TRƯỜNG………………
KHOA…………………………
Tiểu luận
ĐỀ TÀI:
HƯƠNG ƯỚC – VAI TRÒ CỦA
HƯƠNG ƯỚC TRONG QUẢN LÝ
LÀNG XÃ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 3
NỘI DUNG 3
I. Tìm hiểu chung về Hương ước: 3
II. Nội dung cơ bản của Hương ước làng: 4
1. Hương ước các làng quy định về chế độ ruộng đất.
4
KẾT LUẬN 13
LỜI MỞ ĐẦU
Theo dòng chảy của lịch sử, có những thứ sẽ mất dần đi, nhưng có những
thứ sẽ lại càng phát huy được vai trò, thế mạnh của mình trong thời đại mới
và tồn tại mãi mãi. Cũng như vậy, mô hình tổ chức làng xã đã xuất hiện từ
rất sớm và vẫn còn tồn tại bền vững cho đến tận ngày nay. Gắn liền với nó
chính là sự hình thành và phát triển của nền văn hoá làng xã. Trong đó,
Hương ước là một biểu hiện quan trọng của nền văn hoá dân gian ở làng quê
và mang đặc điểm riêng ý thức hệ của người dân trong mỗi ngôi làng.
Hương ước, luật làng đã tồn tại song song cùng với luật pháp và nắm giữ vai
trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, cắm rễ, ăn sâu trở thành nếp cảm,
nếp nghĩ của con người (Ví dụ như Hương ước của các làng Quỳnh Đôi là
một trong những bản Hương ước cổ nhất hiện nay, Hương ước của làng
Nhật Tân, Phù Xá Đoài hay Thổ Khối…) Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay,
Hương ước vẫn tiếp tục phát huy được các vai trò của nó đối với sự phát
triển của làng xã Việt Nam.
NỘI DUNG
I. Tìm hiểu chung về Hương ước:
Hương ước, khoán ước (hay còn gọi nôm na là lệ làng) ở Việt Nam xuất
hiện vào khoảng giữa thế kỷ XV. Đến thời Trần (khoảng cuối thế kỷ XVII)
Hương ước đã trở nên khá phổ biến trong hệ thống làng, xã Việt Nam . Hầu
hết các Hương ước đều đề cập nội dung chính như: An ninh trật tự, quan hệ
ứng xử, công ích công lợi, thưởng phạt, đến việc cụ thể bổn phận của con cái
đối với cha mẹ, ông bà, vợ đối với chồng, anh đối với em…
Như vậy, Hương ước là bản ghi chép các điều lệ (những quy tắc xử sự
chung) mang tính bắt buộc phải tuân thủ, liên quan đến đời sống của cộng
đồng dân cư sinh sống trong làng. Các điều lệ này hình thành dần trong lịch
sử, được điều chỉnh và bổ sung mỗi khi cần thiết. Xưa, các điều ấy quen gọi
là lệ làng.
Hương ước còn có cách gọi đồng nghĩa như: Hương biên, hương lệ, hội
đình, hội ước…
Hương ước có thể xem là hệ thống luật tục tồn tại song song với pháp luật
của Nhà nước nhưng không đối lập với luật pháp của Nhà nước. Hương ước
đề cập tới những nội dung cụ thể gắn với hoàn cảnh phong tục, tập quán lâu
đời của từng làng, là những nội dung mà các bộ luật của Nhà nước khó đề
cập đến.
Hương ước được xây dựng trên cơ sở những mối quan hệ giữa các thành
viên của cộng đồng làng, xã với nhau, giữa mỗi thành viên với cộng đồng,
giữa các cộng đồng nhỏ trong làng (phe, giáp, họ…) và làng.
Hương ước không chỉ đề ra các hình thức trừng phạt với các việc làm trái mà
còn đề ra những hình thức khen thưởng việc tốt, có ích cho làng.
