Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

chủ nghĩa xã hội hiện thực và sự vận dụng chủ nghĩa hiện thực vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.44 KB, 32 trang )

TÀI LIỆU
Chủ nghĩa xã hội
hiện thực và sự vận dụng
chủ nghĩa hiện thực vào
Việt Nam
1
LỜI MỞ ĐẦU
Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới ra đời trong
hoàn cảnh rất đặc biệt, cuộc cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi, đến khi
kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai. Liên Xô là nước đi tiên phong trong
việc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Cho dù biến cố lịch sử có biến động như thế
nào thì cũng không thể phủ nhận sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu đã
đạt thành tựu to lớn và phát triển rực rỡ trên nhiều phương diện. Chế độ xã
hội chủ nghĩa tạo tiền đề cho trào lưu đấu tranh đòi dân chủ phạm vi toàn
thế giới, thể hiện ý chí và quyền lực của nhân dân lao động trên rộng khắp
thế giới. Mô hình chủ nghĩa xã hội hện thực đầu tiên xuất hiện ở Nga, sau
khoảng thời gian hơn bảy mươi năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, các nước
đã đạt tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của xã hội trên quy mô lớn.
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được đảm bảo ngày càng tốt
hơn. Với công cuộc phát triển kinh tế,văn hóa, Liên Xô trở thành một nước
trình độ học vấn cao. Bước tiến lớn hơn cả về khoa học, chinh phục vũ trụ,
văn hóa,nghệ thuật…chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực không chỉ mở ra một
xu thế mới tất yếu giải phóng dân tộc nó còn đóng vai trò quan trọng quyết
định đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.Đảng cộng sản
Việt Nam đã thấy được vai trò, sự tích cực và vận dụng mô hình xã hội chủ
nghĩa hiện thực là tất yếu. Chủ nghĩa xã hội đã mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập dân tộc và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới, trong đó có Việt Nam.
2
Phần I. Chủ nghĩa xã hội hiện thực
I. Cách mạng Tháng Mười Nga và mô hình chủ nghĩa


xã hội hiện thực đầu tiên trên thế giới
1. Cách mạng Tháng Mười Nga
- Cách mạng Tháng Mười Nga (1917) Ngày 7 tháng 11 năm 1917 dưới
sự lãnh đạo của Đảng bônsêvích Nga, đứng đầu là V.I.Lênin đã lãnh đạo
quần chúng nhân dân khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền xây dựng nhà
nước Xô viết đầu tiên trên thế giới. Cách mạng Tháng Mười Nga là thắng lợi
vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và các dân tộc bị áp
bức, đánh đổ giai cấp tư sản và địa chủ phong kiến, lập nên chính quyền của
những người lao động, xây dựng xã hội mới không có người bóc lột người.
- Sau Cách mạng Tháng Mười chủ nghĩa xã hội từ học thuyết lý luận đã
trở thành hiện thực thực tiễn đối lập với hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Chiều hướng phát triển chủ yếu, trục chuyển động xuyên suốt của lịch sử từ
sau Cách mạng Tháng Mười Nga là đấu tranh xoá bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa
và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.
2. Mô hình chủ nghĩa xã hội đầu tiên trên thế giới.
Mô hình đầu tiên của chủ nghĩa xã hội ra đời trong bối cảnh hết sức đặc
biệt. Từ sau cách mạng Tháng Mười đến kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ
hai, Liên Xô là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất. Điều kiện xây dựng một chế
độ mới cực kỳ khó khăn và phức tạp: nền kinh tế lạc hậu lại bị tàn phá nặng
3
nề trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, tiếp đó là nội chiến và chiến tranh can
thiệp của 14 nước đế quốc, sự bao vây, cấm vận về kinh tế.
- Trước tình hình đó, từ năm 1918 đến đầu năm 1921, Đảng Cộng sản
Nga đứng đầu là V.I.Lênin đã thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến, tiến
hành quốc hữu hóa tài sản, tư liệu sản xuất quan trọng nhất của bọn tư bản
độc quyền, đại địa chủ và các thế lực chống phá cách mạng khác.
- Đến tháng 3 năm 1921, sau khi nội chiến kết thúc, Đại hội X Đảng
Cộng sản Nga đã thông qua việc thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP).
V.I.Lênin đã chỉ rõ trong những điều kiện mới, việc sử dụng những hình
thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bộ phận rất quan

