Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

tiểu luận mối quan hệ lý luận thực tiễn hiện nay - 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.72 KB, 8 trang )

TIỂU LUẬN MỐI QUAN HỆ LÝ LUẬN THỰC TIỄN
HIỆN NAY
Hoạt động thực tiễn được xem như phương thức đặc biệt của mối quan hệ của con
người với thế giói xung quanh. Con người vừa tự thích nghi với môi trường, vừa
thông qua hoạt động của mình tác động một cách tích cực để biến đổi, cải tạo thế
giói. Đồng thời, với quá trình đó con người cũng phát triển và hoàn thiện bản thân
mình. Hoạt động nhận thức của con người nảy sinh, phát triển và tác động một
cách biện chứng với hoạt động thực tiễn. Điều đó có nghĩa là thực tiễn đã cung cấp
những tài liệu làm cơ sở cho nhận thức. Tri thức của con người có thể thu nhận
dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc dưới dạng gián tiếp. Nhưng xét đến cùng thì
mọi tri thức của con người đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Qúa trình hoạt
động thực tiễn là cơ sở để phát huy tính tích cực sáng tạo của con người, là cơ sở
của sự phát triển trí tuệ của con người. Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát
triển ,luôn đặt ra những vấn đềì mới đòi hỏi nhận thức phải trả lời, đòi hỏi những
tri thức mới, những khái quát mới đểí lý giải những vấn đề mới nảy sinh. Đó chính
là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Thực tiễn nêu ra những vấn đề cho nhận
thức hướng tới giải quyết, là nơi thể hiện sức mạnh của tri thức, biến tri thức khoa
học hùng mạnh giúp cho hoạt động thực tiễn có hiệu qủa vì mục đích cuối cùng
của nhận thức không phải la bản thân tri thức mà là nhằm cải tạo hiện thực khách
quan phục vụ đời sống vật chất và tinh thần của xã hội. Tồn tại trong thế giới dù
muốn hay không con người cũng phải nhận thức thế giới và nhận thức chính
mình.Những tri thức này dần dần hình thành nên thế giói quan. Một khi đã hình
thành, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho quá trình con người tiếp
tục nhận thức thế giới qua đó con người nhìn nhận thế giới xung quanh cũng như
tự xem xét chính bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc
sống và lựa chọn cách thức hoạt động đạt được mục đích, ý nghĩa đó. Đồng thời
làm tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi
cộng đồng xã hội nhất định. Chính vì vậy mà cần phải luôn luôn kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn với nhau.



NỘI DUNG CHÍNH
I.Quan điểm của triết học Mac Lê Nin về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn
* Thục tiễn quy định lý luận:
- Thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức .
Sở dĩ như vậy bởi vì thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức.Nó đề ra
nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận
thức và khuynh hướng vận động và phát triển của nhận thức. Chính con người có
nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giói mà buộc con người phải
tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình.Sự
tác động đó làm cho các sự vật hiện tượng bộc lộ những thuộc tính, những mối
liên hệ và quan hệ khác nhau giũa chúng, đem lai nhưng tài liệu cho nhận thức,
giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất các quy luật vận động và phát triển của
thế giói. Có thể nói, suy cho cùng không có một lĩnh vực tri thức nào mà không
phải xuất phát từ thực tiễn, không nhắm vào phục vụ, hướng dẫn thực tiễn. Do đó,
nếu thoát ly thực tiễn, không dựa vào thực tiễn thì nhận thức sẽ xa rời cơ sở hiện
thực nuôi dưỡng sự phát sinh, tồn tại và phát triển của mình.Vì vậy, chủ thể nhận
thừc không thể có được những tri thức đúng đắn sâu sắc về thế giới.
-Thực tiễn quy định nội dung, nhiệm vụ, khuynh hướng phát triển của lý luận.
Nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn
thiện, năng lực tư duy logic không ngừng được củng cố và phát triển, càc phương
tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng “nối dài “ các giác quan của
con người trong việc nhận thức thế giói. Chẳng hạn chính nhờ việc thêu ren mà
bàn tay của người lao động trở nên khéo léo hơn, khả năng phân biệt màu sắc và
ánh sáng của thị giác trở nên tinh xảo hơn. Hoặc từ công việc điều hành, tổ chức
quản lý sản xuất, tính toán hiệu quả lao động mà đòi hỏi nhà quản lý doanh
nghiệp phải tư duy nhạy bén, năng động hơn, thói quen và nề nếp làm việc quan
trọng hơn. Cũng nhờ thực tiễn ma ìkính hiển vi điện tử, kính thiên văn, tàu vũ trụ,
máy vi tính mới xuất hiện. Những công cụ và phương tiện hiện đai đó cho phép
nhận thức con người đẩy nhanh tiến trình đi sâu vào bản chất của sự vật, mở rộng
tầm bao quát các quá trình diễn ra trong tự nhiên và xã hội.

-Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính tất yếu khách quan, diễn ra độc lập
đối với nhận thức.Thực tiễn thay đổi thì lý luận cũng thay đổi cho phù hợp. Chỉ có
thực tiễn mới là tiêu chuẩn kiểm tra chân lý, mọi kết quả nhận thúc muốn biết
đúng hay sai đều phải dựa vào thực tiễn kiểm nghiệm bởi vì thực tiễn là hoạt động
vật chất trực tiếp tác động vào thế giới làm bộc lộ những thuộc tính vốn có của thế
giới và nhờ đó con người mới có căn cứ để xem xét nhận thức của mình có đúng
với hoạt động khách quan hay không.Thực tiễn luôn luôn vận động và phát triển
trong lịch sử. Nhờ đó mà nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của
nhận thức suy cho cùng không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Chính
thực tiễn có vai trò la tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được
trong nhận thức. Đồng thời nó bổ sung, điều chỉnh, sửa chửa, phát triển và hoàn
thiện nhận thức.
*Lý luận tác động trở lại thực tiễn :
-Lý luận đóng vai trò chỉ đạo, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn .
Để đánh giá, kiểm nghiệm được tính đúng đắn hay sai lầm của những tri thức đã
thu nhận, không có con đường nào có thể thay thế được vai trò của thực tiễn.
Những kết quả của tư duy trừu tượng phải được thể nghiệm trong thực tiễn, một
mặt góp phần hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, mặt khác chịu sự kiểm tra, đánh giá
tính xác thực của thực tiễn, từ đó để khẳng định bổ sung, hoàn thiện, phát triển
những kết qủa nhận thừc thu được.
-Lý luận góp phần giáo dục, thuyết phục, động viên tập hơp quần chúng tạo thành
phong trào hoạt động thực tiễn của đông đảo quần chúng, để cải tạo thế giới. Với
những lý luận đúng đắn và khoa học thì sẽ được thâm nhập vào quần chúng, được
vận dụng đúng đắn để có thể thúc đẩy thực tiễn phát triển.
II.Vận dụng quan hệ lý luận thực tiễn trong giai đoạn cách mạng ở nước ta
1.Vận dụng quan hệ lý luận thực tiễn trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân (1930-1975)
Ngay từ khi thực dân pháp xâm lược Việt Nam , với truyền thống yêu nước, nhân
dân ta đã kiên cường đứng lên đấu tranh chống thực dân Pháp giành lại độc lập

cho dân tộc. Các sĩ phu yêu nước dưới ngọn cờ “Cần Vương” mong giành lại độc
lập cho dân tộc khôi phục chế độ phong kiến, đã bị bọn thực dân Pháp đàn áp đẫm
máu. Những người nông dân với lòng căm thù giặc sâu sắc, cầm gươm giáo đứng
lên khởi nghĩa chống Pháp cuối cùng thất bại. Sở dĩ các phong trào đấïu tranh trên
đều bị thất bại, bởi vì cách mạng lúc đó thiếu đường lối đúng đắn, các phong trào
không đáp ứng được yêu cầu dân chủ của thời đại mới, tư tưởng phong kiến, tư
sản đã trở nên lạc hậu vớu thời đại. Tuy những phong trào đó đã thất bại, nhưng
góp phần thức tỉnh tinh thần đấu tranh cách mạng của nhân dân, góp phần nâng
cao chí khí, khai thông dân trí cho dân tộc. Giai cấp công nhân Việt Nam đựoc
hình thành qua các cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, tuy số lượng
không đông nhưng đã sớm tiếp thu được tinh thần yêu nước của dân tộc, lại bị ba
tầng áp bức là đế quốc, địa chủ, và tư sản, nên đã tỏ rõ là một lưcû lượng kiên
cường trong các cuộc đấu tranh. Nỗi nhục của người dân bị mất nước, bị áp bức
bóc lột nặng nề của thực dân, đế quốc là một trong những nhân tố làm cho giai cấp
công nhân Việt Nam từng bứơc có ý thức gắn liền với quyền lợi của giai cấp, cuộc
đấu tranh giành độc lập của cả dân tộc ta. Thực tiễn lịch sử Việt Nam những năm
đầu của thế kỷ XX, sự áp bức bóc lột của thực dân, đế quốc, phong kiến với quần
chúng nhân dân lao động vô cùng tàn bạo, những phong trào đấu tranh theo xu
hướng phong kiến, tư sản đều bị thất bại, đã là mảnh đất tốt để tuyên truyền tư
tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân. Và khi Đảng Cộng Sản ra đời đã làm cho
cách mạng Việt Nam thoát khỏi sự khủng hoảøng về đường lối chính trị. Từ khi
Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân Việt Nam đã
kết hợp hai sự nghiệp giải phóng dân tộc bị áp bức và giải phóng giai cấp những
người lao động. Đi theo ngọn cờ của Đảng, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành xuất
sắc hai nhiệm vụ đó để đưa đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, thưcû dân Pháp trở lại xâm lược
nước ta một lần nữa. Nhân dân Việt Nam vừa phải kháng chiến, vừa phải kiến
quốc với phương châm dựa vào sức mình là chính, phải dựa vào dân, huy động
sức dân mà kháng chiến. Muốn kháng chiến thắng lợi thì chúng ta phải xây dựng
chính quyền của nhân dân, làm cho nhân dân là người chủ thực sự của đất nước.