Trước đây, Hương ước chủ yếu là do các vị có vai vế trong làng bàn bạc để
xây dựng nên. Tuy nhiên, đến ngày nay, Hương ước cũng có đôi chút thay
đổi. Như theo chỉ thị “Về việc xây dựng và thực hiện Hương ước, quy ước
của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư” (số hiệu 24/1998/CT-TTG) của Thủ
tướng Chính phủ ban hành ngày 19/06/1998 đã quy định rõ rằng dự thảo
Hương ước sau khi được nhân dân, hội nghị cử tri hay hội nghị đại biểu Hộ
gia đình thông qua, thì cần phải được Uỷ ban Nhân dân cấp huyện phê duyệt
trước khi thi hành nhằm đảm bảo nội dung của Hương ước không trái với
các quy định của pháp luật hiện hành hay các quy định xử phạt nặng nề, các
khoản phí, lệ phí có thể gây thiệt hại làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Như vậy, Hương ước ngày nay và trước đây đã xuất hiện một số điểm thiếu
đồng nhất, tuy nhiên, nội dung và vai trò của Hương ước làng xã trong đời
sống người dân Việt Nam ta về cơ bản vẫn không hề thay đổi.
II. Nội dung cơ bản của Hương ước làng:
1. Hương ước các làng quy định về chế độ ruộng đất.
Nông nghiệp là cơ sở kinh tế chính của làng xã Việt Nam . Hương ước các
làng đều khẳng định “việc nhà nông là cái gốc lớn” để bảo vệ, phát triển sản
xuất và đều ra một số quy định khuyến khích mọi người, mọi nhà tận dụng
đất đai để sản xuất và quy định về việc xử dụng ruộng đất. Như Hương ước
làng Quỳnh Đôi-Nghệ Tĩnh có tới 4 điều khoản nói về vấn đề này, trong đó
điều 9 quy định “làng xét các nơi trong đồng điền nơi nào trồng hoa quả thì
trồng cho hết không được bỏ hoang Nếu có người không cày bừa để ruộng
vườn hoang thì phải phạt”. Tuy nhiên, quy định về chế độ ruộng đất cơ bản
đã bị bãi bỏ vì hiện nay quy định này thuộc thẩm quyền của Nhà nước quản
lý.
2. Hương ước làng quy định về chế độ khuyến nông,
bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường và các danh lam
thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo.
Về công tác khuyến nông bảo vệ sản xuất được chú trọng nhằm tận dụng
diện tích đất. Điều 113 Hương ước làng Quỳnh Đôi-Nghệ Tĩnh quy định:
"Nguyên làng ta có một dải ruộng hoang ở xứ Đập Bản và Vụng Cầu, làng
nên cho khai khẩn thành ruộng trồng trọt để làm mối lợi thêm cho dân làng,
nay làng bản hễ người nào có sức phá vỡ ra cày cấy được khoảng 4 năm,
làng cho ăn không phải nộp thuế, ngoài 4 năm thì cứ lấy lúa trên ruộng,
được bao nhiêu làng chia 3, làng chỉ lấy 1 phần, làng làm như thế trong 20
năm, hết hạn phải giao ruộng cho làng".
Hương ước các làng còn quy định về những điều xử phạt rất nghiêm đối với
những hành vi gây ô uế không khí, làm nhiễm bẩn nguồn nước, làm lây lan
dịch bệnh trong xóm làng. Như điều 46 Hương ước làng Thanh Liệt (nay
thuộc huyện Thanh Trì) ghi: "Người ta ai có mạnh khoẻ thì mới sống lâu,
muốn dân làng được mạnh khoẻ thì ai cũng phải biết giữ gìn vệ sinh chung
và vệ sinh riêng".
3. Quy định về tổ chức xã hội, trách nhiệm của các
chức định trong làng.
Thành viên trong làng thường chịu sự chỉ huy của những người đứng đầu,
phải tuân theo những quy tắc do làng đặt ra và đều bình đẳng với nhau trên
cơ sở tôn trọng giúp đỡ lẫn nhau. Những người đứng đầu phải có trách
nhiệm chỉ huy việc thực hiện các quy định của làng và giải quyết các sự việc
xảy ra trong làng. Như tiết kế 1 trong Hương ước của làng Quýt Lâm, phủ
Mộ Đức có ghi: “Sở đình hay nhà hội trong làng, nơi căn giữa, thì chức sắc
ngồi từng trước, mấy người kỳ lão có danh vọng ngồi từng sau, chức sắc
nhượng theo chức hàm, kỳ lão nhượng theo niên xỉ, thủ thứ mà ngồi”.
4. Quy định về văn hoá ứng xử, tín ngưỡng và các lễ
khao vọng, cưới hỏi.