trọng của chính sách này.
- Với việc thực hiện NEP thì chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong
những hình thức thích hợp để giúp nước Nga Xô Viết nhanh chóng khắc
phục tình trạng suy sụp kinh tế sau chiến tranh, hạn chế sự phát triển tự phát
của nền sản xuất nhỏ - mầm mống của sự phục hồi chủ nghĩa tư bản. V.I
Lênin cho rằng, thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp
vô sản có thể học tập, kế thừa và phát huy có chọn lọc tất cả những tài sản
vật chất – kỹ thuật và tinh hoa chất xám trong kinh nghiệm sản xuất kinh
doanh của các nhà tư bản cũng như tri thức khoa học – kỹ thuật và trình độ
quản lý kinh tế của các chuyên gia tư sản. Nhà nước vô sản có thể sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước như là một hệ thống các chính sách, công cụ,
biện pháp nhằm điều tiết hoạt động của các xí nghiệp tư bản còn tồn tại
trong thời kỳ quá độ, nhằm hướng tới mục đích vừa sử dụng, vừa cải tạo
bằng phương pháp hòa bình đối với các thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa
và sản xuất nhỏ. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn có thể coi là
4
một trong những phương thức, phương tiện, con đường có hiệu quả trong
việc thúc đẩy xã hội hóa và làm tăng nhanh lực lượng sản xuất của chủ nghĩa
xã hội.
-Sau khi V.I.Lênin qua đời, đường lối đúng đắn này đã không được quán
triệt và thực hiện đầy đủ. Chính sách kinh tế mới thực hiện chưa được bao
lâu thì từ cuối những năm 20, đầu những năm 30 của thế kỷ XX, triệu chứng
một cuộc chiến tranh thế giới mới ngày càng lộ rõ. Trong bối cảnh đó, ngoài
nhiệm vụ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, biến nước
Nga lạc hậu thành một cường quốc công nghiệp còn phải xây dựng tiềm lực
quốc phòng, đối phó với nguy cơ chiến tranh. Trong điều kiện như vậy, nhà
nước Xôviết không thể không áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung cao.
- Trong thực tế, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa với thời gian ngắn (chưa đầy 20 năm), trong đó đã mất gần 10
năm nội chiến, chống chiến tranh can thiệp và khôi phục kinh tế sau chiến

tranh. Đó là thành tựu vĩ đại của nhân dân Liên Xô.
Do đó, không thể phủ nhận vai trò to lớn, có ý nghĩa lịch sử của mô hình
đầu tiên này của chủ nghĩa xã hội.
3. Sự ra đời của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa và những
thành tựu của nó
a/ Sự ra đời và phát triển của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
- Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ra
đời bao gồm các nước: Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức, Hunggari,Rumani,
Tiệp Khắc, Anbani, Mông Cổ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam (sau này
5
thêm Cuba). Chính vì vậy, Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và công nhân của các
nước tại Matxcơva năm 1960 đã ra tuyên bố và khẳng định: “Đặc điểm chủ
yếu của thời đại chúng ta là hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đang trở
thành nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người”.
b/ Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Cho dù lịch sử có biến động như thế nào, dù có ai cố tình xuyên tạc lịch
sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là Liên Xô và các nước Đông Âu
đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ và đạt được rất nhiều thành tựu to lớn
đóng góp chung vào sự phát triển của nhân loại trong thế kỷ XX.
- Chế độ xã hội chủ nghĩa đã từng bước đua nhân dân lao động lên làm
chủ xã hội, thúc đẩy trào lưu đấu tranh cho quyền tự do dân chủ trên toàn thế
giới. Sự ra đời của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chế độ dân chủ
xã hội chủ nghĩa được thiết lập. Đó là chế độ dân chủ cho tuyệt đại đa số
nhân dân lao động, thực hiện ngày càng đầy đủ quyền dân chủ, ngăn ngừa và
trấn áp những hành vi xâm phạm quyền tự do dân chủ của nhân dân.
- Trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên xô và các nước xã
hội chủ nghĩa đã đạt được sự phát triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình
độ hiện đại, đảm bảo ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.

