Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

đề tài đặc điểm mỹ thuật thời trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 40 trang )

Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Luận văn
Đề tài: Đặc điểm Mỹ thuật thời Trần
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 1
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Mục lục
NỘI DUNG 6
Chương I. Khái quát về thời Trần và mĩ
thuật thời Trần 6
1.1. Khái quát về thời Trần 6
1.2. Khái quát về mĩ thuật thời Trần 8
Chương II. Những đặc điểm mĩ thuật thời
Trần 10
2.1. Sự kế thừa những tinh hoa văn hóa thời
Lý 10
2.2. Những thay đổi và sáng tạo trong mĩ
thuật thời Trần 11
2.3. Những tác phẩm mĩ thuật tiêu biểu của
thời Trần 22
KẾT LUẬN 38
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 2
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Việt Nam chúng ta luôn có truyền thống đấu tranh dựng nước
và giữ nước trong suốt mấy nghìn năm nay. Trong suốt chiều dài lịch sử đó,
dân tộc ta đã tạo nên một nền mĩ thuật phong phú, đa dạng và mang đậm bản
sắc dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em
trong đó mỗi dân tộc đều có những truyền thống văn hóa riêng. Kho tàng
văn hóa truyền thống Việt Nam thể hiện sự đa dạng muôn hình muôn vẻ của
các dân tộc cùng sống trên dải đất này. Trong kho tàng văn hoá đó phải kể


đến sự đóng góp của các tác phẩm mĩ thuật đã và đang có mặt ở khắp mọi
miền đất nước. Vì vậy lịch sử nền mĩ thuật của nước ta rất đa dạng, phong
phú qua nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn với những đặc trưng riêng, đóng góp
quan trọng vào công cuộc xây dựng nền văn hoá, xây dựng đất nước và bảo
vệ Tổ Quốc.
Mĩ thuật Việt Nam đã phát triển qua bao thời kỳ. Mỗi thời kỳ là một
mốc đánh dấu sự phát triển của lịch sử mĩ thuật và được thể hiện qua nghệ
thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa… tiêu biểu của thời kì đó. Do đó mỗi một
thời kỳ phát triển của mĩ thuật Việt Nam đều có những nét đặc trưng riêng,
những bước phát triển mạnh mẽ trên cơ sở kế thừa, phát huy những giá trị
văn hóa của các thời kỳ trước để lại, đồng thời sáng tạo nó phù hợp với
chặng đường phát triển của mình. Trong đó mĩ thuật thời Trần được đánh
giá là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của mĩ thuật Việt Nam với những biến đổi
lớn lao với nhiều thành tựu lớn trong tất cả các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc,
hội họa và nghệ thuật trang trí đồ gốm. Mĩ thuật thời kỳ này đã chứa đựng
trong mình một bề dày văn hóa sâu sắc, có nhiều đóng góp quan trọng trong
kho tàng văn hóa truyền thống Việt Nam.
Tìm hiểu “Đặc điểm mĩ thuật thời Trần” là một đề tài luôn thôi thúc
tôi tìm hiểu bởi việc tìm hiểu những đặc điểm cũng như thành tựu nổi bật
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 3
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
của mĩ thuật thời kỳ này sẽ cho chúng ta thấy được giá trị cũng như phong
cách nghệ thuật của ông cha ta bấy giờ. Qua đó còn nhận thức được tầm
quan trọng của việc tìm hiểu cũng như giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa
đó. Đó là lý do tôi chọn đề tài này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Tìm hiểu “đặc điểm mĩ thuật thời
Trần”.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong đề tài này tôi tập trung nghiên
cứu về các đặc điểm mĩ thuật thời Trần như: tìm hiểu về sự kế thừa những

tinh hoa văn hóa thời Lý, những đổi thay và sáng tạo trong mĩ thuật thời
Trần qua nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội họa… của các tác phẩm mĩ
thuật tiêu biểu.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp nghiên cứu hệ
thống cấu trúc là chủ yếu. Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm các phương pháp
khác như: phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp; phương pháp so sánh
đối chiếu; phương pháp thống kê lựa chọn… để làm nổi bật những đặc điểm
của mĩ thuật thời Trần.
4. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Mĩ thuật thời Trần là đề tài luôn nhận được rất nhiều sự quan tâm của
các nhà nghiên cứu ở tất cả các khía cạnh: kiến trúc, điêu khắc, hội họa,
trang trí với nhiều công trình có quy mô lớn như:
Trong cuốn “Lịch sử mĩ thuật Việt Nam" của tác giả Phạm Thị Chỉnh
có viết về các đặc điểm của mĩ thuật thời Trần. Cuốn sách đã cho chúng ta
một cái nhìn tổng quan, khái quát về lịch sử mĩ thuật Việt Nam nói chung và
lịch sử mĩ thuật thời Trần nói riêng.
Cuốn sách “Đại cương lịch sử Việt Nam” do Trương Hữu Quýnh chủ
biên cùng các tác giả Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh đã nghiên cứu
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 4
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
một cách tổng quan về lịch sử hình thành và phát triển của Việt Nam. Trong
cuốn sách, thời Trần được các tác giả chú ý tìm hiểu nhưng mang tính tổng
quát, không đi sâu vào tìm hiểu mĩ thuật của thời kỳ này.
Viện mĩ thuật Việt Nam cũng cho ra đời cuốn sách “Văn hóa Việt
Nam nhìn từ mĩ thuật”. Tuy nhiên cuốn sách phân tích văn hóa Việt Nam
nhìn từ góc độ mĩ thuật nên mang ý dàn trải, chung chung, không đi sâu
phân tích thời kỳ nào, do đó còn nhiều hạn chế khi đi sâu tìm hiểu đặc điểm
mĩ thuật thời Trần.
Và còn nhiều nhà nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm

của mĩ thuật thời kì này.
Những tác phẩm nghiên cứu trên phần nào đã tìm về cội nguồn của mĩ
thuật dân tộc, đã phản ánh phần nào mĩ thuật Việt Nam nói chung và mĩ
thuật thời Trần nói riêng trên những chặng đường lịch sử dân tộc. Tuy nhiên
phần lớn các công trình chỉ đi sâu vào một khía cạnh nào đó của mĩ thuật
thời Trần mà chưa có sự nghiên cứu toàn diện về các đặc điểm của mĩ thuật
thời kỳ này.
Dựa trên cơ sở đã nghiên cứu, phân tích của các nhà nghiên cứu tôi đã
phát triển để hoàn thiện đề tài của mình.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, đề tài còn có phần mục lục và
thư mục tài liệu tham khảo.
Phần nội dung gồm hai chương chính:
Chương I: Khái quát về thời Trần và mĩ thuật thời Trần
Chương II: Những đặc điểm mĩ thuật thời Trần
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 5
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
NỘI DUNG
Chương I. Khái quát về thời Trần và mĩ thuật thời Trần
1.1. Khái quát về thời Trần
1.1.1. Sự thành lập triều Trần
Nhà Lý phát triển thịnh trị vào đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127),
sau đó bắt đầu đi vào con đường suy yếu. Lúc này quyền hành rơi vào tay
những kẻ hại dân. Trước tình hình ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, góp
phần làm lung lay ngai vàng nhà Lý. Khi nhà Lý suy yếu, nạn cát cứ lại xảy
ra. Năm 1211, ba dòng họ phong kiến lớn đã nổi dậy. Đó là họ Đoàn ở Hải
Dương, Hải Phòng; họ Trần ở Thái Bình, Nam Định và nam Hưng Yên; họ
Nguyễn ở Hà Tây. Triều đình nhà Lý chỉ còn kiểm soát được Thăng Long và
các vùng lân cận. Trong khi đó vua Lý Huệ Tông không có con trai. Năm
1225, ông đã nhường ngôi cho con gái thứ là Chiêu Thánh, còn mình là Thái

Thượng Hoàng. Lúc này Lý Chiêu Hoàng mới có 7 tuổi. Vì vậy, mọi quyền
hành của triều đình đều nằm trong tay viên quan Trần Thủ Độ. Dòng họ nhà
Trần lúc này đã chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong triều đình. Sau khi ép
Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lên ngôi lấy hiệu là
Trần Thánh Tông thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.
Triều Trần chính thức được thành lập, thực sự thay thế nhà Lý trên vũ đài
chính trị, nắm quyền điều hành đất nước từ năm 1226 đến năm 1400. Nhà
Trần đã thay thế nhà Lý và giữa hai triều đại này không có khoảng cách về
thời gian. Vì vậy có thể thấy rằng, nhà Trần đã tiếp thu mọi thành tựu văn
hoá của nhà Lý. Mặc dù vậy, với 174 năm tồn tại xã hội thời Trần cũng có
nhiều sự thay đổi. Hơn nữa về mặt nghệ thuật, giữa thời Lý và thời Trần lại
có khoảng cách về thời gian, đó là vừa có sự kế thừa những tinh hoa văn hóa
của thời Lý, vừa có sự giao lưu văn hóa rộng rãi và tinh thần thượng võ thời
Trần phát triển mạnh qua ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 6
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
nên đã làm cho nghệ thuật thời Trần có sự thay đổi và sáng tạo nhất là trong
mĩ thuật.
1.1.2. Khái quát về xã hội thời Trần
Năm 1225, triều Trần thay thế triều Lý. Nhà Trần tiếp tục công cuộc
xây dựng mở mang nước Đại Việt về mọi mặt. Ý thức dân tộc ngày càng
được khẳng định dưới triều Trần. Dưới thời Trần, bộ máy cai trị được củng
cố, kiện toàn, quân đội được quan tâm xây dựng. Trong thời kì này, nông
nghiệp, công thương nghiệp đạt nhiều tiến bộ; các cơ sở giáo dục như: Quốc
học viện, Giảng võ đường được thành lập; văn hóa; khoa học; nghệ thuật
phát triển mạnh: nhiều tác phẩm văn thơ, nhiều công trình nghệ thuật nổi
tiếng ra đời. Đặc biệt chữ Nôm bắt đầu được sử dụng trong văn học.
Những thành tựu đó đã nâng cao đời sống nhân dân, đưa văn minh
Đại Việt lên tới đỉnh cao và tạo sức mạnh đánh bại 3 lần xâm lược của quân
Mông Nguyên (1258, 1285, 1288) giữ vững độc lập, góp phần cùng thế giới

chặn đứng sự bành trướng của đế quốc Mông Cổ. Chiến thắng quân Nguyên
Mông đã một lần nữa khẳng định truyền thống yêu nước và ý chí của dân tộc
ta. Đồng thời ý thức dân tộc ngày càng được khẳng định dưới triều Trần.
Nho giáo tuy chưa phát triển mạnh như Phật giáo, nhưng với cơ sở từ
thời Lý sang thời Trần, Nhà nước cũng rất chú trọng đến việc học hành, thi
cử chọn nho sĩ có tài. Nhiều nhân tài được đào tạo trong thời Trần như Chu
Văn An, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh…
Năm 1232, Nhà nước cho mở khoa thi Thái học sinh để chọn nhân tài. Chữ
Nôm ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn. Bên cạnh Nho giáo, Phật giáo
vẫn được phát triển mạnh, kế tiếp truyền thống từ thời Lý. Mặt khác ở thời
Trần còn có phái thiền do người Việt Nam sáng lập ra. Đó là phái Trúc Lâm
với 3 vị tổ: Trần Nhân Tông - Pháp Loa và Huyền Quang. Phật giáo ngày
càng hoà hợp và gần gũi với đời sống dân gian. Chùa tháp được xây dựng
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 7
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
nhiều, trong các làng xã cũng có nhiều ngôi chùa chiền đẹp tuy quy mô
không lớn như chùa thời Lý.
Về kinh tế, Nhà nước chú trọng khuyến khích nông nghiệp phát triển.
Quân đội nhà Trần vẫn được tổ chức theo chế độ "ngụ binh ư nông" để góp
thêm lực lượng sản xuất nông nghiệp. Kinh tế thành thị cũng song song phát
triển kéo theo sự thịnh vượng của kinh tế hàng hoá, giao thông… Tất cả
những điều đó đã góp phần làm cho Nhà nước phong kiến thời Trần ngày
một vững mạnh hơn. Đồng thời uy tín và ảnh hưởng của nước ta ngày càng
được nâng cao hơn sau chiến thắng quân Nguyên Mông. Mặt khác, trong xã
hội Đại Việt thời đó cũng có nhiều sự thay đổi lớn. Chế độ nông nô, nô tì tan
rã, dần dần biến các nông nô thành những người nông dân tự do. Nhà nước
chú ý hơn tới việc "nới sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc".
Tất cả những điều kiện xã hội đó đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát
triển mĩ thuật thời Trần, nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá nghệ
thuật dân gian phát triển, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc thời Trần có bước

