MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa truyền thống Việt Nam là một dòng chảy xuyên suốt lịch sử hàng ngàn năm
của dân tộc, kết tinh qua bao thế kỷ. Được hình thành từ nền văn minh Văn Lang Âu Lạc
và phát triển qua nền văn minh Đại Việt, qua nhiều thời kì lịch sử với biết bao sóng gió,
biến cố của dân tộc, tồn tại đến ngày hôm nay trở thành những giá trị vô cùng quý báu của
dân tộc.
Quay ngược guồng xe của bánh thời gian, tìm về với cội nguồn dân tộc, dừng chân ở
thời Trần ta chợt nhận ra những giá trị văn hóa dân tộc rất đỗi quý giá và lâu đời. Nói đến
thời Trần lịch sử gọi ngay ra một triều đại hưng thịnh với những nét nổi bật, đặc sắc về
kinh tế - chính trị và không thể không nhắc đến văn hóa – nghệ thuật mà chủ thể là nền mĩ
thuật thời Trần.
Thời Trần là thời kỳ mà mĩ thuật Việt Nam phát triển đến đỉnh cao rực rỡ, là thời kì
hoàng kim của những thành tựu mĩ thuật. Nói đến nghệ thuật thời Trần là nói đến những
công trình, những thành tựu mĩ thuật coi đó là mẫu mực của mĩ thuật phong kiến Việt
Nam.
Lấy cảm hứng từ Phật giáo, mĩ thuật thời Trần mang đậm tinh thần tôn giáo, đó là
những công trình kiến trúc, điêu khắc với những đường nét chạm trổ tinh vi, điêu luyện và
tinh xảo.
Điểm lại những thành tựu mà văn hóa mĩ thuật thời Trần đạt được ta không thể
không kể đến tháp Phổ Minh, tháp Bình Sơn với kiểu kiến trúc đậm chất Phật Giáo, hay
hình tượng những con rồng tinh xảo, vừa uyển chuyển, nhẹ nhàng vừa khỏe khoắn uy nghi.
Cùng với sự ảnh hưởng của Phật Giáo, thời Trần đạo nho cũng rất phát triển kéo theo
đó là sự phát triển của mĩ thuật với các công trình nghệ thuật như Hoàng Thành Thăng
Long hay cung Thiên Trường.
Nhìn lại tổng quan lịch sử các chặng đường phát triển của mĩ thuật Việt Nam, ta có
thể thấy mĩ thuật thời Trần phát triển mạnh mẽ mang đến những thành tựu rực rỡ cho văn
hóa Trần nói riêng và văn hóa Việt nam nói chung. Đó là vệt sáng kết tinh những tinh hoa
của một triều đại. Là cống hiến vô giá của giá trị tinh thần trong những đường nét chạm
trổ, điêu khắc.
Chính những thành công, những điểm sáng mà mĩ thuật thời Trần đóng góp cho mĩ
thuật nước nhà mà tôi quyết định chọn đề tài đặc điểm mĩ thuật thời Trần làm bài nghiên
cứu của mình. Qua đây tôi muốn giới thiệu để chúng ta thêm yêu nền văn hóa nước nhà dù
nó đã lùi xa.
2. Lịch sử vấn đề
Lịch sử mỹ thuật Việt Nam nói chung và mỹ thuật thời Trần nói riêng là đề tài được
nhiều nhà nghiên cứu để ý và có nhiều công trình nghiên cứu lớn nhỏ khác nhau. Tuy
nhiên nghiên cứu về đặc điểm mỹ thuật thời Trần còn hạn chế. Nghiên cứu về mỹ thuật
thời Trần có các tác giả tiêu biểu như:
Trong cuốn Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam thì Nguyễn Văn Chung đã giới thiệu bảo
tàng Mỹ thuật Việt Nam và các hiện vật trưng bày đại diện cho mỹ thuật các thời kỳ: đồ
đá, đồ đồng, sơ kỳ đồ sắt, thời Lý, trần, Lê, Nguyễn, giai đoạn cuối thế kỷ 19 - 1945, 1945
- 1954, 1954 - 1985. Mỹ thuật dân gian và mỹ thuật thủ công.
Tiêu biểu trong các công trình nghiên cứu có Mỹ thuật thời Trần của Nguyễn Đức
Nùng ông đã Giới thiệu những nét tiêu biểu về lịch sử, đặc điểm của mỹ thuật thời Trần
thể hiện qua các công trình kiến trúc, các tác phẩm điêu khắc, hội họa trang trí và đồ gốm.