- Chủ nghĩa xã hội có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế
giới, đóng vai trò quyết định đối với sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa, mở ra
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
6
- Sức mạnh của chủ nghĩa xã hội đóng vai trò quyết định đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh hủy diệt, bảo vệ hòa bình thế giới.
- Chủ nghĩa xã hội còn có tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh
đòi dân sinh, dân chủ của nhân dân trong các nước tư bản chủ nghĩa.
II. Sự khủng hoảng, sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã
hội xôviết và nguyên nhân của nó
1. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô
Viết
Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào
cách mạng cũng không tránh khỏi sai lầm, thất bại hay những thời kỳ thoái
trào. Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng 4 năm 1989
trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm,
đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu nước Đông
Âu đã bị sụp đổ hoàn toàn. Sự đổ vỡ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam
tư.
2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ
a/ Nguyên nhân sâu xa
- Là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội
Xôviết. Sau khi V.I.Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không
7
được tiếp tục thực hiện mà chuyển sang kế hoạch hoá tập trung cao độ. Thời
gian đầu, kế hoạch hoá tập trung đã phát huy mạnh mẽ tác dụng, song đã
biến dạng thành kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Sau chiến tranh
thế giới thứ II, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này

đã tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ
nền kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan,
triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của người lao động.
- Từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX, sau cuộc khủng hoảng năng
lượng năm 1973, các nước tư bản sau khủng hoảng đã tự điều chỉnh để thích
nghi với tình hình mới. Ngược lại, Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn cứ giữ
nguyên mô hình phát triển theo kiểu tuyệt đối hoá cơ chế kế hoạch hoá, chỉ
trú trọng đến phát triển công nghiệp nặng mà không chú ý đến sản xuất các
mặt hàng tiêu dùng thiết yếu, đặc biệt là chưa đầu tư đúng mức cho phát
triển khoa học và công nghệ, dần dần tụt hậu so với các nước tư bản chủ
nghĩa. Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý và nói chung là
chậm đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội dẫn đến hậu quả tất yếu là sự thua
kém rõ rệt trong nhiều lĩnh vực công nghệ và năng suất lao động so với các
nước tư bản chủ nghĩa. Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài như
đã nói trên chính là nguyên nhân sâu xa làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa suy
yếu, rơi vào khủng hoảng.
- Tuy nhiên, sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu không
phải xuất phát từ sai lầm, khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa
mà là do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của
Đảng ta chỉ rõ: “ Do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình cũ của
chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ” đã gây
tình trạng trì trệ kéo dài và khủng hoảng.
8
b/ Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
- Một là, trong cải tổ Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc những sai lầm rất
nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối
hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trước hết ở những người lãnh đạo cao
nhất.
Cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ 1986 và kết thúc trong sự đổ vỡ hoàn toàn
năm 1991. Đường lối cải tổ trượt dài từ cơ hội hữu khuynh đến xét lại, từ bỏ

hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ chủ trương ban đầu là cải tổ kinh tế chuyển nhanh sang cải tổ về chính trị
một cách vô nguyên tắc đã tạo điều kiện cho sự phát triển làn sóng “công
khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, phủ định mọi thành tựu của chủ
nghĩa xã hội, gây tâm lý hoang mang cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ
niềm tin của quần chúng đối với chủ nghĩa xã hội. Bằng việc loại bỏ dần
những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, nhóm lãnh đạo
cải tổ đã chiếm được các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước.
- Hai là, chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng
trợn, thực hiện được “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước
Đông Âu. Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành cuộc chiến tranh khi
thì bằng súng đạn, khi bằng “diễn biến hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội,
gây ra cuộc chiến tranh lạnh từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các chiến
lược gia phương Tây đã sớm nhận ra “gót chân Asin” của cải tổ: đó là đường
lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng vô
nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện ở “tư duy chính trị mới”. Các thế
lực chống chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi
9
cách để lái nó theo ý đồ của họ, tác động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị
và tổ chức.
Tóm lại, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên
trong là nguyên nhân trực tiếp làm Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân này
quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên lực cộng hưởng rất mạnh
và nhanh như một cơn lốc chính trị trực tiếp phá hoại ngôi nhà của chủ nghĩa
xã hội. Tất nhiên, xét cho cùng chính bọn cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất
cảnh giác trong hàng ngũ những người cộng sản đã tạo cơ hội bằng vàng cho
chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh”. Trong tình hình
chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do sai lầm củamô hình cũ thì cải tổ,
cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu để thoát khỏi khủng hoảng, đưa đất nước
vào thời kỳ phát triển mới. Nhưng vấn đề là ở chỗ, cải cách dựa trên nguyên