nhiều tiến bộ hơn so với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình
nhạc công biểu diễn mang phong cách Chiêm Thành. Cách trang trí hoa văn
dựa trên nghệ thuật dân dụng, tất cả những điều đó đã tạo nên đặc điểm
riêng biệt cho mĩ thuật thời Trần.
1.2. Khái quát về mĩ thuật thời Trần
Mĩ thuật thời Trần kế thừa tinh hoa của mĩ thuật thời Lý, nhưng dung
dị, đôn hậu và chất phác hơn. Bên cạnh đó mĩ thuật thời Trần còn tiếp nhận
được một số yếu tố nghệ thuật của các nước láng giềng nên đã bổ sung, làm
giàu hơn cho nền nghệ thuật dân tộc. Mĩ thuật thời Trần mang đậm tinh thần
dân tộc ngày một rõ nét và là cơ sở, là nền móng tạo đà cho sự phát triển của
mĩ thuật Việt Nam các giai đoạn sau.
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 8
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Đặc điểm phong cách nghệ thuật thời Trần: mĩ thuật thời Trần với
đường nét phóng khoáng, khoẻ khoắn, giàu chất hiện thực hơn thời Lý. Bố
cục có phần thưa thoáng đơn giản, cách tạo hình khỏe khoắn gần gũi với đời
sống nhân dân lao động. Đề tài phong phú hơn thời Lý, đặc biệt là trên đồ
gốm xuất hiện nhiều hình ảnh các con thú. Rồng còn nhiều nét của thời Lý
nhưng đầu đã có sừng, chân 4 móng, khúc cuộn ở thân doãng hơn. Có thể
nói rằng, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội họa thời Trần có bước tiến
bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý. Nếu phong cách mĩ thuật thời Lý bộc lộ rõ
tính tư tưởng hoá, mẫu mực, đường nét mềm mại, nhịp nhàng, chau chuốt thì
mĩ thuật thời Trần mang đậm nét hiện thực, sống động, đơn giản, có vẻ đẹp
khỏe khoắn, phóng khoáng, biểu hiện được sức mạnh, lòng tự hào và tự tôn
dân tộc.
Mĩ thuật thời Trần phát triển trên cơ sở, nền móng đã có từ thời Lý.
Tuy vậy do điều kiện, hoàn cảnh xã hội khác nhau dẫn đến quan niệm thẩm
mỹ khác nhau. Nếu mĩ thuật thời Lý đi theo hướng cách điệu cao, đường nét
trau chuốt, tỉ mỉ thì mĩ thuật thời Trần lại chuyển sang hướng hiện thực, cách
tạo hình đơn giản, khái quát và khoẻ khoắn hơn.

Thời kì này nhiều công trình kiến trúc được xây dựng, về kiến trúc
cung đình thì có tu bổ hoàng thành Thăng Long, xây dựng cung điện Thiên
Trường và nhiều khu lăng mộ nổi tiếng. Về kiến trúc Phật giáo thì giai đoạn
này nhiều chùa tháp cũng được xây dựng. Còn về lĩnh vực điêu khắc nổi bật
nhất là các tượng tròn được tạc bằng đá, gỗ… tượng bệ rồng thì có hình
dáng khỏe khoắn hơn rồng thời Lý.
Chạm khắc gỗ cũng phát triển với những cảnh nhạc công, người chim,
rồng và bệ hoa sen, còn đồ gốm thì xương gốm dày thô và nặng hơn so với
thời lý, gốm gia dụng phát triển mạnh, chế tác được gốm hoa nâu và gốm
hoa lam, họa tiết trang trí sắc xảo hơn chú trọng với những họa tiết như hoa
cúc, hoa sen… và được cách điệu.
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 9
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Như vậy có thể nói đây là giai đoạn mà mĩ thuật Việt Nam có sự phát
triển mạnh mẽ, vừa có sự kế thừa phát huy các giá trị mĩ thuật thời Lý, vừa
có sự sáng tạo khác biệt để phù hợp với hoàn cảnh, xã hội đương thời qua đó
thể hiện được sự dung dị, đôn hậu, chất phát, nói lên được sức mạnh, lòng tự
hào của dân tộc Việt.
Chương II. Những đặc điểm mĩ thuật thời Trần
2.1. Sự kế thừa những tinh hoa văn hóa thời Lý
Nhà Trần là thời kì kế tiếp sau thời Lý. Vì vậy sau khi bắt đầu được
thành lập, nhà Trần thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hoá thời Lý nhất là về
mặt kiến trúc. Các công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo Thiên, chùa
Dạm, chùa Phật Tích… vẫn còn tồn tại. Những công trình kiến trúc, những
tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý đã giữ một vai trò quan trọng, nó
được xem là cơ sở, là nền móng cho mĩ thuật thời Trần phát triển. Mĩ thuật
thời Trần đã có sự thay đổi về phong cách, cách thức thể hiện để phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh văn hóa, xã hội mới. Sự thay đổi đó diễn ra trong
một thời gian khá dài vừa có sự tiếp thu và tiếp biến qua thời gian của lịch
sử. Sự chuyển biến về phong cách diễn ra từ từ trên cơ sở thừa kế những tinh

hoa của văn hoá nghệ thuật thời Lý. Sự kế thừa này thể hiện rất rõ qua nhiều
tác phẩm và hình tượng nghệ thuật tiêu biểu, nhất là trong nghệ thuật chạm
khắc trang trí, hội họa. Những đề tài, hình tượng nghệ thuật ít có sự thay đổi.
Trong chạm khắc chúng ta gặp lại những nội dung đề tài quen thuộc:
sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim, mây, mặt
trời… Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng nước
vẫn mang tinh thần hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý.
Hình rồng trên viên gạch ở chùa Hoa Yên (Yên Tử - Quảng Ninh) vẫn
mang những nét điển hình của rồng thời Lý như sự đều đặn, uốn lượn nhịp
nhàng và sự mềm mại của đường nét. Đề tài rồng được sử dụng trong các
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 10
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
môtíp trong mĩ thuật thời Lý như rồng chầu vông sáng. Một số hoa văn hoa
lá vẫn mang tính cách điệu cao như những hình lá dương xỉ trang trí trên bệ
đá chùa tháp Phổ Minh (Nam Định).
Nhìn chung những chạm khắc trang trí thời Trần vẫn mang phong
cách mềm mại, nhẹ nhàng, bộc lộ trí tưởng tượng phong phú và tài năng
sáng tạo của ông cha ta. Những nét tinh hoa của văn hoá tạo hình thời Lý
vẫn trở lại trên các tác phẩm mĩ thuật thời Trần. Phải chăng đó không phải là
đặc điểm của mĩ thuật thời Lý mà còn chính là đặc điểm mang tính dân tộc
đậm đà của người Việt, mặc dù thời gian có thay đổi. Trên cở sở tinh hoa
văn hoá thời Lý, mĩ thuật thời Trần lại phát triển trong điều kiện xã hội có
nhiều biến thiên khác với thời Lý. Do đó bên cạnh việc kế thừa về văn hoá,
nghệ thuật các nghệ nhân thời Trần còn sáng tạo nhiều công trình tác phẩm
mĩ thuật đặc sắc và mang một phong cách riêng của thời kỳ này. Đó là
những đặc điểm khác biệt mà qua quá trình vừa tiếp thu vừa sáng tạo của mĩ
thuật thời Trần đã đạt được. Mặc dù vậy, những nét dân tộc vẫn được thể
hiện rõ trong mĩ thuật thời kỳ này. Có thể nói rằng, mĩ thuật thời Trần đã
mang đậm dấu ấn văn hóa của dân tộc.
2.2. Những thay đổi và sáng tạo trong mĩ thuật thời Trần

