công ty chứng khoán
(CTCK) được thành lập, như một phong trào, tranh thủ thời gian trước khi
Luật Chứng khoán có hiệu lực 01/01/2007 với những quy định khắt khe
hơn. Việc thành lập hàng loạt như vậy có phải là theo phong trào?
- Chúng tôi luôn tin rằng TTCK Việt Nam sẽ phát triển. Và những diễn biến
sôi động chúng ta thấy ngày hôm nay chỉ là sự khởi đầu. Ngay từ khi TTCK
bắt đầu có sự phục hồi và phát triển, đồng thời với những tín hiệu lạc quan
từ nền kinh tế như việc gia nhập WTO, chúng tôi nhận định TTCK sẽ có
những bước đột phá. Đây chính là cơ hội có một không hai cho cho các
nhà đầu tư trong lĩnh vực tài chính chứng khoán.
Vì vậy, hàng loạt CTCK thành lập trong một thời điểm vẫn không phải là
phong trào, mà là sự nắm bắt cơ hội của các nhà đầu tư tài chính và chứng
khoán Việt Nam.
- Theo dự kiến, có thể sẽ có quy định CTCK thành lập mới sau này phải có
vốn điều lệ ít nhất 200 tỷ đồng. Các công ty hiện nay với số vốn nhỏ có bị
áp lực bị bất lợi khi cạnh tranh với các công ty thành lập sau?
- Ngoài một vài CTCK có số vốn điều lệ tương đối, như SSI 500 tỷ, HSC 100
tỷ, còn lại hầu hết các CTCK hiện nay có số vốn khá khiêm tốn, vài chục tỷ.
Quả thật với số vốn như vậy, các công ty đã bắt đầu khó khăn với việc thị
trường ngày càng mở rộng do DN lên sàn niêm yết ngày càng nhiều với số
vốn điều lệ ngày càng lớn. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu khi lượng khách
hàng chưa lớn, công ty nhỏ vẫn có thể đảm đương được và tiếp tục chiến
lược mở rộng.
Chúng tôi tin rằng, trước khi đưa ra quy định này,
UBCKNN cũng đã nghiên cứu để đưa ra mức phù
hợp với tình hình phát triển của TTCK Việt Nam.
Ngoài ra, UBCK cũng đã đề xuất một lộ trình tăng
vốn hợp lý đối với các CTCK đã được thành lập

trước năm 2007.
Vì vậy, theo tôi, đây không hẳn là một áp lực quá lớn đối với các công ty
chứng khoán năng động. Ngoài ra, có thể cho rằng quy định này là một
động lực thúc đẩy các CTCK nhỏ phải vươn lên để có thể tồn tại và phát
triển trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường, nhất là
trong giai đoạn tới đây sau 5 năm, ta sẽ mở cửa hoàn toàn cho lập CTCK
100% vốn nước ngoài.
- Trong một thời gian rất ngắn có trên chục CTCK thành lập. Vậy nhân lực
tìm đâu cho đủ, vì lĩnh vực này đỏi hỏi nhân viên phải có nghiệp vụ chuyên
môn?
- Làm việc trong lĩnh vực chứng khoán nhiều năm, chúng tôi có chút ít kinh
nghiệm để tuyển dụng nhân sự. Tuy thế cũng không chủ quan. Trong tiến
trình nền kinh tế và xã hội luôn tiến triển với tốc độ nhanh như hiện nay,
các CTCK đều phải chú trọng chiến lược về lĩnh vực đào tạo nhân lực. Bởi
điều này là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
- Bà vừa nói lộ trình cam kết 5 năm nữa ta sẽ mở cửa cho phép thành lập
CTCK 100% vốn nước ngoài. Các CTCK trong nước đã chuẩn bị gì cho
Trao giấy phép thành lập cho CTCK
Âu Lạc. (Ảnh: Thảo Nguyên)
cuộc cạnh tranh này?
- Như trên đã nói, nguồn tài nguyên quý giá nhất đó là con người. Vì vậy,
đầu tư cho chiến lược cạnh tranh, trước hết các công ty cần chọn đầu tư
vào xây dựng đội ngũ nhân lực, trong đó chú trọng hai yếu tố là năng lực
chuyên môn và cá tính năng động. Bên cạnh đó sẽ là những nhiệm vụ
không thể thiếu khác là công nghệ, chiến lược marketing, năng lực quản trị
điều hành doanh nghiệp theo đúng chuẩn mực kinh doanh quốc tế. Các
công ty cũng nghĩ đến việc tìm kiếm đối tác chiến lược trong nước và sẵn
sàng hợp tác với quốc tế để có thể tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ
và kỹ năng.
- Xin cám ơn bà.