Ở mỗi làng đều có những quy định về tín ngưỡng của riêng mình. Điều đó
được ghi trong Hương ước của các làng. Như Hương ước làng Quýt Lâm,
phủ Mộ Đức có ghi các Tế tự gồm: Lễ Nguyên đán, Lễ tế Xuân thủ, Lễ cúng
Hành khiển, Thượng điền, Hạ điền… Trong đó, Khoản 3, Tiết thứ 2 ghi rõ:
“Mỗi năm đến sớm mai ngày 15 tháng giêng, thì tế Xuân thủ tại đình,
thường dùng một con heo và phẩm vật, lựa một người kỳ cực đứng vai cứng,
lễ ấy chi bạc năm đồng năm giác”.
Trong làng thường xuyên có tổ chức các lễ cưới hỏi, rước dâu hay mừng thọ,
và những lễ này cũng được quy định trong Hương ước rất chi tiết về các
khoản lệ phí phải nộp, thời gian và quy mô tổ chức. Bên cạnh đó, các quy
định về văn hoá ứng xử trong làng xã cũng được quy định rất rõ ràng, chi
tiết và khá chặt chẽ (quy tắc “kính lão đắc thọ”, “tôn sư trong đạo”…)
5. Quy định về thưởng và phạt trong Hương ước.
Trong làng xã thường hay xảy ra các vụ trộm cắp, đánh nhau hay nộp khoán
không đủ (thời trước đây)… cần được các điều lệ trong Hương ước điều
chỉnh. Ví dụ như về việc mất trộm, trong Hương ước làng Quýt Lâm có ghi:
“Hễ nhà ai bị ăn trộm mất đồ vật gì, mà sự chủ vẫn biết đồ ấy hiện chứa tại
nhà nào, thì phải chiếu theo tục cũ, lập tức tường với chức việc sở tại, thị
thiền cho soát xét, như xét được quả tang, khinh thì phân xử, trọng thì giãi
trình”. Nhiều quy định trong các bản Hương ước cổ trước đây thường có các
hình phạt khá nặng nề, chủ yếu đánh vào danh dự của cá nhân hay cả gia
đình, dòng họ người phạm tội, gây thiệt hại và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, thậm chí gây thiệt mạng (Hình phạt gọt gáy bôi vôi
với những phụ nữ không chồng mà chửa). Tuy nhiên, đa số các bản Hương
ước hiện nay đều đã bãi bỏ hoặc thay thế những hình phạt như vậy, mang lại
tính văn minh cũng như dân chủ cho toàn nhân dân Việt Nam ta.
Như vậy, Hương ước có vai trò quan trọng đối với việc ổn định nếp sống
trong làng, sức mạnh của nó, một phần dựa vào hình phạt (cao nhất là đuổi
khỏi làng), một phần dựa vào phần thưởng. Song sức mạnh lớn nhất là bởi
dư luận khen - chê của dân làng.
Hương ước phản ánh tâm lý của dân làng, phản ánh một phương diện quan
trọng của văn hoá làng. Đó là các quan điểm của dân làng về điều hay, lẽ
phải, điều dở, điều trái, về cái đúng - sai, đáng trọng - đáng khinh. Sức mạnh
cưỡng chế của hương ước dựa vào lề thói, nếp sống quen thuộc của cộng
đồng làng. Đó là sức mạnh có tính chất tâm lý nằm sâu trong tiềm thức của
mọi dân làng. Hương ước vừa uốn người ta vào khuôn phép, và động viên
người ta hành động, gắn bó dân làng thành một cộng đồng chặt chẽ, đồng
thời điều tiết các trách nhiệm và các quyền lợi của mọi thành viên trong
làng. Do đó, hương ước có ý nghĩa trong việc bổ sung cho luật pháp khi cần
xử lý những vấn đề rất cụ thể nảy sinh từ nếp sống đặc thù của làng.
Hương ước không chỉ có ý nghĩa như là một thứ luật pháp mà còn có ý
nghĩa như là một hệ thống tiêu chuẩn đạo đức. Vì vậy, nó chứa đựng những
giá trị văn hoá dân gian, hàm chứa nhiều yếu tố tích cực. Song, hương ước
cũng tồn tại không ít các yếu tố tiêu cực (như sự lợi dụng hương ước để hà
hiếp dân của cường hào, ác bá trong làng…)
Tiếp thu những yếu tố tích cực của hương ước cũ để xây dựng hương ước
mới ở các làng hiện nay là việc làm cần thiết để góp phần xây dựng và nâng
cao đời sống văn hoá ở các xóm làng.