Ngoài ra còn có như Lược Sử Mỹ Thuật Việt Nam", của tác giả Trịnh Quang Vũ đã
đoạt giải A của Hội Mỹ thuật Việt Nam năm 2000. Cuốn sách này bao gồm 2 phần, nhiều
minh hoạ sinh động giúp bạn đọc hình dung một cách đầy đủ về diện mạo Mỹ thuật Việt
Nam gồm các loại hình: nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, trang trí...
Những tác phẩm nghiên cứu trên phần nào đã tìm về cội nguồn mĩ thuật dân tộc, đã
phát ánh phần nào mĩ thuật việt nam nói chung và mĩ thuật Thời Trần nó riêng trên những
chặn đường lịch sử dân tộc. Đó là minh chứng cho một giai đoạn phát triển rực rỡ của mỹ
thuật nước nhà.
3.Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đặc điểm mỹ thuật thời Trần tôi muốn hiểu thêm về nền lịch sử
mỹ thuật nươc ta, qua đó tiếp thu thêm vốn hiểu biết của mình từ đó góp phần vào việc
giới thiệu cho bạn bè bốn phương về mỹ thuật nước ta. Việc tìm hiểu đặc điểm mỹ thuật
thời Trần là về với truyền thống cha ông để qua đây mình thêm niềm tự hào tự tôn dân tộc.
Với bài viết này cũng mong góp phần nhỏ bé hiểu biết của mình vào việc nghiên cứu, tìm
hiểu, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của cha ông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung đi nghiên cứu và tìm hiểu
những công trình nghệ thuật tiêu biểu của thời Trần qua đó tìm ra đặc điểm mỹ thuật nỗi
bật của thời kỳ này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được đề tài này tôi đã sử dụng một số phương pháp sau:
+ Phương pháp khảo sát điều tra. Việc sử dụng biện pháp này đã giúp tôi tìm hiểu
về thời Trần nơi mà những nét đẹp văn hóa được thể hiện qua các công trình điêu khắc, hội
họa, hay các nét chạm trổ.
+ Phương pháp thống kê phân tích. Từ những gì mà tôi khảo sát được tôi đã lựa
chọn lại sau đó dùng kiến thức hiểu biết của mình phân tích từ đó rút ra đặc điểm nổi bật
của mỹ thuật thời Trần.
+ Phương pháp so sánh lịch sử . Phương pháp này giúp tôi hiểu rõ hơn và có sự
phân biệt giũa triều đại này với triều đại khác.
Ngoài ra tôi còn sử dụng một số phương pháp khác để bài viết của mình hoàn chỉnh
hơn.
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài viết này tập trung vào hai chương chính:
Chương 1: Khái quát đất nước Việt Nam dưới triều đại nhà Trần
Chương 2: Một số đặc điểm mỹ thuật thời Trần
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM DƯỚI TRIỀU ĐẠI NHÀ TRẦN
1. Sự thành lập triều Trần và những nét khái quát về xã hội thời Trần .
1.1. Sự thành lập triều Trần:
Nhà Lý phát triển thịnh trị vào đời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1127), sau đó bắt đầu
đi vào con đường suy yếu. Các vua lên ngôi khi còn bé như vua Lý Anh Tông làm vua khi
5 tuổi, Lý Cao Tông 2 tuổi… Quyền hành rơi vào tay những kẻ hại dân. Trước tình hình
ấy, nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổ ra, góp phần làm lung lay ngai vàng nhà Lý. Khi nhà Lý
suy yếu, nạn cát cứ lại xảy ra. Năm 1211, ba dòng họ phong kiến lớn đã nổi dậy. Đó là họ
Đoàn ở Hải Dương, Hải Phòng; họ Trần ở Thái Bình, Nam Định và Nam Hưng Yên; họ
Nguyễn ở Hà Tây. Triều đình nhà Lý chỉ còn kiểm soát được Thăng Long và các vùng lân
cận. Trong khi đó vua Lý Huệ Tông không có con trai. Năm 1225, ông đã nhường ngôi cho
con gái thứ là Chiêu Thánh, còn mình là Thái Thượng Hoàng. Lúc này Lý Chiêu Hoàng
mới có 7 tuổi. Vì vậy, mọi quyền hành trong tay triều đình đều nằm trong tay viên quan
diện tiền Trần Thủ Độ. Dòng họ nhà Trần lúc này đã chiếm giữ một vị trí trọng yếu trong
triều đình. Cuối cùng ngày 12 tháng chạp năm ất Dậu (11/1/1226) dưới sự chỉ đạo của
Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng tuyên bố nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, Trần Cảnh
lên ngôi lấy hiệu là Trần Thánh Tông. Triều Trần chính thức được thành lâp, thực sự thay
thế nhà Lý trên vũ đài chính trị, nắm quyền điều hành đất nước từ 1226 đến 1400. Nhà
Trần đã thay thế nhà Lý và giữa hai triều đại này không có khoảng cách về thời gian. Vì
vậy có thể thấy rằng: nhà Trần đã tiếp thu mọi thành tựu văn hoá của nhà Lý. Mặc dù vậy
với thời gian 174 năm tồn tại xã hội thời Trần cũng có nhiều sự thay đổi. Hơn nữa về mặt
nghệ thuật, giữa thời Lý và thời Trần lại có khoảng cách về thời gian. Theo một số tài liệu
cho biết: "Sau di tích cuối cùng của thời Lý có niên đại cụ thể là chùa Linh Xứng năm
1126, nếu chỉ bằng vào sử sách thì khoảng hơn một thế ký sau mới thấy di tích có niên đại
là chùa Phổ Minh 1262 và lăng Trần Thủ Độ năm 1264, mà thật chắc chắn thì đến thế kỷ
XIV mới thấy phổ biến các di tích thời Trần "
1.2. Những nét khái quát về xã hội thời Trần
Nhà Trần thay thế nhà Lý, ổn định trật tự trong nước, các phe phái đối kháng đã thu
phục chính quyền trung ương. Bộ máy chính quyền được xây dựng có hệ thống từ trung
ương tới các địa phương.
Nho giáo tuy chưa phát triển mạnh như Phật giáo, nhưng với cơ sở từ thời Lý sang
thời Trần, nhà nước cũng rất chú trọng đến việc học hành, thi cử chọn nho sỹ có tài. Nhiều
nhân tài được đào tạo trong thời Trần như Chu Văn An, Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu,
Mạc Đĩnh Chi, Phạm Sư Mạnh ..vv.. Năm 1232, nhà nước cho mở khoa thi Thái học sinh
để chọn nhân tài. Chữ Nôm ngày càng được phổ biến rộng rãi hơn. Bên cạnh Nho giáo,
Phật giáo vẫn được phát triển mạnh, kế tiếp truyền thống từ thời Lý. Mặt khác ở thời Trần
còn có phái thiền do người Việt Nam sáng lập ra. Đó là phái Trúc Lâm với 3 vị tổ: Trần
Nhân Tông- Pháp Loa và Huyền Quang. Phật giáo ngày càng hoà hợp và gần gũi với đời
sống dân gian. Chùa tháp vẫn được xây dựng nhiều, trong các làng xã cũng có nhiều ngôi
chùa đẹp tuy quy mô không lớn như thời Lý.
Về kinh tế, nhà nước chú trọng khuyến khích nông nghiệp phát triển. Quân đội nhà
Trần vẫn được tổ chức theo chế độ " ngụ binh ư nông"để góp thêm lực lượng sản xuất
nông nghiệp. Kinh tế thành thị cũng song song phát triển kéo theo sự thịnh vượng của kinh
tế hàng hoá, giao thông… Tất cả những điều đó đã góp phần làm cho nhà nước phong kiến
thời Trần ngày một vững mạnh hơn. Cũng ở thời gian này, ở phương Bắc đế quốc phong
kiến Mông Cổ đang phát triển mạnh và tìm cách bành trướng thế lực ra nước ngoài. ở Châu
Âu, Mông Cổ đã chiếm từ bờ biển Thái Bình Dương tới Hắc Hải, thậm chí đến cả Đại Tây
Dương. Năm 1271 chúng chiếm được Trung Quốc lập ra triều đại nhà Nguyên. Sau đó
chúng có ý đồ chiếm Việt Nam và cả vùng Đông Nam á. Suốt từ 1258 đến 1285, 1287
chúng đã 3 lần đem quân đánh chiếm Đại Việt song cả 3 lần đều thất bại nặng nề. Chiến
thắng Mông Nguyên một lần nữa đã khẳng định truyền thống yêu nước và ý chí của dân
tộc ta. Đồng thời đưa uy tín và ảnh hưởng của nước ta lên cao hơn. Mặt khác, trong xã hội
Đại Việt thời đó cũng có nhiều sự thay đổi lớn. Chế độ nông nô, nô tì tan rã, dần dần biến
các nông nô thành những người nông dân tự do. Nhà nước chú ý hơn tới việc "nới sức dân
để làm kế sâu rễ bền gốc".