tắc nào? Bằng phương pháp nào để vừa giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa, vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao.
Bài học của Liên Xô và Đông Âu có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho
những người Cộng sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới
hiện nay.
10
III. Triển vọng của chủ nghĩa xã hội
1. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của xã hội loài
người - Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.
- Bản chất của chủ nghĩa tư bán không thay đổi
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của nhân loại.
Trong mấy thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời sử
dụng triệt để những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ, các
nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua được một số cuộc khủng hoảng và vẫn
còn khả năng phát triển. Song dù thế nào, chủ nghĩa tư bản cũng không thể
là chế độ tương lai của nhân loại. Bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân
đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi.Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư
bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không thể xóa bỏ được đói nghèo,
mù chữ, bất bình đẳng do phân hóa thu nhập và mức sống ngày càng sâu sắc.
Chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục mặc
dù nó luôn được tô vẽ bằng những lối xưng danh mới như: “phi hệ tư tưởng
hóa”, “xã hội tư bản”, “xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội kinh tế tri thức
hóa”
- Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua những cuộc
khủng hoảng, những cuộc cải cách để thích ứng và quá trình đó cũng chính
là quá trình quá độ sang một xã hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư
bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn
minh hậu công nghiệp: kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã
11

hội của sở hữu ngày càng tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với kinh tế thị
trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên.
Việc giải quyết những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trường ngày càng tốt
hơn. Với những đặc điểm trên đây, có thể xem đó là những xã hội quá độ vì
nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương
lai.
2. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người
a/ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có
nghĩa là sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội
- Sau sự kiện Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, các
thế lực chống chủ nghĩa xã hội ra sức tuyên truyền rêu rao về “cái chết của
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin”. Song sự phân tích ở các phần
trên cho thấy, sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là sự sụp đổ của mô hình
chủ nghĩa xã hội thực tế chứ không phải là sự cáo chung của chủ nghĩa xã
hội với tư cách là hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đang vươn tới.
Tương lai của loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là quy luật khách quan
của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay
đổi,loài người vẫn ở trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga
vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay đổi hình thức biểu
hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết.
b/ Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới
và ngày càng đạt được những thành tựu to lớn.
12
Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã có tác
động mạnh mẽ đến các nước xã hội chủ nghĩa còn lại nhưng với sự kiên định
con đường xã hội chủ nghĩa, các nước này không những đứng vững mà còn
thực hiện đổi mới tương đối thành công. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mình, Trung Quốc và
Việt Nam đã từng bước tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội thích hợp.

Tuy hai nước có những sự khác biệt về quy mô, vị trí trên trường quốc tế, về
văn hóa dân tộc nhưng sự đổi mới, mở cửa của Trung Quốc và Việt Nam
cũng có nhiều nét tương đồng với nhau:
- Từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang nền kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa (Trung Quốc) hoặc kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Quá trình đổi mới của hai nước đều
thực hiện đa dạng hóa sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung
Quốc) hoặc công hữu là nền tảng (Việt Nam); kinh tế nhà nước là chủ đạo,
sở hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu của chế độ công hữu (Trung
Quốc) hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức kinh tế phổ biến (Việt
Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, coi trọng phân phối theo lao động,
đảm bảo quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp; giá
cả, tỷ giá, lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước; phát
triển đồng bộ các loại thị trường từ thị trường hàng hóa dịch vụ đến thị
trường chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn,
xóa đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường
- Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng
hệ thống pháp luật ngày càng tương đồng với hệ thống pháp luật hiện đại,
phù hợp với những cam kết quốc tế; giảm dần sự can thiệp của nhà nước vào
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp; gia tăng hiệu lực điều tiết vĩ
13
mô; gia tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ,
đặc biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám
sát của các cấp, của công luận, của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp,
của các tổ chức xã hội, thực hiện cải cách hành chính
- Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng bao gồm các hội
nghề nghiệp, văn hóa, tôn giáo, xã hội khuyến khích sự phát triển của các
tổ chức này hướng vào các mục đích như từ thiện, cứu trợ
- Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế
như Liên Hợp Quốc, WTO, các tổ chức khu vực như Hiệp hội