2.2.1. Nghệ thuật kiến trúc
Kiến trúc thời Trần lúc đầu được kế thừa thành tựu kiến trúc thời Lý
do đó có nhiều điểm gần với kiến trúc thời Lý. Tuy vậy từ năm 1262 trở đi,
với kiến trúc chùa, tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn, chùa Thái Lạc… cùng
với các tác phẩm chạm khắc trang trí trên các công trình đó đã bắt đầu bộc lộ
phong cách mĩ thuật của thời kỳ này. Đó là sự thay đổi về vị trí, kiểu dáng
các công trình kiến trúc, cách thể hiện các đề tài trang trí mang tính hiện
thực phóng khoáng và thoáng đạt hơn.
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 11
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Qua dấu vết còn lại của một số ngôi chùa thời Lý thì thấy các chùa
thời Lý thường được xây dựng ở những nơi đất cao và có cảnh đẹp như ở
chân núi, trên núi… Vì vậy mặt bằng của các ngôi chùa thời Lý thường được
trải dài trên ba bốn bậc cấp và cao dần. Sang thời Trần, các chùa tháp được
phân bố rộng rãi hơn, bố cục mặt bằng chùa thời Trần cũng có nhiều kiểu.
Như chùa Yên Tử, trung tâm của phái Trúc Lâm tam tổ được xây dựng trên
núi, do đó phải bạt núi để xây dựng thành cụm chùa riêng theo từng cấp bậc.
Lối kiến trúc này gần giống với lối kiến trúc của chùa Phật Tích, chùa Dạm
thời Lý. Tuy vậy còn có thể có lối bố cục theo kiểu “nội công ngoại quốc”
có nghĩa là ba tòa Tiền Đường, Thiên Hương, Thượng Điện được sắp sếp
theo kiểu chữ công hành lang bao quanh giống như chữ quốc. Kiểu bố cục
mặt bằng này sẽ gặp nhiều hơn trong kiến trúc các thời kỳ sau. Qua đó cho
thấy có những thừa kế và sự sáng tạo trong phong cách mĩ thuật thời Trần.
Cùng với kiến trúc thời Lý, kiến trúc thời Trần đã làm phong phú thêm, hoàn
chỉnh thêm kiến trúc Phật giáo nói riêng và đóng góp cho kho tàng kiến trúc
dân tộc nhiều công trình có giá trị cao.
Tháp thời Trần được xây dựng theo kiểu tháp vuông 4 mặt, có nhiều
tầng, nhỏ dần về phía ngọn. Tầng dưới cùng thường cao nhất có thể từ 2 đến
2,2m. Bề ngoài thường được trang trí bằng nhiều hình tượng. Tháp có hai
loại thờ Phật, thờ tổ và tháp có đặt xá lị của các sư tổ (tháp mộ). Đứng ở

dưới đất ngước nhìn lên, ngọn tháp như vươn tới trời cao. Cây tháp như nét
nối giữa trời và đất. Từ đó, những điều cầu nguyện, những mong muốn sự
tốt lành cho con người sẽ đến được với Đức Phật. Có thể vì lẽ đó, mà tháp
thường đứng với kiến trúc chùa và có chiều cao hơn ngôi chùa rất nhiều.
Căn cứ trên các ngôi tháp còn lại ở thời Trần như tháp Phổ Minh, tháp Bình
Sơn… thì chiều cao của tháp thường gần bằng hoặc bằng chu vi chân tháp
(có nghĩa là tỷ lệ giữa các cạnh đáy và chiều cao xấp xỉ tỉ lệ 1/4).
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 12
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Cùng với kiến trúc Phật giáo, trong thời Trần hai loại kiến trúc cung
đình và kiến trúc lăng mộ cũng rất khá triển.
Năm 1289, nhà Trần cho xây dựng lại kinh thành Thăng Long. So với
thời Lý, kinh thành Thăng Long thời kỳ này được mở mang thêm nhiều
đường phố, xây dựng thêm nhiều cung điện, lầu gác. Ngoài ra, ở vùng quê
hương Nam Định còn xây dựng phủ Thiên Trường với quy mô tương đối lớn
trong thời gian từ năm 1262 đến năm 1264. Ngày nay các nhà khảo cổ còn
tìm thấy nhiều dấu vết của khu cung điện đó. Ở đây có khu Trùng Quang to
lớn và đẹp đẽ được Trần Nguyên Đán ví như cung điện nhà Hán. Ngoài ra
còn có nhiều cung điện làm chỗ nghỉ và làm việc cho các vua, các Thái
Thượng Hoàng. Nơi đây có trường học, chùa tháp Phổ Minh… Tất cả các
công trình đó làm cho phủ Thiên Trường trở thành nơi đô hội sầm uất, thịnh
vượng của nhà Trần.
Kiến trúc cung đình thời Trần có 3 công trình lớn như kinh thành
Thăng Long, Phủ Tây Đô và Phủ Thiên Trường (Nam Định). Ngoài hai thể
loại kiến trúc cung đình và kiến trúc Phật giáo, thời kỳ này đã bắt đầu có
những kiến trúc lăng mộ của các vua hoặc quan lớn như: Trần Thủ Độ cũng
được xây lăng ở Hưng Nhân (Thái Bình). Mặc dù vậy về kiểu dáng cũng
chưa có gì đáng kể. Phần lớn các lăng ngày nay đã bị tàn phá, không còn
được nguyên vẹn và việc xác định vị trí lăng rất khó. Có một số tài liệu nhắc
đến khu lăng mộ của Trần Thủ Độ ở Thái Bình, lăng vua Trần Anh Tông,

Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông ở An Sinh - Đông Triều - Quảng Ninh…
2.2.2. Nghệ thuật điêu khắc
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần là sự nối tiếp thời Lý nhưng cách tạo
hình hiện thực khoáng đạt, khỏe khoắn hơn. Yếu tố tạo nên nét đặt trưng đó
là sự giao lưu văn hóa rộng rãi, tinh thần thượng võ được phát huy mạnh mẽ
qua các cuộc chiến. Thời kỳ này điêu khắc vẫn gắn với kiến trúc, đi cùng
kiến trúc và mang đặc điểm, phong cách phù hợp với kiến trúc. Đi với kiến
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 13
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
trúc chùa tháp có tượng Phật, tượng thờ tượng rồng, tượng sấu. Với lăng mộ
có tượng quan hầu, tượng thú, vừa mang tính trang trí cho lăng mộ vừa đóng
vai trò là người canh gác giữ cho sự trang nghiêm, tĩnh lặng của ngôi mộ,
tạo sự bình yên cho linh hồn người đã khuất. Nếu các bức tượng, phù điêu
còn lại của thời Lý tập trung nhiều ở chùa Phật Tích, chùa Dạm… thì ở thời
Trần các tác phẩm tìm được tập trung ở các khu lăng mộ là chính.
Tượng phật Thời Trần Chuông phổ minh Thời
Trần
Tượng Phật bà nghìn
mắt, nghìn tay
Tượng đất nung đầu chim
phượng thời Trần
Điêu khắc rồng thời Trần
Bệ hoa sen Thời Trần Cửa thời Trần (tại Bảo
tàng Nam Định)
Tê giác chùa Phật Tích
Phượng thời Trần
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 14
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Rồng Thời Trần Bệ đá thời Trần
Vũ điệu dâng hoa

Các tác phẩm điêu khắc Thời Trần có giá trị mĩ thuật cao
Các tác phẩm điêu khắc thời Trần chủ yếu sử dụng chất liệu là đá.
Tượng Phật thì hầu như không tìm thấy tác phẩm nào, nhưng bệ đá hoa sen
thì lại tìm được khá nhiều như bệ đá chùa Ngọc Đình (1374), chùa Bối Khê
(1382)… Những bệ đá hoa sen này có thể là bệ tượng Phật hoặc để bày đồ lễ
và thường được đặt ở vị trí tôn nghiêm nhất trong chùa. Bệ đá hoa sen
thường được thể hiện là một khối hình chữ nhật, phần trên cùng chạm hai
lớp cánh sen, phần tiếp theo thu nhỏ lại, bốn góc tạo hình bốn con chim thần.
Các mặt chia ô chạm rồng, mây, hoa lá,… dưới cùng là đế bệ.
Trong một số lăng mộ của vua quan thời Trần có những con vật gần
gũi với đời sống người dân như con trâu, con chó,… bên cạnh các đề tài
chính thống khác như tứ linh… Mặc dù vậy, ngay cả trong những pho tượng
thể hiện đề tài chính thống vẫn bắt gặp những nét hình dân gian, chất hiện
thực sống động và biểu hiện cảm xúc mạnh mẽ. Trên các pho tượng thời
Trần, trang trí hoa văn đơn giản và bớt đi nhiều so với thời Lý.
Các tác phẩm điêu khắc thời Trần chủ yếu vẫn sử dụng những đề tài
quen thuộc như: rồng, phượng, hoa lá, sóng nước,… Tuy vậy cũng có một số
thay đổi như đề tài thể hiện tổng hợp: đầu rồng, sừng tê,… Hình tượng các
cô tiên dâng hương, dâng hoa đều thể hiện trong hình thức nửa người nửa
chim rất phong phú và sinh động. Hình tượng này gặp nhiều trong các trang
trí ở chùa Thái Lạc. Mật độ hoa văn trang trí thoáng hơn, đường nét bớt đều
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 15
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
đặn và phóng khoáng hơn. Ở một số nơi còn trang trí các đề tài đậm chất dân
gian như tác phẩm “Dê, hoa lá” ở bệ tượng Phật chùa Bối Khê – Hà Tây.
Hình tượng rồng mặc dù về cơ bản vẫn giữ nhiều nét kế thừa rồng
thời Lý song trong cách biểu hiện lại có nhiều sự thay đổi. Các khúc uốn
không còn đều đặn, thoăn thoắt mà khúc doãng, khúc mau tạo sự sống động
và hiện thực cho con rồng thời Trần. Những nét mềm mại trong rồng thời Lý
bớt đi nhiều, thay vào đó là nét khỏe khoắn, mập mạp và cứng cáp hơn. Một

vài chi tiết như chân, móng, đầu rõ ràng, khúc chiết hơn. Hình rồng được
chạm nổi trên bia và bệ đá, cả trên gạch rất nhiều, nhưng đã có nhiều tượng
rồng được làm thành những cặp thành bậc cửa ở một số chùa và trước cung
điện. Những cặp tượng rồng này hoàn toàn đúng nghĩa là tác phẩm tạo hình
trong không gian ba chiều, vượt qua tính chất trang trí cho một vật phẩm
khác như đế bia thời Lý, nó là tác phẩm điêu khắc độc lập tự thân tồn tại.
Chạm khắc để trang trí, làm tôn thêm vẻ đẹp cho các công trình kiến
trúc. Tuy nhiên ở thời Trần đã có nhiều bức chạm mang tính tổng hợp và có
chủ đề, bố cục độc lập được coi như tác phẩm hoàn chỉnh: cảnh Dâng hoa -
Tấu nhạc (chùa Thái Lạc, Hưng Yên), Vũ nữ múa (bệ đá chùa Hoa Long,
Thanh Hóa), Rồng (chùa Dâu, Bắc Ninh),
Những công trình tiêu biểu thời kỳ này gồm có những công trình
chạm khắc trên gỗ đá như cánh cửa chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa Thái
Lạc (Hưng Yên), hổ đá trên lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình). Ngoài ra, còn có
tượng trâu, ngựa ở lăng Trần Hiến Tông, Đặc biệt lăng Trần Thủ Độ được
cho là tiêu biểu cho điêu khắc thời Trần.
Bộ cửa gian giữa nhà Tiền đường chùa Phổ Minh gồm 4 cánh chạm
rồng, sóng nước, hoa lá và văn hoa hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng
lớn chầu Mặt Trời trong khuôn hình lá đề, được coi là một tác phẩm điêu
khắc khá hoàn mỹ. Cùng với đôi sấu đá trên thành bậc tam quan và đôi rồng
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 16
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
trên thành bậc gian giữa tiền đường, bộ cánh cửa này còn giữ được những
dấu ấn của nghệ thuật chạm khắc đời Trần.
Chùa Thái Lạc được tu sửa nhiều lần nhưng vẫn còn giữ được nhiều
di vật gỗ thời Trần như bộ vì nhà, các bức cốn, cột chạm nhạc công tấu nhạc,
nữ thần chim (Kinnari), em bé nâng hoa sen, rồng, phượng, hoa lá
So với thời Lý, thời Trần lại có khá nhiều biến cố: ba lần phải đương
đầu đấu tranh sinh tử cùng với đế chế Mông Nguyên, bị tấn công từ phía
Chiêm Thành, các cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra… Về mặt tư tưởng, tôn