Tất cả những điều kiện xã hội đó đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát triển mĩ thuật
của thời Trần và nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho văn hoá nghệ thuật dân gian phát triển,
tạo nên đặc điểm riêng biệt cho mĩ thuật thời Trần.
1.2.1. Tổ chức quân đội
Quân chủ lực nhà Trần gồm cấm quân và quân các lộ. Quân các lộ ở đồng bằng gọi
là chính binh, ở miền núi gọi là phiên binh. Cấm quân được gọi là quân túc vệ.
Các đơn vị quân đội được gọi là quân. Đứng đầu mỗi quân là một đại tướng quân. Mỗi
quân có 30 đô, chỉ huy mỗi đô có chánh phó đại đội. Mỗi đô có 5 ngũ, đứng đầu mỗi ngũ
là đầu ngũ.
Cấm quân là lực lượng nòng cốt trong chiến tranh chống ngoại xâm, có thể được điều động
đi các lộ để tác chiến.
Nhằm có lực lượng đông đảo cần thiết khi chống xâm lược, nhà Trần kế tục chính sách
ngụ binh ư nông (giữ quân lính ở nhà nông) của nhà Lý, vừa đảm bảo số quân cần thiết
phòng khi có chiến tranh xảy tới. Quân cấm vệ và các lộ có khoảng 10 vạn người.
1.2.2. Hành chính Đại Việt thời Trần
Hành chính Đại Việt thời Trần hoàn thiện hơn so với thời Lý. Sau khi giành được
chính quyền, nhà Trần đã phân chia lại Đại Việt thành 12 lộ thay vì 24 lộ như ở thời Lý.
Bộ máy hành chính được củng cố theo hướng tăng tính tập quyền quan liêu. Các quan
được cấp lương bổng theo ngạch, bậc; cứ 10 năm thăng tước một cấp, 15 thăng tước một
bậc.
Nền hành chính của Đại Việt thời Trần ở cấp trung ương có bộ phận trung khu đứng
đầu. Chức cao nhất ở trung khu là các chức quan hàng tướng quốc và tam thái: thái sư, thái
phó, thái bảo. Phần lớn suốt thời gian nhà Trần cầm quyền, các chức quan cao hàng tam
thái do các thân vương nắm giữ.
Tiếp đến là các chức quan hàng tam thiếu: thiếu sư, thiếu phó, thiếu bảo. Sau đó đến
tam tư: tư đồ, tư mã, tư không. Trần Thủ Độ, Trần Quang Khải là những người được các
vua Trần bổ nhiệm là thái sư. Trần Nguyên Trác được bổ nhiệm làm tả tướng quốc. Trần
Văn Bích được bổ nhiệm làm thái bảo (phụ quốc thái bảo).
Giúp việc cho các quan đứng đầu trung khu là các ban hành khiển và khu mật viện. Hành
khiển lại chia làm tả hành khiển đóng ở Thăng Long và hữu hành khiển đóng ở hành cung
Tức Mặc (quê của họ Trần, thuộc thành phố Nam Định ngày nay). Ban hành khiển sau
được đổi tên thành môn hạ sảnh. Đứng đầu ban hành khiển là chức Nhập nội hành khiển
đồng trung thư môn hạ sảnh bình chương sự. Ban đầu, người của hành khiển chỉ gồm hoạn
quan. Sang thế kỷ 14, nhà Trần bắt đầu tuyển dùng các nhà nho như Nguyễn Trung Ngạn,
Lê Cư Nhân.
Việc chia trung khu gồm Tể tướng, quan chức ở Khu mật viện, Hành khiển môn hạ
sảnh tách khỏi và đứng trên cơ quan chức năng. Đây là bước phát triển trong kết cấu và cơ
chế bộ máy nhà nước thời Trần.