Tư bản
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Tư bản hay vốn trong kinh tế học là những hàng hóa sẵn có để sử dụng làm yếu tố sản
xuất. Với vai trò là yếu tố sản xuất, tư bản có thể là mọi thứ như tiền bạc, máy móc, công
cụ lao động, nhà cửa, bản quyền, bí quyết, v.v nhưng không bao gồm đất đai và người
lao động.
Tư bản ở dạng hàng hóa có được nhờ mua bằng tiền hoặc tư bản vốn. Trong lĩnh vực tài
chính và kế toán, khi đề cập đến tư bản là nói đến nguồn lực tài chính, đặc biệt là để bắt
đầu hoặc duy trì một công việc kinh doanh.
Mục lục
[giấu]
• 1 Tư bản theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp
• 2 Tư bản trong kinh tế học cổ điển
• 3 Những câu nói nổi tiếng về tư bản
• 4 Xem thêm
[sửa] Tư bản theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp
Trong kinh tế học cổ điển, tư bản/vốn là một trong bốn yếu tố sản xuất. Ba yếu tố còn lại
là đất đai, lao động và doanh nghiệp. Những hàng hóa có đặc điểm sau được coi là tư
bản:
• Có thể sử dụng để tạo ra hàng hóa khác (đây chính là đặc điểm khiến hàng hóa đó
trở thành tư bản)
• Có để tạo ra được, đối lập với đất đai là nguồn lực tồn tại tự nhiên với các đặc
điểm như vị trí địa lí, khoáng sản bên dưới.
• Không bị sử dụng hết ngay lập tức trong quá trình sản xuất như nguyên liệu hoặc
bán sản phẩm. (Có một ngoại lệ ở đây là khấu hao, giống như bán sản phẩm, khấu
hao được coi là chi phí doanh nghiệp).
Những đặc trưng này được kinh tế học tân cổ điển (neoclassical economics) kế thừa với
một chút thay đổi cho phù hợp với thời đại. Đó là đưa thêm mục hàng hóa trong kho vào
tư bản. Giá trị tư bản lưu kho có thể được xác định tại những thời điểm cụ thể, ví dụ ngày