III. Vai trò, ảnh hưởng của Hương ước đối với sự
phát triển của làng xã ngày hôm nay:
1, Từ hương ước xưa đến quy ước làng văn hóa ngày
nay
Từ xưa hương ước được tồn tại song song với pháp luật nhà nước. Trong
một cộng đồng làng xã bao gồm các mối quan hệ xã hội đòi hỏi trong cộng
đồng ấy phải giải quyết hàng loạt các vấn đề nảy sinh để cộng đồng càng tồn
tại và phát triển. Như vậy, hương ước tự nó đóng vai trò cương lĩnh tinh thần
đối với cộng đồng dân cư làng xã. Những quy định (điều ước) của dân làng
được ghi trong hương ước đã phản ánh đầy đủ các mặt của đời sống làng xã.
Trên cương lĩnh về tinh thần ấy, nó bắt nguồn sâu thẳm nhất của từng thành
viên trong cộng đồng làng xã, là giá trị niềm tin của sự đồng cảm và truyền
thống làng mạc.
Hương ước ra đời chính là sự đòi hỏi quy luật khách quan của phát triển nội
tại trong đời sống làng xã. Chừng nào làng xã còn tồn tại thì hương ước còn
tồn tại và có ý nghĩa, vị trí quan trọng trong đời sống xã hội.
Trong xã hội phong kiến làng xã là một đơn vị tự quản độc lập, nhà
nước phong kiến phải nhường một phần quyền điều hành cho bộ máy quản
lý làng xã. Ngày nay chúng ta quản lý xã hội bằng pháp luật. Do vậy quy
ước mới ra đời kế thừa hương ước xưa có tác dụng điều chỉnh hành vi của
công dân mà pháp luật chưa đề cập hết được. Mặt khác, vấn đề thưởng phạt
trong hương ước chủ yếu bằng hình thức dùng sức ép dư luận để giáo dục
hướng các thành viên trong cộng đồng làng xã theo một nguyên tắc chung
nhất. Vì vậy, trên thực tế hương ước đạt được hiệu quả hơn người ta tưởng
và mặc nhiên tồn tại phát triển cho đến tận ngày nay.
Tuy nhiên, do hạn chế về nhiều mặt, hương ước xưa để lại không ít
những hậu quả như: tăng tính biệt lập, giảm tính thống nhất giữa các làng xã
làm cho người nông dân sống quen với luật tục hơn là sống quen với pháp
luật. Do vậy, từ xưa đến nay người dân vẫn truyền tai nhau câu cửa miệng là
“phép vua thua lệ làng”.
Từ khi Đảng và Nhà nước ta phát động cuộc vận động xây dựng gia
đình văn hóa, thôn, làng, bản, ấp văn hóa, người dân đã nhận thức đầy đủ
rằng trong xã hội các hành vi của công dân không chỉ chịu sự điều chỉnh của
pháp luật mà còn chịu sự điều chỉnh của nhiều phạm trù xã hội khác như
quan niệm đạo đức, tập quán, dư luận, tín ngưỡng tôn giáo.
Phải nói rằng, từ khi có chính sách mới của Đảng và pháp luật của
Nhà nước đối với nền kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng thì hộ gia
đình được coi là đơn vị kinh tế tự chủ. Đó là tiền đề cho việc xác lập vị trí
vai trò quan trọng của làng xã trên nhiều mặt, trước hết là vai trò hương ước
trong việc quản lý xã hội ở nông thôn và tổ chức các hoạt động văn hóa. Các
giá trị truyền thống văn hóa được khôi phục như đình làng được sửa sang và
lễ hội được mở ra.
Việc xây dựng làng văn hóa đã gắn kết tạo ra tính chất cấu kết cộng
đồng cao, phong tục tập quán cổ truyền được kế thừa. Đó là sự gắn bó đoàn
kết giúp đỡ lẫn nhau giữa người cùng dòng họ, xóm, ngõ, tổ, khu phố… khi
có công việc trọng đại như: tang ma, cưới xin hay các công việc đóng góp
xây dựng đường làng, ngõ xóm, tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa.