Thời Trần, có 6 thượng thư sảnh tương đương với lục bộ, quản lý các công việc
hành chính, tổ chức, ngoại giao, tín ngưỡng, tài chính ngân sách, quân sự, ty pháp. Đứng
đầu thượng thư sảnh là chức thượng thư hành khiển và thương thư hữu bật. Dưới các chức
này là chức thị lang, lang trung. Các thượng thư sảnh luôn được củng cố, càng về sau càng
dùng nhiều nhân sỹ nho giáo.
Bên cạnh 6 thượng thư sảnh là hàn lâm viện phụ trách các công việc văn phòng của
triều đình. Người của hàn lâm viện gọi là học sĩ với nhiều cấp (chức) khác nhau.
Các ban, ngành khác là Ngự sử đài, Đăng văn kiểm sát viện là các cơ quan thanh tra, giám
sát. Có Quốc sử viện phụ trách công việc biên soạn quốc sử mà người đầu tiên phụ trách
Quốc sử viện là Lê Văn Hưu. Có Quốc tử viện là nơi giáo dục các vương tử nhà Trần. Có
Thái y viện chăm sóc sức khỏe cho hoàng tộc.
1.2.3. Luật pháp
Vua Thái Tông cho sửa lại luật pháp rất nghiêm minh. Đại Việt sử ký toàn thư có
chép lại như sau:
Canh Dần, Kiến Trung năm thứ 5 1230: Mùa xuân, tháng 3, khảo xét các luật lệ của
triều trước, soạn thành Quốc triều thống chế và sửa đổi hình luật lễ nghi, gồm 20 quyển.
Định bị đồ có mức độ khác nhau:
Loại bị đồ làm Cảo điền hoành thì thích vào mặt 6 chữ, cho ở Cảo xã (nay là xã
Nhật Cảo), cày ruộng côn, mỗi người 3 mẫu, mỗi năm phải nộp 300 thăng thóc.
Loại bị đồ làm Lao thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành,
thành Thăng Long, lệ vào quân Tứ sương.
Đặt ty bình bạc là cơ quan hành chính và tư pháp ở kinh đô Thăng Long lúc đó với
chức quan kinh doãn, chuyên xét đoán việc kiện tụng ở kinh thành. Năm 1265 đổi thành
Đại an phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sư đại doãn.
1.2.4. Kinh tế
Về mặt nông nghiệp: để tránh nạn ngập lụt, vua Thái Tông sai đắp đê hai bên bờ
sông và cử quan đặc trách trông coi việc đê gọi là hà đê sứ. Mỗi năm sau vụ mùa, triều
đình còn ra lệnh cho quân sĩ đắp đê hay đào lạch, hào, giúp đỡ dân chúng. Đại Việt sử ký
toàn thư có chép:
Tân Mão, Kiến Trung năm thứ 7, 1231: Mùa xuân, tháng giêng, sai nội minh tự
Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào
(là tên hai con kênh, thuộc huyện Ngọc Sơn (nay là Tĩnh Gia), tỉnh Thanh Hóa) từ phủ
Thanh Hóa đến địa giới phía nam Diễn Châu. Triều đình cũng cho phép các vương, hầu có
quyền chiêu tập những người nghèo khó, lưu lạc đi khai khẩn đất hoang để mở mang thêm
ruộng nương.
Về mặt thuế má: Có 2 loại thuế là thuế thân và thuế điền. Thuế thân được đóng
bằng tiền và ít nhiều tuỳ theo số ruộng có. Ai có dưới một mẫu ruộng thì được miễn thuế.
Thuế điền thì đóng bằng thóc. Ngoài ra còn có thuế trầu cau, rau quả, tôm cá v.v. Về mặt
tiền tệ, để tiện việc tiêu dùng - vàng, bạc được đúc thành phân, lượng và có hiệu của nhà
vua.
1.2.5. Giáo dục và khoa cử thời Trần
Trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống trường học và chế độ khoa cử nước Đại
Việt từ năm 1226 đến năm 1400.
Khi Phật giáo được nhà Trần coi trọng và thịnh hành, Nho giáo đóng vai trò thứ
yếu. Tuy nhiên Nho học cũng từng bước thâm nhập vào xã hội qua hệ thống giáo dục. Sách
học chính được quy định gồm có Ngũ Kinh, Tứ Thư, Bắc sử.