giáo có sự chuyển dời trọng tâm từ Phật sang Nho giáo, các chùa chuyển dần
về làng, dần dần được dân gian hoá. Do đó đã nảy sinh những nét mới trong
mĩ thuật ở thời kỳ này. Bên cạnh xu hướng cổ điển có phần chững lại, xu
hướng dân gian bình dị từ thời Lý có điều kiện thuận lợi để phát triển. Vẫn
tiếp nhận dáng vẻ thon thả, mềm mại, uyển chuyển, mảng khối óng ả thời
Lý, điêu khắc thời Trần đi sâu thể hiện nội lực qua những khối trục, mảng to
mập, sức căng, đôi khi góc cạnh khúc chiết của đường nét tạo nên xu hướng
thiên về vẻ đẹp hiện thực, khỏe khoắn, phóng khoáng. Nhìn chung điêu khắc
thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so với thời Lý,
trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong
cách Chiêm Thành. Chân các bệ, cột thường có hình hoa sen. Cách trang trí
hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng.
Có thể so sánh nhiều tác phẩm ở các thể loại nghệ thuật khác nhau để
thấy được sự thay đổi trong cách sáng tạo, biến đổi của thời Trần dựa trên
nền tảng, cơ sở là những tinh hoa văn hóa nghệ thuật từ thời Lý. Đặc điểm
này bộc lộ rất rõ trong mọi lĩnh vực của mĩ thuật thời Trần.
2.2.3. Nghệ thuật hội họa
Bên cạnh những tác phẩm chân dung mang tính chất lý tưởng như bức
tranh chân dung 72 người học trò của Khổng Tử, thời Trần còn có bộ tranh
chân dung của những người có công trong cuộc kháng chiến chống quan
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 17
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Nguyên Mông. Những bức tranh đó được tập trung trong bộ “Trung hưng
thực lục”. Trong đó ghi rõ tiểu sử, chép truyện và vẽ hình. Đây là bộ sách có
giá trị lịch sử và nghệ thuật cao. Tiếc là đến nay vẫn chưa tìm thấy tranh, mà
chỉ lưu truyền những câu thơ vua ban khi tặng tranh. Những bài thơ đã
chứng tỏ kiến trúc, điêu khắc cùng với hội họa thời Trần đã có sự phát triển
mạnh mẽ.
Cuối thế kỷ XIV, tình hình suy yếu của nhà Trần làm nảy sinh tư
tưởng mưu đồ phản loạn, vì thế vua Trần đã cho chép tranh “tứ phụ” nêu

gương bốn người có công giúp vua dựng nghiệp lớn là: Tô Hiến Thành, Chu
Công, Hoắc Quang và Gia Cát Lượng. Năm 1394, vua ban tặng cho Hồ Quý
Ly và mong ông sẽ noi gương của những trung thần này. Bộ tranh chân dung
này có lẽ cũng được vẽ theo lối tượng trưng, mang tính lý tưởng hóa cao.
Năm 1396, Nhà nước cho ban hành tiền giấy. Trên các đồng tiền có vẽ
hình công, sóng nước, phượng, rồng, tùy giá trị tiền từ 10 đồng đến 1 quan
tiền. Điều này phần nào cho biết về hình vẽ thời Trần.
Ngoài ra qua thơ còn cho biết số tranh vẽ của thời kỳ này như bài: "Đề
Đường Minh Hoàng dục mã đồ" trong Hoàng Việt thi văn tuyển (Hà Nội -
1957 trang 75). Qua bài thơ chúng ta cảm nhận được nội dung đề tài của bức
tranh và sự thông cảm của tác giả trước nổi khổ của nhân dân. Bài thơ vịnh
tranh vẽ con Hạc vừa bay vừa quay đầu lại…
2.2.4. Nghệ thuật trang trí đồ gốm thời Trần
Cùng những phát hiện quan trọng về các dấu tích kiến trúc, một số
lượng lớn đồ gốm sứ là những vật dụng dùng hàng ngày trong Hoàng cung
qua nhiều thời kỳ cũng được tìm thấy. Gốm thời Trần tìm được khá nhiều
trong các hố khai quật và thường tìm thấy cùng với những đồ gốm trang trí
kiến trúc cùng thời. Gốm thời kỳ này có rất nhiều loại, gồm các dòng gốm:
men trắng, men ngọc, men xanh lục, men nâu, hoa nâu và hoa lam.
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 18
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Do phát triển kế thừa trực tiếp từ gốm thời Lý, nên các loại gốm thời
Trần cơ bản có phong cách giống gốm thời Lý cả về hình dáng, màu men và
hoa văn trang trí. Cũng chính vì đặc thù này nên việc phân biệt gốm thời Lý
và gốm thời Trần là điều không dễ. Tuy nhiên, dựa vào kỹ thuật tạo chân đế,
chúng ta bước đầu có thể phân biệt sự khác nhau giữa gốm Lý và gốm Trần.
Nhìn chung, kỹ thuật tạo chân đế của gốm thời Trần thường không
làm kỹ như gốm thời Lý. Về hoa văn trang trí, dù có cách bố cục hoa văn
như thời Lý, nhưng về chi tiết gốm thời Trần không tinh xảo và cầu kỳ như
gốm thời Lý. Đặc biệt đối với gốm men độc sắc, bên cạnh loại gốm trang trí