cuối năm 31 tháng 12. Ngược lại, đầu tư, vì lẽ sản phẩm tạo ra làm tăng giá trị của lưu
kho (dạng tư bản), được mô tả như một dòng, luồng vốn thực hiện theo thời gian.
Những biểu hiện dễ thấy của tư bản là ở dạng vật chất, như công cụ, nhà xưởng, phương
tiện vận chuyển, v.v những thứ được sử dụng trong quá trình sản xuất. Ít ra là kể từ thập
niên 1960, các nhà kinh tế học dần tăng sự chú ý đến những dạng phi vật chất của tư bản.
Ví dụ, đầu tư vào kỹ năng và giáo dục có thể được xem là bồi đắp nguồn vốn/tư bản con
người hoặc vốn hiểu biết, và những đầu tư vào tài sản trí tuệ được con là xây dựng nguồn
vốn trí tuệ. Những khái niệm mới mẻ này dẫn đến những khúc mắc và những tranh luận.
Lý thuyết phát triển nguồn lực con người mô tả tư bản con người là thực thể bao gồm
những yếu tố xã hội, nhân rộng và sáng tạo riêng biệt:
• Nguồn vốn xã hội là giá trị của hệ thống những mối quan hệ đáng tin cậy giữa
những cá nhân trong một nền kinh tế.
• Nguồn vốn cá nhân là ưu điểm trong mỗi con người, được bảo vệ bởi xã hội và
đem trao đổi để thu về sự tin cậy hoặc tiền bạc. Những khái niệm gần với nó là
“tài năng”, “sự tháo vát”, “sự lãnh đạo”, “những kiến thức được đào tạo”, hoặc
“những khả năng bẩm sinh”. Đây là nguồn vốn không dễ tạo ra được bằng cách
kết hợp các dạng tư bản vật chất và phi vật chất kể trên. Trong kinh tế học cổ
điển, nguồn vốn cá nhân đơn giản chỉ nằm trong khái niệm lao động.
Những cách phân loại tư bản/vốn khác được sử dụng trên lý thuyết hoặc áp dụng trong
thực tiễn gồm:
• Vốn tài chính là dạng tiền hoặc quyền lợi, quyền sở hữu. Nó ở dạng tài sản vốn,
đuợc giao dịch trên các thị trường tài chính. Giá trị của tư bản tài chính không
nằm ở sự tích tụ theo thời gian mà ở niềm tin của thị trường vào khả năng sinh lợi
và những rủi ro đi kèm.
• Vốn thiên nhiên là những đặc điểm sinh thái và được cộng đồng bảo vệ để duy trì
cuộc sống, ví dụ một con sông đưa nước đến các nông trang.
• Vốn cơ sở hạ tầng là hệ thống hỗ trợ do con người tạo ra (ví dụ nhưng chốn ăn ở,
đường xá, trang phục, máy tính cá nhân, v.v ), những vật chất sẵn có giúp cho
việc đâu tư, xây dựng một doanh nghiệp mới cần ít vốn, nguồn lực hơn. Khác với
vốn thiên nhiên, nguồn vốn cơ sở hạ tầng không tự khôi phục và phát triển, chúng

cần được xây dựng, bổ sung.
Các nghiên cứu đi đến thống nhất giữa các nhà kinh tế rằng vốn tự nhiên và vốn xã hội
đều là tư bản/vốn giống như vốn cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chúng là những dạng
tư bản tách biệt. Chúng được sử dụng, phát huy để tạo ra hàng hóa khác và không tiêu
dùng hết ngay trong quá trình sản xuất, hơn thế chúng có thể được tạo ra, làm giàu thêm
bởi nỗ lực của con người.
Cũng có các nghiên cứu về vốn trí tuệ và luật tài sản trí tuệ. Song, những nghiên cứu này
đi vào phân biệt đầu tư tư bản với việc thu thập các giá trị tiềm năng của bản quyền (vốn
sáng tạo hoặc vốn cá nhân), bằng phát minh và những dạng nhãn hiệu đăng ký (nguồn
vốn xã hội).
[sửa] Tư bản trong kinh tế học cổ điển
Trong kinh tế học cổ điển, David Ricardo phân biệt tư bản cố định với tư bản để quay
vòng. Đối với một doanh nghiệp, chúng đều là tư bản hoặc vốn.
Karl Marx bổ sung một sự phân biệt mà thường bị lẫn với khái niệm của Ricardo. Trong
học thuyết kinh tế chính trị của Marx, tư bản lưu động là khoản đầu tư của nhà tư bản vào
lực lượng sản xuất, là nguồn tạo ra giá trị thặng dư. Nó được coi là “lưu động” vì lượng
giá trị mà nó tạo ra khác với lượng giá trị nó tiêu dụng, có nghĩa là tạo ra giá trị mới. Nói
một cách khác, tư bản cố định là khoản đầu tư vào yếu tố sản xuất không phải con người
như máy móc, nhà xưởng, những tư bản, mà theo Marx, chỉ tạo ra lượng giá trị để thay
thế chính bản thân chúng. Nó được coi là cố định theo nghĩa giá trị đầu tư ban đầu và giá
trị thu hồi ở dạng các hàng hóa do chúng tạo ra là không đổi.
Đầu tư và tích tụ tư bản trong kinh tế học cổ điển là việc tạo ra tư bản mới. Để khởi động
quá trình đầu tư, hàng hóa phải được tạo ra nhưng không để tiêu dùng ngay, thay vào đó,
chúng trở thành công cụ sản xuất để tạo ra hàng hóa khác. Đầu tư liên quan chặt chẽ với
tiết kiệm, nhưng không phải là một. Theo Keynes, tiết kiệm là không sử dụng ngay thu
nhập vào hàng hóa hoặc dịch vụ, trong khi đó đầu tư là việc tiêu dùng khoản tiết kiệm đó
vào những hàng hóa vốn.
Nhà kinh tế học Áo Eugen von Böhm-Bawerk cho rằng tích tụ tư bản được xác định bằng
quá trình tái đầu tư tư bản. Bởi tư bản theo định nghĩa của ông là hàng hóa có thứ bậc
cao, hoặc hàng hóa để tạo ra hàng hóa khác và thu hồi giá trị của chúng từ hàng hóa được