Cuộc vận động thực hiện xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa
qua nhiều năm nay đã được khẳng định, quy ước làng văn hóa là một nội
dung rất quan trọng và không thể thiếu trong xây dựng làng văn hóa. Thực
chất đây là đòi hỏi hết sức khách quan của cộng đồng làng xã bắt nguồn từ
việc kế thừa truyền thống lập hương ước lâu đời của ông cha ta ngày xưa
nhằm xây dựng cộng đồng làng xã có cuộc sống ổn định, phát triển không
ngừng về vật chất và tinh thần.
Xây dựng quy ước trên tinh thần “gạn đục, khơi trong” trong những
hương ước cổ, có nội dung phù hợp với tình hình mới có tác dụng rất lớn
nâng cao ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ, tình cảm của người dân đối với việc
hình thành nhân cách, phong tục tập quán tốt đẹp tác động trực tiếp đến việc
xây dựng làng văn hóa.
Vấn đề xây dựng quy ước làng văn hóa là phải dân chủ trên cơ sở bàn
bạc của nhân dân, không trái với pháp luật, đạo đức xã hội, tạo hiệu quả
trong việc quản lý làng xã hiện nay, nghiêm cấm việc tự đề ra quy định trong
điều khoản mang tính chế tài của một văn bản không phải là luật pháp.
Phong trào xây dựng quy ước làng văn hóa trên cơ sở có kế thừa
hương ước xưa là một hiện tượng văn hóa xã hội cần quan tâm của các cấp
ủy Đảng và chính quyền ở địa phương và đầu mối là ngành văn hóa thông
tin, ngành tư pháp và một số ngành liên quan chỉ đạo hướng dẫn soạn thảo
mang tính định hướng quản lý nhà nước để ngăn ngừa những hiện tượng
lệch lạc trong quá trình soạn thảo quy ước, góp phần đưa nguyện vọng của
nhân dân tham gia vào phát triển đời sống kinh tế văn hóa xã hội ở địa
phương ổn định. Thực hiện các nhiệm vụ quản lý xã hội trong điều kiện đổi
mới đất nước hiện nay.
2, Những vai trò, ảnh hưởng tích cực của Hương ước
trong sự phát triển của làng xã hôm nay:
Với rất nhiều các quy định, điều lệ cùng sự tồn tại bền vững, lâu dài của
mình, Hương ước đã có những vai trò, ảnh hưởng rất lớn đến làng xã Việt
Nam ta, đặc biệt là trong thời đại hiện nay.
Bảo tồn và giữ gìn các danh lam thắng cảnh, đền thờ, bảo vệ môi trường
của làng nói riêng và của toàn dân tộc nói chung.
Như đã phân tích ở trên, một trong những nội dung cơ bản của Hương ước
chính là quy định về bảo vệ môi trường, bảo vệ các danh lam thắng cảnh.
Qua đó, Hương ước cũng đã góp phần không nhỏ trong việc giữ gìn môi
trường, các danh lam thắng cảnh hay các đền chùa, miếu mạo của làng xã.
Điển hình như thời gian qua là tại xã Nghi Sơn, Quế Sơn, Quảng Nam, nơi
có một khu rừng nhỏ mang tên Miếu Cấm đã được cả dân làng nâng niu bảo
vệ, nguyên nhân là từ một bản Hương ước truyền từ đời xa xưa quy định:
“Cấm cư dân trong làng vào rừng chặt củi làm than. Nếu vi phạm sẽ bị làng
xử phạt. Nhẹ thì cảnh cáo, nặng thì đòn roi, nghiêm trọng hơn thì đuổi ra
khỏi làng”. Vì thế, không những chỉ người dân trong làng, mà ngay cả
những cư dân nơi khác cũng không dám vào săn bắt, chặt cây, dù rừng có rất
nhiều các loại gỗ quý.
Duy trì và phát huy thuần phong, mỹ tục và truyền thống văn hoá cộng
đồng, củng cố các giá trị đạo lý và nhân bản. Nuôi dưỡng, vun đắp ý thức
cộng đồng, tinh thần đoàn kết, tinh thần bất khuất, tinh thần tự lực, tự chủ
cho mỗi thành viên trong cộng đồng làng xã, xây dựng ý thức cộng đồng
làng xã.