ASEAN,Đông Á và trở thành thành viên tích cực của các tổ chức này.
- Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo của
Đảng cũng dần được đổi mới theo hướng dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp
với điều kiện cụ thể của Trung Quốc và Việt Nam. Công cuộc cải cách của
Trung Quốc và đổi mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam đều tôn
trọng những giá trị tiến bộ của nhân loại, nghiên cứu và ứng dụng chúng phù
hợp với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách ở Trung
Quốc và Việt Nam sẽ góp phần quan trọng làm sáng tỏ hơn con đường đổi
mới chủ nghĩa xã hội.
14
c/ Đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội ở một số quốc gia trong thế giới đương đại
- Trong tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào thì ở nhiều
nơi trên thế giới, nhất là khu vực Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất
hiện xu thế thiên tả và phát triển lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI.
Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các Chính phủ cánh tả tiến bộ
đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh, trong đó có nhiều nước tuyên bố đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 2005, Tổng thống Vênêxuêla Hugo Chavez nhiều lần công khai
tuyên bố mục tiêu của cách mạng Vênêxuêla là đưa đất nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Sau khi tái đắc cử trong kỳ bầu cử tổng thống năm 2006, Tổng
thống Hugo Chavez một lần nữa khẳng định: Vênêxuêla sẽ tiếp tục con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI.Tổng thống Bôlivia Êvô Môralét
nói rằng: chủ nghĩa xã hội là mơ ước của các dân tộc Mỹ Latinh. Êcuađo và
Nicarago cũng tuyên bố lựa chọn con đường chủ nghĩa xã hội.Sự xuất hiện
của “Chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh thế kỷ XXI” còn nhiều vấn đề cần phải
tiếp tục nghiên cứu, đánh giá nhưng đó là những biểu hiện về sức sống mãnh

liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện
bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội thế giới. Đó cũng chính là bằng chứng
chứng minh cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ Cách mạng Tháng Mười
Nga đến nay có thể khẳng định: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài
học thành công và thất bại nhất định sẽ có bước phát triển mới.Theo quy
luật phát triển khách quan của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội.
15
Phần II. Sự vận dụng mô hình CNXH hiện thực
vào Việt Nam
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là
hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử
xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã
hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà
chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao. Theo học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng
là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn
đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác
gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội
loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai
đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội
chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là
sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao
hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái
kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”(2). Mặc dù khẳng định
quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị
quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng,
con người “Có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có
nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử -

tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con
đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh
tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai
16
đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những
điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.
Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp
với quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời
đại.
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh
tế quốc tế, do đó sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh đó
cũng có những điểm khác so với trước đây.
Trước những năm 1986, do nhận thức và vận dụng sai lầm lý luận của
chủ nghĩa Mác –Lênin vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã dẫn đến
những thất bại to lớn như sự sụp đổ của hệ thống các nước XHCN ở Liên xô
và các nước Đông Âu, còn ở Việt nam do nhận thức và vận dụng sai lầm đã
dẫn đến tụt hậu về kinh tế và khủng hoảng về chính trị.
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các
lĩnh vực của quá trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của
Đảng đã đồng thời coi đổi mới tư duy lý luận, tư duy chính trị về chủ nghĩa
xã hội là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh
vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là trọng
tâm.
Thực tiễn hơn 10 năm đổi mớỉ nước ta mang lại nhiều bằng chứng xác
nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Đại hội đại biểu lần thứ
VIII của đảng đã khẳng định”xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc
đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và