tạo ra trong tương lai.
[sửa] Những câu nói nổi tiếng về tư bản
Mahatma Gandhi: “Tư bản, tự thân nó không phải là tội lỗi; sử dụng sai trái nó mới là
tội lỗi. Tư bản dù ở bất kỳ dạng nào cũng cần thiết.”
Quan niệm về con người trong triết học
L.Feuerbach
Lê Cộng Sự
Tạp chí Nghiên cứu con người


09:22' PM
- Thứ hai,
22/01/2007
Quan niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, nhưng
phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán của nhà triết học
cổ điển Đức I.Kant (1724- 1804) thì các quan niệm đó mới được hệ thống hoá và trình
bày dưới dạng một học thuyết triết học với tên gọi là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những
giá trị tư tưởng trong nhân bản học của Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của
khoa học tự nhiên đương thời, L. Feuerbach (1804-1872) có tham vọng vươn tới việc
thiết lập một nền triết học mới - triết học tương lai, lấy con người và đời sống tâm - sinh
lý của nó làm đối tượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới - Feuerbach viết: “Biến con
người, kể cả giới tự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối tượng duy
nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản học, kể cả sinh lý học
thành khoa học phổ quát".
Vậy nền triết học mới mà Feuerbach đề cập đến ở đây là gì? Đó là triết học phản ánh
chân lý của thời đại, nó đặt ra và lý giải những vấn đề xã hội đương thời mà chủ nghĩa
duy vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: "Chân lý không phải là chủ nghĩa
duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý học hay tâm lý học. Chân lý là nhân
bản học". Theo Feuerbach, triết học mới hay triết học tương lai sẽ khắc phục được sự
khác biệt của mình đối với tôn giáo, sẽ không còn là thứ triết học nhận thức tư biện, mà