Trong Hương ước xưa cũng có nhiều điều “khuyến”. Như trong bài truyền
thống khuyến học của người Hà Nội xưa qua Hương ước (Tạp chí Xưa và
Nay - số tháng 10-1998) đã công phu ghi lại nhiều điều trong Hương ước
một số làng ở Hà Nội mà nội dung chính là khuyến khích việc học hành. Thí
dụ, Hương ước làng Nhật Tân, điều 102 ghi: “Dạy trẻ con có học thức phổ
thông là nghĩa vụ của người làm phụ huynh, không ai được từ”, hay Hương
ước làng Phù Xá Đoài (Đông Anh), có điều khoản ghi: “Con trai con gái 5,6
tuổi cho vào trường học. Bằng không cho đi học, chỉ nuông con để nghịch
giặc, chửi đánh nhau, thời bố mẹ phải phạt một cơi trầu (10 quả cau, giá tiền
một hào)”, Hương ước làng Cổ Nhuế, điều 98 ghi: “Làng trích tiền công để
mua giấy cho những con nhà nghèo mà hương hội xét không thể mua được”.
Làng nào cũng có khoản học điền để dành quỹ trả lương cho thầy giáo
trưởng làng và phát phần thưởng cho học trò giỏi, qua đó đã thúc đẩy tinh
thần hiếu học, ham học hỏi của người dân. Hay như về tinh thần văn hoá thì
tiêu biểu là ở huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ đã thực hiện được 100% khu
dân cư có Hương ước xây dựng nếp sống văn hoá, trong đó có quy định khá
cụ thể về nếp sống văn minh trong việc cưới hỏi, việc tang và lễ hội… trở
thành một điểm sáng cho các huyện, tỉnh khác noi theo. Bên cạnh đó, các
Hương ước với những điều lệ quy định tinh thần đoàn kết, tương thân tương
ái, “lá lành đùm lá rách”, “uống nước nhớ nguồn”… trong cộng đồng làng
xã cũng có ảnh hưởng tích cực đến đời sống làng xã Việt Nam hiện nay.
Phát huy cái đẹp, cái tốt trong Hương ước xưa, ngày nay, xã Quỳnh Hồng
(huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An), xã Hải Tân (huyện Hải Hậu, Nam Định)
cùng nhiều nơi khác xây dựng và thực hiện quy chế thôn xã văn hóa, vừa
khôi phục những truyền thống tốt đẹp của mình, vừa nâng cao ý thức tuân
thủ pháp luật chung của đất nước, cùng cả nước lo toan những nghĩa vụ
chung của người dân bình đẳng. Xã Xuân Thành (huyện Thọ Xuân, Thanh
Hóa) được coi là lá cờ đầu xây dựng quy ước nông thôn mới của tỉnh, nổi
bật nhất trong mối quan hệ nhân dân với cán bộ thôn xã, không chỉ trong lao
động sản xuất mà còn cả việc sinh đẻ theo kế hoạch, việc xẻ làng đi xây
dựng quê hương mới
Tổ chức và quản lý các mặt của đời sống làng xã, duy trì trật tự, kỷ cương,
tạo ra môi trường ổn định và an toàn cho cả cộng đồng làng xã.
Xem xét các Hương ước cổ còn lại đến ngày nay ta thấy rằng về cơ bản, quy
định trong các bản Hương ước đều thể hiện tinh thần ý thức hệ Nho giáo. Đó
là các quy định về “Tam cương, ngũ thường”, về “tôn ti trật tự” trong các
quan hệ có tính thứ bậc trong làng xã. Qua đó, Hương ước cũng đã điều
chỉnh các mối quan hệ xã hội cụ thể trong làng xã. Việc phát huy tinh thần
tự chủ, tự giác, tự quản làng xã cùng dư luận xã hội và các biện pháp
thưởng, phạt khác đã giúp cho trật tự, kỷ cương làng xã được thực hiện một
cách rất nghiêm chỉnh, nhờ đó đã giúp rất nhiều cho sự phát triển của làng
xã hôm nay.
Hương ước không chỉ là biểu hiện của pháp luật mà còn giúp khắc phục các
chỗ hổng của pháp luật hoặc pháp luật quy định chưa cụ thể; Đưa pháp luật
đi vào đời sống người dân một cách dễ dàng hơn.