Quyền hành, lực lượng đều ở nhân dân. Để thực hiện điều đó Nhà nước phải từng
bước xoá bỏ sở hửu địa chủ phong kiến, đưa lại ruộng đát cho nông dân, phải tạo
điều kiện cho công nhân làm chủ xí nghiệp. Ngọn cờ của chủ nghĩa xã hội đã quy
tụ sức mạnh của nhân dân lao động, giúp chúng ta giành thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, miền Bắc được giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bằng thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội trên nửa nước, nhân dân miền Bắc đã có
điều kiện huy động sức người sức của cùng với nhân dân miền Nam thực hiện
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam
thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu từ sự
chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chính là đường lối mục tiêu
cách mạng Việt Nam, dù có phân chia thành 2 giai đoạn nhưng đều do một Đảng
duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh đạo. Không có lý do gì một Đảng một
giai cấp lãnh đạo thắng lợi đối với mỗi dân tộc lại tự rời bỏ vai trò của mình cho
đảng khác, giai cấp khác. Hơn nữa, những kết quả những thắng lợi của giai đoạn
cách mạng do Đảng lãnh đạo cũng đồìng thời là điều kiện, mở đầu cho giai đoạn
cách mạng mới cũng do Đảng ta lãnh đạo trên phạm vi cả nước. Cả dân tộc ta có
đủ những điều kiện và tư liệu thực tiễn lịch sử đểí hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, dân tộc ta
Hiện nay tình hình quốc tế có những biến động, các lực lượng tư bản chủ nghĩa
đang có lợi thế về phát triển khoa học công nghệ, về sức mạnh kinh tế, sức mạnh
quân sự, chủ nghĩa xã hội đang có thoái tràò tạm thời sau sự sụp đổ của ĐôngÂu
và Liên Xô, nhưng Đảng ta tiếp tục khẳng định một cách đúng đắn rằng: “loài
ngườivẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội “.
Sở dĩ Đảng ta khẳng định như vậy bởi lẽ, hiện nay chủ nghĩa tư bản có thay đổi
hình thức áp bức, bóc lột, nhưng vẫn không hề thay đổi bản chất, vẫn là nguyên
nhân gây ra nghèo đói cho các nước chậm phát triển, vẫn là ngồn gốc gây ra
những cuộc chiến tranh và tạo nên bao tai hoạ về văn hoá, xã hội, môi sinh trên
thế giói.Ngay trong các nước tư bản phát triển như Mỹ,Anh v.v tình trạng phân
hoá giàu nghèo vẫn diễn ra gay gắt, người nghèo vẫn sống trong tình trạng không
nhà cửa. Nhiều nước dân tộc chủ nghĩa, sau khi giành được độc lập đưa đất nước

đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng đẩt nước đang rơi vào tình trạng nghèo
đói, khó khăn, chiến tranh, xung đột dân tộc, tôn giáo, v v Sự nghèo khổ của
những người lao động ở những nước này ngày càng trở nên trầm trọng. Sự nghèo
đói, chậm phát triển làm cho các nước đó không thể có độc lập thật sự .Nhiều
nước trước đây vốn là chủ nghĩa xã hội, trong công cuộc cải tổ, cải cách, đã mắc
nhiều nhưng sai lầm cơ bản về đường lối cách mạng, thậm chí có sự phản bội lại
chủ nghĩa xã hội muốn đưa đất nước đi theo con đường tư bản hay chủ nghĩa xã
hội dân chủ, ảo tưởng mong chờ sự gúp đỡ của thế giói tư bản, hiện nay đang rơi
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội, về con đường phát triển
của đất nước. Nhiều định hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn. Xung đột dân tộc,
tôn giáo, phe phái gia tăng. Đời sống của những người lao động ngày càng khó
khăn. Sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng. Vị thế của các
nước đó trên trường quốc tế ngày càng suy giảm.
Việt Nam do giữ vững định hưóng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đổi mới một cách
đúng đắn “ đổi mới không phải thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là quan
niệm đúng đắn hơn về chủ nghĩa xã hội và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình
thức, bước đi và biện pháp phù hợp’’, nên đã thu được những thắng lợi to lớn. Đất
nước ta đã từng bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, đời sống nhân dân ngày
càng được cải thiện, an ninh chính trị được giữ vững, vị thế quốc tế ngày càng
tăng.
Ngày nay Việt Nam đang tiếp tục kiên định mục tiêu và đường lối cách mạng: Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường mà Đảng Cộng sản và nhân
dân Việt Nam đã lựa chọn từ năm 1930. Chỉ đi theo con đường chủ nghĩa xã hội
chúng ta mới có Nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân, mới đảm bảo được

×