trở thành nhân bản học - một học thuyết toàn diện về con người, về mối quan hệ của nó
với thế giới. Trong triết học mới (triết học nhân bản), hình ảnh con người sẽ được trình
bày cả trên cơ sở của các dữ liệu khoa họe cũng như trên cơ sở của học thuyết về Chúa.
Con người trong nhân bản học không chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới tự nhiên
mà còn là một sinh thể tự nhiên toàn năng. Triết học môi có sức mạnh truy tìm lời giải
đáp hiện thực để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Triết học cũ là hệ thống
triết học gắn liền với thần học, chứng minh cho sự tồn tại hợp lý của chúa trời, còn triết
học mới kết hợp chặt chẽ với khoa học tự nhiên, thực hiện sứ mệnh cao cả của mình là
giúp con người: 1) nhận diện chính mình như một bộ phận, như là cọn đẻ của giới tự
nhiên, 2) nhận ra chân giá trị của cuộc sống, 3)nhằm nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc ngay
trong thế giới trần gian. Và để thực hiện được sứ mệnh lịch sử thiêng liêng đó thì "triết
học cần thiết phải liên hệ chặt chẽ với khoa học tự nhiên, còn khoa học tự nhiên phải liên
hệ chặt chẽ với triết học".
Vốn là người có tư tưởng cách tân, Feuerbach mơ tới việc thiết kế những đồ án cho việc
cải cách triết học và ông thực sự đã làm như vậy trong 2 tác phẩm: Những luận điểm dự
thảo cho cuộc cải cách triết học (1842), Những luận đề cơ bản của triết học tương lai
(1843). Trong các tác phẩm đó ông đã khai mở một hướng đi mới cho các nhà triết học
hậu thế, đó là truy tìm bí mật của triết học ngay trong giới tự nhiên và con người: “Hãy
quan sát giới tự nhiên và con người, bạn sẽ thấy trong đó những bí mật của triết học".
“Quan điểm của tôi chỉ có thể biểu đạt trong hai từ: Giới tự nhiên và con người". Với
cách đặt vấn đề như vậy, người thiết kế đồ án triết học mới này đi sâu vào việc nghiên
cứu bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm: 1) mối quan hệ giữa con người và giới tự
nhiên, 2) mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, 3) mối quan hệ giữa người và người, để rồi
từ đó ông đi đến kết luận về 4) mối quan hệ giữa người và thần.
Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật nhân
bản, Feuerbach cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế như các nhà
Thông tin liên
quan:
 “ Trà dư tửu
hậu” và triết học

[03/02/2007]
 Những kiến giải
của M. Gorki về con
người
[27/01/2007]
 Quan niệm của
Gi.P.Xáctơrơ về con
người trong “Hiện
sinh một nhân bản
thuyết”
[01/01/1900]
 Về sự biến đổi
mối quan hệ giữa
cá nhân - xã hội và
những suy nghĩ xây
dựng con người
Việt Nam trong giai
đoạn mới
[06/01/2007]
 Con người văn
hóa trong tư tưởng
của một số doanh
nhân dân tộc
[01/01/1900]
 Triết học văn
hóa - Một tiềm
năng nghiên cứu
văn hóa con người
[29/10/2006]
 Cái gốc vẫn là

con người
[08/10/2006]
 Một con tàu và
những con người
[22/08/2006]
 Giá trị đạo đức
truyền thống và
những yêu cầu đạo
đức đối với nhân
cách con người Việt
Nam hiện nay
[10/08/2006]
 Sự hình thành
con người với tư
cách chủ thể sáng
tạo [30/07/2006]
 Nghiên cứu
phức hợp về con
người
[05/07/2006]
 Những vấn đề
con người và tu
dưỡng trong Phật
giáo [12/05/2006]
 Immanuel Kant
từ triết học phê
phán đến nghiên
cứu con người
[12/04/2006]
 Quyền con

người – nhìn từ góc
độ triết học
[09/04/2006]
 Nghiên cứu con
người Việt Nam qua
các trước tác của
Nguyễn Văn Huyên
[05/03/2006]
 Vẫn là chuyện
nuôi dưỡng con
người
[16/01/2006]
 Từ quan niệm
về con người trong
lịch sử đến quan
niệm về con người
Hồ Chí Minh
[07/01/2006]
 Vì con người
hãy giúp con người
[31/12/2005]
 Ảnh hưởng triết
học phương Tây
trong quan niệm
của Phan Bội Châu
về con người
[22/10/2005]
 Nghiên cứu con
người Việt Nam
trước yêu cầu phát