17
chính sách đối nội đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi
mới khác.
Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về nhiệm vụ xây dựng CNXH
trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tôi đã lựa chọn đề tài "Quan điểm toàn diện
và vận dụng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt nam hiện nay".
I. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời
kỳ trước đổi mới
Trong suốt hai cuộc kháng chiến, chúng ta luôn quan niệm một xã hội
không còn người bóc lột người, mọi người đều có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, người với người là bạn như là một xã hội có thể đạt được trong một
thời gian ngắn sau khi kết thúc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Mặc dù
tư tưởng về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó có ngay
từ trong Chính cương - sách lược vắn tắt và Luận cương năm 1930, nhưng
khi đó và trong toàn bộ quá trình tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, chúng ta vẫn chưa hình dung được tính phức tạp, lâu dài của bước quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sau khi giành được hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, vấn đề bức
bách trong sự lãnh đạo của Đảng là tìm tới phương hướng xây dựng chủ
nghĩa xã hội thích hợp với nước ta; xác định đúng những trọng điểm cần tập
trung sức giải quyết để khắc phục hậu quả 30 năm chiến tranh, từng bước ổn
định kinh tế và đời sống của nhân dân; mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm tạo
môi trường quốc tế thuận lợi cho qua trinh phat triển của đất nước.
Trong khi giải quyết toàn diện những yêu cầu đó, Đảng ta quán triệt sâu
sắc tư tưởng của V.I.Lênin cho rằng, xét cho cùng thỡ thắng lợi của chủ
nghĩa xó hội đối với chủ nghĩa tư bản được quyết định bởi chỗ giai cấp vô
18
sản đưa ra và thực hiện được một kiểu tổ chức lao động có năng suất cao
hơn chủ nghĩa tư bản Do vậy, Đảng ta đó dành chú ý đặc biệt cho việc
hình thành quan niệm về con đường phát triển kinh tế của quá trình xây

dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện
nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, với những hậu quả chiến tranh hết
sức nặng nề. Để đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu trong một chế
độ mà nhân dân làm chủ, cần có nền kinh tế phát triển cao nhờ lực lượng sản
xuất hiện đại, với quan hệ sản xuất tiên tiến Muốn vậy, phải đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã
hội chủ nghĩa bằng con đường ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách
hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây
dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công-
nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa
phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu
kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác
lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng;
tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xó hội chủ
nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xó hội chủ nghĩa, đồng thời phát
triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ
quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước
xã hội chủ nghĩa có kinh tế công-nông nghiệp hiện đại văn hoá và khoa học,
kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.
Thực hiện đường lối kinh tế đó, chúng ta đó đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh, đối với tiểu công nghiệp
và thủ công nghiệp, đối với thương nghiệp nhỏ ở miền Nam. Song, kết quả
19
của cải tạo xã hội chủ nghĩa lại làm cho nền kinh tế đất nước rơi vào tình
trạng khủng hoảng.
Có tình trạng trên đây là do chúng ta đó chủ quan, nóng vội, xác định sai
lầm bước đi; không biết tận đụng và phát triển lực lượng sản xuất đó có; có
những biểu hiện nóng vội, giản đơn trong công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Hậu quả là những nhân tố khủng hoảng kinh tế - xã hội đó xuất hiện.

Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá IV đó tập trung tìm
mọi cách làm cho sản xuất ''bung ra'' Vấn đề tận dụng sức mạnh của các
thành phần kinh tế đó được chú ý tới; xuất phát từ hiệu quả kinh tế mà vận
dụng linh hoạt các hình thức tổ chức sản xuất thích hợp; chính sách đối với
thành phần kinh tế cá thể từng bước được mềm hoá cho đúng thực tế hơn
Những tìm tới được thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá
IV) và các nghị quyết tiếp theo đó đặt những viên gạch nền móng đầu tiên
cho quá trình đổi mới. Để góp phần khắc phục tư tưởng nôn nóng trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội V đó đưa ra tư tưởng về sự phân
chia thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thành nhiều chặng: ''Chặng đường
trước mắt của thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm thời kỳ 5 năm 1981 -1985
kéo dài đến năm 1990''. Trong giai đoạn 1981-1985, coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công
nghiệp nặng trong một cơ cấu công nghiệp hợp lý. Xem đó là "nội dung
chớnh của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt”.
Song, những bước tiến đạt được trong nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đại hội V đạt được chưa có đủ
thời gian cần thiết để biến thành những thay đổi tích cực trong thực tiễn kinh
tế - xã hội. Phân tích tình hình thực tế khi đó, Hội nghị Trung ương ba khoá
V (12-1982) chỉ ra rằng, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn gay
gắt, nền kinh tế có nhiều mặt mất cân đối nghiêm trọng; lưu thông phân phối
20
có nhiều diễn biến xấu; thị trường rối loạn, công tác quản lý lỏng lẻo. Tiếp
tục đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội để vượt khỏi tình hình đó ngày càng
trở thành đòi hỏi cấp bách đối với Đảng ta.
II. Những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam sau
thời kỳ đổi mới
1. Công cuộc đổi mới ở nước ta từ đại hội VI đến đại hội X
Công cuộc đổi mới ở nước ta, được xã hội VI của Đảng khởi xướng năm
1986, bên cạnh nhiệm vụ nóng bỏng trước mắt là khắc phục cuộc khủng

hoảng kinh tế - xã hội nảy sinh từ cuối thập kỷ 70, cũng có nhiệm vụ cơ bản
và lâu dài hơn: Đó là xây dựng nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội và
xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (24-27-6-1991) đó thông
qua Cương lĩnh trong thời kỳ quá độ lên CNXH (cũn gọi là Cương lĩnh 91)
nêu ra 6 đặc trưng của CNXH: Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là
một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ;
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại
và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu;
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện cá nhân;
- Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ;
21
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế
giới.
Sáu đặc trưng trên đây, bao quát cả sáu lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, vǎn
hóa, con người, dân tộc, quốc tế. Gọi là đặc trưng, bởi lẽ đây là những khác
biệt so với mọi kiểu loại xã hội đó từng tồn tại trong lịch sử, những khác biệt
đem lại sự giải phóng hoàn toàn và triệt để cho dân tộc, cho xã hội và cho
con người.
Đến Đại hội VIII ((28/6-1/7/1996) và Đại hội IX ((19/4-22/4/2001, Đảng
ta vẫn tiếp tục khẳng định: 6 đặc trưng của CNXH. Đến Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng ((18/4-25/4/2006), Đảng ta bổ sung mô hình
đặc trưng CNXH gồm 8 đặc trưng như sau:
- Xây dựng dân giàu nước mạnh, xã hội cụng bằng văn minh.
- Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại

và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đây là đặc trưng về phương diện kinh tế. Mục tiêu cao nhất của chủ
nghĩa xã hội (CNXH) là giải phóng con người. Trình độ giải phóng con
người phụ thuộc vào trình độ kinh tế - xã hội đến cùng do sự phát triển của
lực lượng sản quyết định. Trong xã hội XHCN khi lực lượng sản xuất phát
triển đến trình độ hiện đại, mang tính chất xã hội hoá ngày càng nâng cao và
quan hệ sản xuất XHCN thích ứng với lực lượng sản xuất đó dựa trên cơ sở
chế độ công hữu đối với những tư liệu sản xuất chủ yếu, người lao động mới
có điều kiện làm chủ quá trình sản xuất và các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vì vậy trong quá trình xây dựng CNXH cần thường xuyên coi trọng đẩy
mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trên cơ sở đó không ngừng
hoàn thiện quan hệ sản xuất theo đinh hướng XHCN. Tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ 8 của ĐCSVN đó nêu ra quan điểm lớn trong đó khẳng
định”nếu CNH - HĐH tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội
22
mới thì việc phát triển kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ
thống quan hệ sản xuất phù hợp’’
Ngày nay công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá, khoa hoc công nghệ
trở thành nền tảng của công nghiệp hoá - hiện đại hóa.
- Xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Tính ưu
việt, sự ổn định và phát triển của xã hội XHCN không chỉ thể hiện ở
lĩnh vực kinh tế mà còn cả trên lĩnh vực văn hoá tinh thần của xã
hội. Văn hoá ngày càng trở thành động lực quan trọng của sự phát
triển là nền tảng tinh thần của xã hội.
Sự phát triển của văn hoá XHCN không những đáp ứng nhu cầu về văn
hoá tinh thần của người lao động mà còn thúc đẩy sự phát triển của sản xuất
vật chất và các lĩnh vực khác đảm bảo sự thắng lợi của CNXH.
Việc xây dựng và phát triển văn hoá xã hội tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc cũng là một vấn đề có tính quy luật của quá trình xây dựng CNXH.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của