hoa văn khắc chìm, thời Trần còn phổ biến loại gốm có hoa văn in khuôn
trong. Đây là hoa văn rất phát triển ở thời Trần và đa dạng hơn về hình mẫu
so với gốm thời Lý.
Bên cạnh sự phong phú các loại hình đồ gốm độc sắc (men trắng, men
ngọc, men nâu) tại khu vực khai quật đã tìm được khá nhiều đồ gốm hoa nâu
có chất lượng cao. Trong đó, đáng chú ý là chiếc thạp lớn có nắp trang trí
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 19
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
hoa sen và những chiếc vò, chậu trang trí hoa văn dây lá. Đặc biệt, tại hố D5
còn tìm thấy một chiếc chậu trang trí hình bốn con chim đi kiếm mồi trong
bốn tư thế khác nhau, xen giữa là cành lá sen và hoa sen nhỏ. Đây được xem
là một trong những tiêu bản gốm hoa nâu thời Trần đặc sắc ở Việt Nam.
Nét mới riêng biệt và rất đáng lưu ý về gốm thời Trần là sự xuất hiện
dòng gốm hoa lam. Loại gốm này được tìm thấy khá nhiều trong các hố khai
quật và phổ biến là bát, đĩa vẽ cành hoa cúc màu nâu sắt và xanh cobalt
giống như những đồ gốm đã được xuất khẩu sang Đông Nam Á, Trung
Đông và Nhật Bản vào khoảng giữa thế kỷ XIV. Tại các hố ở khu D cũng
tìm thấy chồng đĩa lớn vẽ cành hoa cúc cùng nhiều chồng dính của loại gốm
men độc sắc trang trí văn mây hình khánh, chim phượng và hoa lá. Tư liệu
này góp phần khẳng định thêm rằng, ngoài những dấu hiệu về lò gốm thời
Lý nói trên khả năng ở đây còn có những lò gốm thời Trần.
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 20
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
Trong nghệ thuật gốm sứ thì gốm men ngọc được xem là đỉnh cao.
Bát men ngọc thời Trần, với màu men xanh lục mát nhẹ, hình lá sen vô cùng
bắt mắt, dáng vẻ tao nhã, bình dị, thanh thoát. Chiếc bát men ngọc có kích
thước lớn, khoảng 30cm, miệng loe rộng, đáy rất nhỏ, thành bát xiên hơi
cong lên miệng. Về tạo hình, gợi cho ta cảm giác một lá sen bánh tẻ đang
sắp xòe ra, với hình lượn cong nhấp nhô, chạy bao vòng quanh miệng bát
nổi gồ lên, điểm các sống lá đều, tạo ra các mảng hình sáng tối, nổi chìm,

hiện lên một vẻ đẹp trang nhã, giản dị, mang phong cách trang trí Phật giáo.
Trong lòng bát gốm, ba phần trang trí có bố cục phân chia rất chi li,
tính toán khoảng cách hợp lý, từ thành miệng trang trí dải đường triện nét
thanh đều đơn giản ở thành bát còn dựng chéo đứng, đến ngả dần vào lòng
bát và một vòng tròn, trang trí đối xứng môtíp rồng mây đuổi nhau, dáng
thân rồng uốn lượn uyển nhã, một chân trước duỗi ra giơ vuốt, một chân co
lại phía sau. Hai chân sau choãi ra nâng cong uốn thân rồng, phía đuôi vút ra
phía sau như trả lại nhịp điệu lượn cong của rồng trong không gian, nối tiếp
đám mây bay bạt theo ngọn gió của đuôi rồng. Phần đầu rồng là một mảng
lớn, tư thế vươn cao, há miệng mạnh mẽ, sau tai bờm rồng bay vút cao, uốn
lượn nhịp điệu hòa cùng với vây lưng, thân rồng phía dưới, tạo ra một mảng
môtíp rồng mây có bố cục khoáng đạt, chặt chẽ về mảng hình. Đôi rồng là
môtíp trang trí chủ thể trong đồ án đăng đối không đều nhau hoàn toàn. Tiếp
đến là hai vòng tròn kết thúc môtíp lưỡng long ở vòng thành bát để lại phần
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 21
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
tâm tròn, đáy lòng bát được trang trí đôi cá với dong rêu, là loại môtíp rất
phổ biến thời Lý Trần. Họa tiết đôi cá đuổi nhau, bố cục cân đối, đặt so le
với trang trí rồng tạo ra một bố cục tổng thể chính phụ rất rõ ràng với bố cục
mảng hình, đường nét sắc sảo, chắc khỏe. Những hoa văn trong lòng bát
được diễn tả tinh tế, đường nét khắc điêu luyện, được in nổi bằng khuôn in.
Đồ gốm sứ Lý - Trần trong lịch sử đã có bước phát triển rất cao, góp
phần thay đổi diện mạo kiến trúc cung điện, hoa viên với những đầu rồng
men ngọc to lớn tìm được ở Hoàng thành. Lịch sử nghệ thuật tạo hình, gốm
sứ là thời kỳ phục hưng văn hóa của Đại Việt sau 10 thế kỷ bị xâm lược đã
vươn lên chói sáng, mẫu mực và niềm tự hào của gốm Việt Nam.
Có thể nói dưới thời Trần ở các lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, hội họa
cũng như nghệ thuật trang trí đồ gốm đều có bước phát triển mạnh so với
thời Lý. Tuy nhiên, mĩ thuật cả hai thời Lý và Trần đều chịu ảnh hưởng lớn
của Phật giáo. Do đó dù có khác nhau về phong cách thì mĩ thuật hai thời kỳ

này vẫn có nét tương đồng, mang đậm nét mĩ thuật dân tộc.
2.3. Những tác phẩm mĩ thuật tiêu biểu của thời Trần
2.3.1. Các tác phẩm kiến trúc tiêu biểu thời Trần
2.3.1.1. Kiến trúc cung đình thời Trần
 Lăng Trần Thủ Độ ở Tam Đường (Thái Bình)
Ở thời Trần bên cạnh các lăng
vua, còn có lăng một số viên quan
đóng góp nhiều cho triều đình, Trần
Thủ Độ là một trong số đó. Trần
Thủ Độ là thái sư triều Trần, ông là
người uy dũng, quyết đoán, và có
công dựng lên vương triều Trần,
người có vai trò quan trọng trong
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 22
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
chiến thắng chống quân xâm lược Mông Cổ (1258). Khu lăng mộ của ông
được xây dựng vào năm 1264, lăng Trần Thủ Độ hiện còn lại tượng hổ và
một tượng đã vỡ không rõ hình thù, có thể là tượng Huyền Vũ theo truyền
thuyết, phỏng đoán lăng này có mặt bằng hình vuông, bốn hướng có 4
tượng: Bạch Hổ (Tây), Thanh Long (Đông), Huyền Vũ (Bắc), Chu Tước
(Nam), theo đề tài tứ linh trong quan niệm cổ chỉ phương hướng. Lăng rộng
đến hai mẫu, cây cối um tùm, khu vực lăng có các tượng hổ đá, dơi đá, chim
đá và bình phong bằng đá, đặc biệt tượng hổ được cho là một tác phẩm nghệ
thuật đẹp trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam.
 Đền An Sinh và lăng mộ nhà Trần
Đền và lăng mộ nhà Trần thuộc xã An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh
Quảng Ninh, nằm rải rác trong một khu đất rộng có bán kính 20km để thờ
“Bát Vị Hoàng Đế” thời Trần. Đây là một trong những công trình tưởng
niệm có giá trị lớn trong lịch sử Việt Nam, được trùng tu vào thời Hậu Lê và
thời Nguyễn. Quần thể di tích gồm một đền và tám lăng mộ.