triển đất nước
[18/10/2005]
 Tiến tới một
triết học về hợp tác
vì sự giải phóng
con người
[16/10/2005]
 Lời mở: Văn hoá
học lấy con người
làm trung tâm
[14/09/2005]
 A.C. Ernst và
Arthur Young -
Những con người
rất khác nhau
[20/08/2005]
 Tiếp cận tính
toàn vẹn về con
người và thế giới
con người
[19/07/2005]
 Để Phát Triển
Con Người Một
Cách Bền Vững
[19/07/2005]
 Giữa con người
và con vật khác
nhau ở điểm nào?
[21/07/2005]
 Giáo dục như

thế nào để phát
huy tiềm năng con
người Việt Nam?
[06/02/2004]
 Khi con người
VN đi vào thời đại
văn minh trí tuệ
[09/02/2003]
Theo Tạp chí Nghiên cứu con người
Thông tin liên
quan:
 “ Trà dư tửu
hậu” và triết học
[03/02/2007]
 Những kiến giải
của M. Gorki về con
người
[27/01/2007]
 Quan niệm của
Gi.P.Xáctơrơ về con
người trong “Hiện
sinh một nhân bản
thuyết”
[01/01/1900]
 Về sự biến đổi
mối quan hệ giữa
cá nhân - xã hội và
những suy nghĩ xây
dựng con người
Việt Nam trong giai

đoạn mới
[06/01/2007]
 Con người văn
hóa trong tư tưởng
của một số doanh
nhân dân tộc
[01/01/1900]
 Triết học văn
hóa - Một tiềm
năng nghiên cứu
văn hóa con người
[29/10/2006]
 Cái gốc vẫn là
con người
[08/10/2006]
 Một con tàu và
những con người
[22/08/2006]
 Giá trị đạo đức
truyền thống và
những yêu cầu đạo
đức đối với nhân
cách con người Việt
Nam hiện nay
[10/08/2006]
 Sự hình thành
con người với tư
cách chủ thể sáng
tạo [30/07/2006]
 Nghiên cứu

phức hợp về con
người
[05/07/2006]
 Những vấn đề
con người và tu
dưỡng trong Phật
giáo [12/05/2006]
 Immanuel Kant
từ triết học phê
phán đến nghiên
cứu con người
[12/04/2006]
 Quyền con
người – nhìn từ góc
độ triết học
[09/04/2006]
 Nghiên cứu con
người Việt Nam qua
các trước tác của
Nguyễn Văn Huyên
[05/03/2006]
 Vẫn là chuyện
nuôi dưỡng con
người
[16/01/2006]
 Từ quan niệm
về con người trong
lịch sử đến quan
niệm về con người
Hồ Chí Minh

[07/01/2006]
 Vì con người
hãy giúp con người
[31/12/2005]
 Ảnh hưởng triết
học phương Tây
trong quan niệm
của Phan Bội Châu
về con người
[22/10/2005]
 Nghiên cứu con
người Việt Nam
trước yêu cầu phát
triển đất nước
[18/10/2005]
 Tiến tới một
triết học về hợp tác
vì sự giải phóng
con người
[16/10/2005]
 Lời mở: Văn hoá
học lấy con người
làm trung tâm
[14/09/2005]
 A.C. Ernst và
Arthur Young -
Những con người
rất khác nhau
[20/08/2005]
 Tiếp cận tính

toàn vẹn về con
người và thế giới
con người
[19/07/2005]
 Để Phát Triển
Con Người Một
Cách Bền Vững
[19/07/2005]
 Giữa con người
và con vật khác
nhau ở điểm nào?
[21/07/2005]
 Giáo dục như
thế nào để phát
huy tiềm năng con
người Việt Nam?
[06/02/2004]
 Khi con người
VN đi vào thời đại
văn minh trí tuệ
[09/02/2003]

×