Pháp luật dù cụ thể đến mấy cũng không thể bao quát được tất cả các đặc thù
của quan hệ làng xã. Đặc biệt là các làng xã cổ truyền Việt Nam bên cạnh
các đặc điểm có tính phổ quát, mỗi làng xã lại có các đặc điểm riêng của
mình. Do vậy, mỗi một cộng đồng làng xã cụ thể luôn cần đến các quy định
gần gũi, dễ hiểu, dễ thực hiện cho mọi thành viên trong làng, phản ánh được
nhu cầu tổ chức và phát triển vủa mỗi làng, xã cụ thể. Bên cạnh đó, khi có
những chính sách của Nhà nước đưa xuống các vùng nông thôn thì nhờ có
Hương ước của các làng nên việc thực thi những chính sách đó được thực
hiện một cách nghiêm chỉnh hơn, nâng cao ý thức pháp luật của người dân
ta. Trong ý nghĩa ấy, Hương ước là phương tiện, công cụ bổ sung quan trọng
cho khả năng điều chỉnh của luật nước, thể hiện ở các việc cụ thể:
- Hương ước biến các quy định chung của pháp luật thành các quy định
cụ thể của làng: đơn giản hoá các quy định của luật nước, làm cho ý thức hệ
pháp luật của Nhà nước trở nên gần gũi và thâm nhập vào hệ tư tưởng, vào
tâm lý và lối sống của mỗi người dân, làm pháp luật trở nên dễ hiểu, dễ áp
dụng. Với lối hành văn dung dị, có vần điệu theo dân gian, Hương ước đi
vào đời sống một cách tự nhiên, nên thấm sâu vào đời sống cộng đồng mà ít
cần đến các phương tiện tuyên truyền, phổ biến ồn ào, tốn kém.
- Hương ước góp phần biến cải khuôn khổ cứng nhắc, các quy tắc có
tính nghiêm khắc lạnh lùng của luật pháp thành sự uyển chuyển, linh động
và biến hoá trong lối hành xử của các cộng đồng. Ở Hương ước, lệ làng, ta
nhận thấy các tinh thần khoan dung, độ lượng và uyển chuyển, hoá giải cái
khô cứng, hà khắc, đôi khi là tàn bạo của luật pháp.
- Hương ước đưa ra nhiều quy định cụ thể bổ khuyết vào các lỗ hổng
của pháp luật, trong các mối quan hệ cụ thể của cuộc sống làng xã. Các vấn
đề như chia ruộng đất công, lão quyền, nam quyền, phụ quyền, trưởng
quyền, an ninh làng xã, đời sống tâm linh của cộng đồng… Thường là
những vấn đề được quy định chung chung trong luật nước lại rất cụ thể trong
các Hương ước.
3, Những ảnh hưởng tiêu cực của Hương ước trong
sự phát triển của làng xã hôm nay:
Có nhiều các bản Hương ước mang theo những quan niệm lạc hậu, chứa
những yếu tố tiêc cực, gây ảnh hưởng cho sự phát triển của làng xã, cản trờ
việc thực hiện các chính sách phát triển của nhà nước.
Trong thực tiễn đời sống pháp lý ở làng xã cổ truyền Việt Nam, quan niệm
“phép vua thua lệ làng” đã tạo điều kiện cho sự thể hiện các tác động tiêc
cực của bản thân mỗi Hương ước. Vì bên cạnh các giá trị tích cực như đã nói
ở trên, thì nhiều Hương ước cũng chứa đựng không ít các quy tắc mang tính
tiêu cực, thể hiện tinh thần cục bộ địa phương, bè phái trên cơ sở “tâm lý
làng” và bởi tư duy “ăn cây nào rào cây ấy”, “ở đình nào chúc đình ấy”,
“trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”, ít quan tâm đến
lợi ích của làng khác và lợi ích của cả nước. Ví dụ như các bản Hương ước
có quy định hủ tục về ma chay, cưới hỏi, hội hè… làm tốn kém tiền của, thời
giờ, thậm chí phá vỡ hạnh phúc của nhiều người. Ngoài ra, có nhiều bản
Hương ước đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân, khiến cho việc tiếp nhận
những chính sách, những kinh nghiệm tiến bộ bị cản trở, nhất là ở những nơi
vùng sâu, vùng xa, khi mà trình độ dân trí còn thấp thì việc tiếp nhận được
những tiến bộ để thay đổi các hủ tục đã có từ lâu thì lại càng khó hơn.