Khu đền Sinh thuộc thôn Nghĩa Hưng là nơi thờ chung tám vị vua nhà
Trần và lăng mộ của
Trần Thái Tông, Trần
Thánh Tông và Giản
Định Đế. Lăng mộ Trần
Anh Tông ở khu trại lốc,
lăng Trần Minh Tông ở
khu Khe Gạch, lăng Trần
Hiến Tông ở khu Ao Bèo, Lăng Trần Dụ Tông ở khu Đống Tròn, lăng Trần
Nghệ Tông ở khu Khe Nghệ.
Ngoài việc xây dựng điện miếu ở mỗi lăng làm nơi thờ cúng, triều
đình còn cho xây dựng ở khu đền Sinh nhiều tòa điện miếu lớn để làm nơi
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 23
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
tế, lễ bái yết và cắt cử các quan về trông coi cẩn thận. Toàn bộ khu vực này
trở thành thánh địa tôn nghiêm qua các triều Trần, Lê, Nguyễn.
Đền Sinh gồm ba tòa nhà rộng, kết cấu hình chữ tam, Tiền đường thờ
triều Trần, bái đường thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, Hậu cung thờ
tám vua Trần: Thái Tông, Chánh Tông, Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông,
Dụ Tông, Nghệ Tông và hoàng đế hậu Trần là Giản Định Đế (Trần ngồi).
Ở phía sau đền có 3 lăng các vua: Thái Tông, Thánh Tông và Giản
Định Đế. Rải rác ở suốt dãy núi còn có lăng các vua Anh Tông, lăng vua
Minh Tông, lăng vua Hiến Tông, lăng vua Dụ Tông, vua Nghệ Tông. Lăng
vua Trần Hiến Tông ở xã An Sinh huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh. Đây
là lăng mộ vua Trần duy nhất có các tượng “người đá, ngựa đá, hổ đá, dê đá,
trâu đá”.
Trong lăng có
một tượng quan hầu
còn khá nguyên. Tượng
cao 130 cm, đứng trên

đế chữ nhật cạnh trước
39 cm cạnh bên 30 cm
còn nổi trên đất 10cm.
Tượng và bệ liền một
khối đá dựng thẳng
đứng, tất cả khuôn lại
trong một trụ gọn gàng như kiểu tượng mồ Tây Nguyên, không có những chi
tiết nhô ngang dễ gãy. Tượng được diễn tả một viên quan hầu cận đứng
nghiêm, hai tay ép sát sườn rồi đưa ngang về trước bụng để nâng một vật
như chiếc hộp trước ngực, nhưng bàn tay bị che khuất. Đầu tượng đội mũ bó
sát thành băng ngang phía trên trán. Thân mặc áo dài quét đất, gấu áo hơi loe
ra, phía trước để lộ hai bàn chân đi giầy, ống tay áo rộng thành khối vuông
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 24
Đặc điểm mĩ thuật thời Trần GVHD: TH.S ĐÀM VĂN THỌ
trước bụng, áo không có trang trí mà chỉ có nếp chảy xuôi, bốn cạnh thân nổi
rõ.
Như vậy toàn thân tượng cũng như các thành phần chính được quy về
các khối hình học có góc cạnh rõ ràng, điều đó làm tăng tính khúc triết, khỏe
khoắn, dứt khoát. Đầu tượng hơi dài, mặt thon thả, mắt, mũi, miệng đều sát
thực và ở trạng thái đăm chiêu, bình thản. Trong không gian lăng mộ, giữa
lũng hoang cạnh sườn núi, tượng quan hầu trang nghiêm và tĩnh lặng đến
tuyệt đối, phảng phất một nỗi ưu tư.
 Di tích cung điện thời Trần ở làng Tức Mạc
Làng Tức Mạc ở phía bắc ngoại thành Nam Định, cách trung tâm
thành phố 3km. Đây là quê hương của nhà Trần, nơi sinh ra Trần Hưng Đạo
- vị anh hùng dân tộc. Cung điện thờ các vua Trần và Trần Hưng Đạo. Phía
tây cung đình là chùa Phổ Minh, lại dựng một cung riêng cho các vua đương
triều mỗi khi về thăm Thái Thượng Hoàng thì về nghỉ tại đó.
Đã 700 năm trôi qua, khu cung điện không còn nữa, nay có đền Thiên
Trường để thờ 14 vị vua Trần, đền Cổ Trạch thờ Trần Hưng Đạo, và chùa

Phổ Minh với cây tháp Phổ Minh nổi tiếng.
2.3.1.2. Kiến trúc Phật giáo thời Trần
 Chùa Phổ Minh (Phổ Minh Tự)
Chùa Phổ Minh là một trong nhữmg công trình kiến trúc tiêu biểu của
thời Trần. Chùa được xây dựng từ thời Lý, sang thời Trần chùa được xây
dựng mở mang hơn. Chùa Phổ Minh nằm trong vùng đất của Phủ Thiên
Trường. Chùa được xây dựng vào năm 1262, ở phía tây cung Trùng Quang
của các vua nhà Trần. Nhưng theo các minh văn trên bia, trên chuông thì
ngôi chùa này đã có từ thời nhà Lý. Có thể chùa đã được xây dựng lại với
quy mô rộng lớn từ năm 1262 tuy đã nhiều lần tu bổ nhưng chùa vẫn giữ
được nhiều dấu tích nghệ thuật thời Trần.
SVTH: Đinh Thị Vượng – Lớp 08CVHH Trang 25

×