cộng đồng các dân tộc Việt Nam qua hàng ngàn năm lịch sử như lòng yêu
nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết đức tính cần cù… Việc bảo vệ bảo vệ bản
sắc dân tộc gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những
cái hay những cái tiến bộ. Chúng phải kiên quyết chống lại tư tưởng phản
tiến bộ, trái với phương hướng đi lên CNXH.
- Con người được giải phóng áp bức bóc lột, bất công làm theo năng lực
hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều kiện phát triển
toàn diện sống trong môi trường sinh thái trong lành.
 Con người là điểm xuất phát và giải phóng con người là mục tiêu
cao nhất trong cuộc cách mạng XHCN.
23
 Xã hội XHCN là một liờn hợp xã hội kiểu mới “trong đó sự phát
triển tự do của mới người là điều kiện cho sự phát triển của tất cả
mọi người’’
 Phân phối theo lao động trong xã hội XHCN, là hình thức phân
phối thích hợp nhất để tạo ra sự bình đẳng con người trong xã hội
XHCN được tự do phát triển khả năng, phát biểu ý kiến. Con
người luôn là trung tâm, họ được tạo điều kiện phát triển.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng
tiến bộ.
 Mục tiêu cơ bản của mục tiêu của CNXH là xoá bỏ áp bức dân tộc
phấn đấu cho quyền được sống trong hoà bình tự do, hạnh phúc,
bình đẳng của một dân tộc trong cộng đồng các dân tộc, xây dựng
quan hệ đoàn kết hợp tác hữu nghị giữa các dân tộc.
 Thắng lợi của CNXH cũng phụ thuộc một phần rất quan trọng vào
việc giải quyết các vấn đề dân tộc. Kết hợp chặt chẽ độc lập dân
tộc với CNXH là một vấn đề có tính quy luật của sự phát triển xã
hội trong thời đại ngày nay sự. Sự tồn tại và phát triển của CNXH
đòi hỏi phải giải quyết đúng dắn vấn đề dân tộc sự bình đẳng đoàn
kết của các dân tộc tạo sự liên kết lớn, một khối đại đoàn kết vững

mạnh tiến bước trên con đường CNXH.
- Xây dựng nhà nước pháp quyền CNXH.
 Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân do dân vì dân. Quyền
lực nhà nước là thống nhất có sự phân công có sự phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp
hành pháp tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi
24
cơ quan cán bộ công dân đều có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và
pháp luật.
 Cải cách tổ chức nâng cao chất lượng của các cơ quan tư pháp viện
kiểm sát nhân dân, chăm lo bảo vệ con người giải quyết kịp thời
khiếu lại tố cáo của công dân sẽ tạo điều kiện phát huy sức mạnh
dân tộc.
- Xây dựng nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
 CNXH giải phóng hàng trăm triệu người lao động khỏi áp bức bất
công nghèo nàn và mu muội đem lại địa vị xã hội. Một trong
những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự trì trệ khủng hoảng trầm
trọng và sự sụp đổ của chế độ XHCN ở các nước đông âu và liên
xô là do việc hạn chế việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động.
 Để xây dựng càng hoàn thiện chế độ dân chủ XHCN thì phải
thường xuyên chăm lo xây dựng nhà nước XHCN của dân do vì
dân lấy liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trớ
thức là nền tảng do dân lãnh đạo, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân tham gia xây dựng bảo vệ đất nước nhất là việc dám sát, kiểm
tra của nhân dân đối với các hoạt động của cơ quan cán bộ công
chức nhà nước.
- Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân các nước vì hoà bình độc lập
phát triển.

Thông qua quan hệ hợp tác, hữu nghị các nước trên thế giới, chủ nghĩa
mở rộng sự ảnh hưởng của mình giúp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ
xã hội. Việt Nam san sằng là bạn của tất cả các nước trên thế giới. Mở rộng
25

×