Vẫn còn hiện tượng nhiều bộ phận chức dịch trong làng thường lợi dụng
Hương ước để trốn tránh nghĩa vụ trước Nhà nước, đục khoét dân làng.
“Tâm lý làng” với đầy rẫy các quy tắc về hệ thống đẳng cấp, ngôi thứ trong
làng đã được giới chức dịch trong làng bao đời lợi dụng để trói buộc người
nông dân vào hằng hà vô số các nghĩa vụ, trách nhiệm, cấm đoán và hạn chế.
Tuy nhiên, hiện tượng hách dịch nhân dân ở làng xã như trên hiện nay đã
giảm đáng kể, chỉ còn tồn tại rất ít với mức độ cũng rất hạn chế, chính là do
các chính sách cải cách và điều chỉnh, quản lý của Đảng và Nhà nước ta.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua những phân tích trên, ta phần nào hiểu rõ về Hương ước, cũng
như nội dung và vai trò, ảnh hưởng của Hương ước đối với sự phát triển của
làng xã Việt Nam ta hôm nay. Có thể thấy, Hương ước chính là một văn bản
đặc biệt quan trọng trong đời sống làng xã của cư dân Việt Nam ta. Trong đó
là rất nhiều các thuần phong mĩ tục, các nét đẹp, các giá trị truyền thống của
từng làng xã nói riêng cũng như của cả dân tộc nói chung. Qua đó, ta có thể
nhận thấy Hương ước có vai trò vô cùng quan trọng, có thể là điều kiện thúc
đẩy, cũng có thể là cản trở đối với sự phát triển của làng xã. Vì vậy, yêu cầu
đặt ra là phải xây dựng những bản Hương ước phù hợp với nếp cảm, nếp
nghĩ của từng địa phương, đồng thời vẫn phải đảm bảo tuân thủ pháp luật,
phù hợp với thực trạng phát triển của mỗi địa phương. Bên cạnh đó, Đảng và
Nhà nước ta cũng đã có những quan tâm, chỉ đạo sát sao tới việc xây dựng
và xây dựng lại các bản Hương ước của làng xã thể hiện qua các cuộc vận
động xây dựng nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa (Bộ Văn hóa-Thông tin),
phát động từ nhiều năm nay, các thông tri, chỉ thị về "Cuộc vận động toàn
dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư" (ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), "Xây dựng và thực hiện Hương ước, quy ước
của làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư", "Xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở" (Thủ tướng Chính phủ) và ở Nghị quyết Hội nghị lần thứ V
Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (10/6/1993) cũng khẳng định:
“khuyến khích việc biên soạn Hương ước để làm cơ sở tổ chức, quản lý trên
địa bàn”.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại cương về văn hoá Việt Nam - Phạm Thái Việt, Đào Ngọc Tuấn -
Nxb. Giáo dục – Hà Nội – 2003.
2. Cơ sở văn hoá Việt Nam - Trần Quốc Vượng (Chủ biên) – Nxb. Giáo
dục – Hà Nội – 2003.
3. Cơ sở văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm – Nxb. Giáo dục – Hà Nội
– 2001.
4. Hương ước xưa, quy ước nay – Vũ Hạnh Hiên – Báo Xưa Nay - Số 5 –
1999.
5. Chuyên đề Hương ước: Kỷ yếu hội thảo Khoa học về Hương ước - Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý, bộ Tư pháp.
6. Về Hương ước lệ làng – Lê Đức TIết – Nxb. Học viện chính trị quốc
gia – Hà Nội – 1998.
7. Sử dụng luật tục, Hương ước- một chiến lược quản lý rừng – Ths. Hà
Công Tuấn - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp – Văn phòng quốc hội - Số
3/2006.
8. Luật nước và Hương ước lệ làng trong trong đời sống pháp lý của các
cộng đồng làng xã Việt Nam – PGS.TS Lê Minh Thông – Ban tổ chức Trung
ương.
9. Các trang web và các thông tin từ các báo khác.