Ban đầu chỉ có nhà chùa là nơi dạy chữ Nho và các sách sử. Sau này, nhiều nhà nho
và thái học sinh không làm quan, về nhà dạy học. Hệ thống trường lớp tại các địa phương
được hình thành. Một trong những người thày xuất sắc nhất là Chu Văn An.
Sau khi thành lập không lâu, nhà Trần bắt đầu thực hiện chế độ khoa cử để chọn người tài
giúp nước. Năm 1232, nhà Trần mở khoa thi đầu tiên. Năm 1247, triều đình đặt lệ thi lấy
Tam khôi gồm 3 người đỗ đầu là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa và quy định cứ 7 năm
mở 1 khoa thi.
Năm 1255, nhà Trần đặt lệ lấy 2 trạng nguyên: 1 kinh trạng nguyên dành cho các lộ
phía bắc và 1 trại trạng nguyên dành cho Thanh Hóa và Nghệ An để khuyến khích việc học
của phương nam. Năm 1275 lệ này bãi bỏ vì không cần thiết nữa.
Năm 1396, Trần Thuận Tông ban chiếu quy định cách thức thi Hương, thi Hội bằng
thể văn 4 kỳ, và định rõ: "Cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội, người đỗ thì vua ra
một bài văn sách để xếp bục". Lệ thi 4 trường được quy định lại như sau:
Những người đỗ đạt được bổ nhiệm vào chức vụ ở viện Hàn lâm, các cơ quan hành
khiển, sung vào các phái bộ sứ thần hoặc tiếp sứ phương Bắc. Họ trở thành bộ phận quan
trọng trong bộ máy nhà nước, có những đóng góp quan trọng trọng lĩnh vực chính trị,
ngoại giao như Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê
Quát…
1.2.6. Tôn giáo
Về Phật giáo, vào đầu đời nhà Trần thì Phật giáo còn thịnh. Các nhà vua đều sùng
đạo cho xây chùa, đúc chuông, tạc tượng để phụng thờ khắp nơi. Đại Việt sử toàn thư chép
lại Thượng hoàng xuống chiếu rằng trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp
tượng phật để thờ.
Vua Nhân Tông còn sai sứ sang Trung Hoa để thỉnh kinh về truyền bá đạo Phật, và
ông chính là ông tổ đầu tiên của thiền phái Trúc Lâm. Nhưng cuối đời Trần, Phật giáo bị
pha thêm các hình thức mê tín bùa chú cho nên ngày càng suy vi. Về Lão giáo thì cũng
được nhân dân ngưỡng mộ. Do đó, nhà Trần cũng cho mở những khảo thi tam giáo như
đời nhà Lý.
1.2.7. Văn hóa nghệ thuật
Đời nhà Trần đã đào tạo được khá nhiều học giả nổi tiếng như Lê Văn Hưu soạn bộ
Đại Việt Sử Ký và đây là bộ sử đầu tiên của Việt Nam. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng là một ông
trạng rất mực thanh liêm, đức độ và có tài ứng đối đã làm cho vua quan nhà Nguyên phải
kính phục. Chu Văn An là một bậc cao hiền nêu gương thanh khiết, cương trực. Các vua
Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông đều là những người giỏi văn
chương và có soạn Ngự tập và danh tướng Trần Quốc Tuấn có làm những tác phẩm giá trị
như Hịch tướng sĩ.
Hàn Thuyên tức Nguyễn Thuyên có công làm thơ bằng chữ Nôm và đặt ra luật thơ
Nôm. Vì thế đã có nhiều học giả, văn nhân đã theo gương của Hàn Thuyên mà làm những
bài thơ Nôm rất giá trị. Đại Việt sử kí toàn thư chép:
Bấy giờ (năm 1282) có cá sấu đến sông Lô. Vua sai hình bộ thượng thư Nguyễn
Thuyên làm bài văn ném xuống sông, cá sấu bỏ đi. Vua cho việc này giống như việc của
Hàn Dũ, bèn ban gọi là Hàn Thuyên. Thuyên lại giỏi làm thơ phú quốc ngữ. Thơ phú nước
ta dùng nhiều quốc ngữ, thực bắt đầu từ đấy.
Nghệ thuật điêu khắc thời Trần được đánh giá là có bước tiến bộ, tinh xảo hơn so
với thời Lý, trong đó có một số phù điêu khắc hình nhạc công biểu diễn mang phong cách
Chiêm Thành. Cách trang trí hoa dựa trên nghệ thuật dân dụng Âm nhạc Đại Việt thời Trần
chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, Chiêm Thành và Trung Quốc. Một số nhạc công bị bắt từ
Chiêm Thành và Trung Quốc trong các cuộc chiến đã truyền nghề ca hát cho dân Đại Việt,
càng ngày càng phổ biến.
1.3. Thời kỳ suy tàn
Nhà Trần đã có một thời đại rất hưng thịnh, đã từng đại phá quân Nguyên cũng như
bình phục được Chiêm Thành, nhưng kể từ khi thái thượng hoàng Trần Minh Tông qua đời
(1357), vua Trần Dụ Tông ham mê tửu sắc, phó mặc mọi việc triều chính để cho nhà Trần
bước vào giai đoạn suy vi và sau cùng bị mất ngôi.
Vua Trần Dụ Tông chẳng những bỏ bê triều chính mà còn ra lệnh cho xây cung
điện, tạo sưu cao, thuế nặng làm cho nhân dân vô cùng khổ sở và ca thán. Trong nước, giặc
giã nổi lên khắp nơi. Trong khi đó tại triều đình, các bọn gian thần kéo bè kết đảng và trở
nên lộng hành vô cùng.
Chu Văn An, một vị quan thanh liêm, trung thần tại triều đình, đã dâng thất trảm sớ
đề nghị trị tội những tên tham quan ô lại. Vua Trần Dụ Tông đã không nghe theo nên Chu
Văn An đã từ quan về nhà dạy học.
Năm 1369, Trần Dụ Tông mất, một người con là Nhật Lễ lên thay. Theo sử sách,
Nhật Lễ không phải là con Dụ Tông mà mẹ Lễ vốn là cô đào, vợ của kép hát Dương
Khương, đã mang thai Lễ trước khi làm vợ Dụ Tông. Vì vậy sử vẫn gọi tên người con là
Dương Nhật Lễ. Nhật Lễ ở ngôi bỏ bễ chính sự, ham tửu sắc, hằng ngày chỉ rong chơi,
thích các trò hát xướng, muốn đổi lại họ là Dương. Sau Lễ lại giết Hiến Từ Tuyên Thánh
Thái hoàng thái hậu vì bà đã hối hận việc lập Nhật Lễ. Người tôn thất và các quan đều thất
vọng. Tháng 10 năm 1370, các tôn thất nhà Trần hợp mưu lật đổ và bắt giết Nhật Lễ, đưa
con thứ 3 của vua Minh Tông là Phủ lên ngôi, tức là Trần Nghệ Tông.
Nghệ Tông làm vua được 2 năm, lên làm thái thượng hoàng và nhường ngôi cho em
là Kính lên thay, tức là Duệ Tông. Năm 1377, Duệ Tông tử trận ở Chiêm Thành, thượng
hoàng Nghệ Tông lập con Duệ Tông là Phế Đế lên thay. Thượng hoàng Nghệ Tông nắm
quyền bính trong tay quyết định mọi việc nhưng lại quá tin dùng một mình Lê Quý Ly (tức
Hồ Quý Ly). Do đó, Quý Ly xúi giục Nghệ Tông giết hại các trung thần, các hoàng tử, các
thân vương và ngay cả vua Phế Đế cũng bị sự gièm pha của Quý Ly mà bị Nghệ Tông phế
bỏ. Con Nghệ Tông là Thuận Tông (đồng thời là con rể Quý Ly) được lập lên ngôi nhưng
cũng không có thực quyền.
Vì có mưu đồ soán đoạt ngôi vua mà lại được sự tin dùng của Nghệ Tông nên Hồ
Quý Ly đã tạo được khá nhiều phe cánh và bè đảng ở triều đình và khắp mọi nơi. Rồi từ đó
Quý Ly càng ngày càng lộng quyền không coi ai ra gì. Năm 1394, Nghệ Tông mất, Hồ
Quý Ly nắm lấy cả quyền hành rồi sai người vào đất Thanh Hoá xây thành Tây Đô. Sau
khi công việc xong xuôi, Hồ Quý Ly bắt Trần Thuận Tông dời kinh về Tây Đô rồi lập mưu
ép Thuận Tông nhường ngôi cho con là Thiếu Đế khi đó mới có 3 tuổi lên ngôi. Quý Ly
lên làm phụ chính sai người giết Thuận Tông và chuẩn bị cướp ngôi.
Nhìn thấy âm mưu của Hồ Quý Ly, nhiều tướng lĩnh nhà Trần như Trần Khát Chân
lập hội với mưu đồ tiễu trừ Quý Ly, nhưng cơ mưu bị bại lộ, tất cả đều bị bắt và bị giết vào
khoảng hơn 370 người. Năm 1400, Quý Ly phế truất Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, chiếm
lấy ngôi nhà Trần, đổi sang họ Hồ. Nhà Trần chấm dứt,kéo dài 175 năm với 13 đời vua.
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM MĨ THUẬT THỜI TRẦN
2.1. Khái quát đặc điểm của mĩ thuật thời Trần
Mĩ thuật thời Trần (thế kỉ 13 - 14): với các chất liệu gỗ, đá, đồng, đất nung và gốm.
Công trình kiến trúc tôn giáo còn tồn tại giữ được nhiều dấu ấn nghệ thuật thời Trần như
chùa Thái Lạc (Hải Dương); chùa Bối Khê (Hà Tây), một phần chùa Phổ Minh (Nam
Định) với những mảng chạm khắc gỗ trang trí, kiến trúc với bệ đá chạm rồng và garuda và
các con vật như cá sấu, rồng thành bậc - khu lăng các vua Trần ở An Sinh (Đông Triều,
Quảng Ninh), lăng Trần Thủ Độ ở Tam Đường (Thái Bình) có một số tượng thú. Đồ đồng
có chuông chùa Vân Bản (Đồ Sơn, Hải Phòng), vòng cáng, bàn đạp, yên ngựa (chùa An
Sinh) chạm khắc hình rồng. Đồ gốm Trần với nhiều vật phẩm kích thước tương đối lớn
như chậu, thạp. Gốm hoa nâu là dạng điển hình của thời Trần.
Đặc điểm phong cách nghệ thuật thời Trần: đường nét phóng khoáng, khoẻ khoắn.
Bố cục có phần thưa thoáng đơn giản. Đề tài phong phú hơn thời Lý, đặc biệt là trên đồ
gốm xuất hiện nhiều hình ảnh các con thú. Rồng còn nhiều nét của thời Lý nhưng đầu đã
có sừng, chân 4 móng, khúc cuộn ở thân doãng hơn
2.1.1. Sự thừa kế những tinh hoa văn hoá thời Lý
Nhà Trần kế tiếp ngay sau thời Lý. Vì vậy khi bắt đầu được thành lập, nhà Trần
thừa hưởng toàn bộ gia sản văn hoá thời Lý nhất là về mặt kiến trúc. Mãi đến sau kháng
chiến chống quân Nguyên Mông, kinh thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề đến năm 1289
nhà Trần mới cho xây dựng lại kinh đô. Các công trình kiến trúc từ thời Lý như tháp Báo
Thiên, chùa Dạm, chùa Phật Tích… vẫn còn tồn tại sừng sững và đẹp đẽ. Những công
trình kiến trúc, những tác phẩm nghệ thuật điêu khắc từ thời Lý là cơ sở, nền móng cho mĩ
thuật thời Trần phát triển. Mĩ thuật có sự thay đổi về phong cách phù hợp với diều kiện,
hoàn cảnh xã hội mới. Tuy vậy cũng không thể có ngay một phong cách khác, mà cần có
thời gian. Sự chuyển biến về phong cách sẽ diễn ra từ từ trên cơ sở thừa kế những tinh hoa
của văn hoá nghệ thuật thời Lý. Điều này có thể thấy rõ qua một số tác phẩm và hình
tượng nghệ thuật tiêu biểu, nhất là trong nghệ thuật chạm khắc trang trí. Những đề tài, hình
tượng nghệ thuật ít có sự thay đổi. Trong chạm khắc ta lại gặp những nội dung đề tài quen
thuộc. Đó là sóng nước, rồng, hoa sen, hoa văn tay mướp, phượng, người chim, mây, mặt
trời…. Về hình thức thể hiện cũng có nhiều sự đồng nhất. Hoa văn sóng nước vẫn mang
tinh thần hoa văn hình nấm, cao tầng như thời Lý.