Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phê bình nghệ thuật bắt đầu (và kết thúc) ở thưởng thức doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.44 KB, 10 trang )

Phê bình nghệ thuật bắt đầu (và
kết thúc) ở thưởng thức


1. Riêng tôi tôi nghĩ rằng, không ai sáng tác nghệ thuật bằng các
nguyên lý nghệ thuật bằng các nguyên lý cả (văn học hay hội họa, thơ
ca hay sân khấu, âm nhạc hay điện ảnh cũng vậy); mà nên quả quyết
như ông Xêdan, cha đẻ của hội họa hiện đại, rằng khi ta cầm bút là
quên đi tất cả những gì đã học được, và "con người trở thành một tiếng
vọng hoàn thiện", của cuộc sống và thực tại.

Cũng không ai sáng tác nghệ thuật cho các nhà phê bình cả; mà người
ta sáng tác bởi sự thưởng thức nghệ thuật của chính họ, và cho sự
thưởng thức nghệ thuật của người đọc, người xem, người nghe v. v
Thưởng thức là một thái độ sống, một quan niệm sống có định hướng.

Đọc, xem, nghe v. v nghệ thuật lại cứ lăm lăm trong đầu óc hay trong
bàn tay cái thước đo của nguyên lý (dù là triết, mỹ, xã hội hay đạo đức
) thì rất trở ngại, nếu không nói rằng làm tan biến hoàn toàn màu sắc,
hình vẽ, thi tứ, âm thanh của tác phẩm.

Sự gặp gỡ phải có và phải chờ đợi giữa nghệ sĩ và công chúng là đặt
cược hoàn toàn trên sự rung cảm chân thành, hướng theo một nhận thức
thẩm mĩ vô tư và nhất định, nơi chỉ có tôn trọng và ưa mến lẫn nhau.
Cũng cần nói thêm rằng cmả thức thẩm mỹ là cơ sở của thưởng thức
nghệ thuật, và cả hai đều không thể thụ giáo bằng nguyên lý được.

Làm nghề phê bình nghệ thuật thì tôi chắc ai cũng biết một câu nói ở
nước ngoài rằng: các nhà phê bình nghệ thuật thì thời nào và ở đâu
cũng nhiều, nhưng một nền phê bình nghệ thuật thì thời nào và ở đâu
cũng hiếm. Câu nói đó, đối với ta chắc cũng không sai. Vì ở nước ta bất


cứ một nhà báo, một người ham ăn nói, một người thích chỉ bảo, một
thầy giáo trường phổ thông nào cũng có thể là nhà phê bình. Chỉ khốn
một nỗi, và chính bởi vậy, mà cái nền phê bình nước nhà chưa ra sao.


2. Về sự phê bình nghệ thuật chỉ trông chờ vào những giá trị xã hội,
đạo đức và chính trị v. v thì tôi có được đọc một tỷ dụ ở nước khác,
đó là ở Liên Xô, mà dưới cái nhìn của một nhà phê bình nghệ thuật
Pháp mà chúng ta đều biết là ông Anđrê Risa (trong cuốn "Phê bình
mỹ thuật") thì sự sản xuất tác phẩm tràn ngập và vô bổ từ năm 1921 tới
khi Xtalin mất, là một tỷ dụ xấu, và, theo tài liệu của ông thì chính phủ
Liên Xô, đã khước từ lối chính trị hóa văn nghệ từ bấy, sau 1953. Nhờ
đó, một số họa sĩ ở các miền xa, như Acmêni và Xibêri đã thoát khỏi
lối hàn lâm mà trở thành nhân vật. (Sách của ông Risa in năm 1964, ở
Pari).

Ở nước ta, như tôi hiểu, trong vài chục năm qua, nền phê bình chính
thống cũng có phần vô hiệu, nếu không nói rằng trở ngại cho sáng tạo,
bởi đặt vấn đề không đúng, mà điều tôi muốn nhặt ra để nói hôm nay là
đã đặt nguyên lý trên thưởng thức.

Đọc nhau, xem nhau, nghe nhau bằng nguyên lý là sự đọc, sự xem, sự
nghe máy móc và vô duyên nhất, vì đánh mất con người nhiều nhất.

Nguyên lý còn che đậy những bất lực về rung cảm nghệ thuật, ngọn
lửa, và cái cân của một tác phẩm. Đã có lúc tôi nghĩ rằng, về phê bình
văn chương, Hoài Thanh sau này khó viết được trang nào ý vị hơn
trong Thi nhân Việt Nam, 1943, và về hội họa, Nguyễn Đỗ Cung
không viết quá được bài Sống và vẽ đăng trong Xuân thu nhã tập,
1940, mặc dù cả hai ông sau này đều tỉnh táo và thông thái hơn nhiều.

Nhiều nhà phê bình của thế hệ mới, vài chục năm qua viết nhiều, in
nhiều, thành đạt nhiều, và có người lên đến bậc giáo sư. Nhưng sự trơn
tru (như tượng bằng thạch cao), cái gì cũng đủ cả, có phải, có trái, có
dưới, có trên, có sau, có trước, đầy những "nhưng mà", "tuy nhiên",
"đồng thời", "vả lại" Sự nói cái gì cũng đúng cả, trong thực tế có
nghĩa là không nói gì cả, không suy nghĩ gì cả và không có ích gì cả.
Nhiều chữ đấy, nhưng ít nghĩa, thậm chí là vô nghĩa.


3. Tôi tán thành rằng để làm việc (dạy học hay tranh luận chẳng hạn)
chúng ta cũng cần nguyên lý. Nhưng tôi lại muốn rằng những nguyên
lý đó phải thay đổi, tuỳ theo nhịp sống của nghệ thuật. ít có những
nguyên lý đúng mãi cho một đoạn đường dài. Nhiều ngành khoa học
bây giờ, mà trước nhất là kinh tế học, đã nêu cái thực trạng rằng những
mặt ổn định trong đời sống nhân loại ngày nay là ít hơn những mặt
không ổn định, những mặt đối xứng, những mặt hài hoà là ít hơn những
mặt không hài hòa, những mặt hợp lý ít hơn là những mặt không hợp
lý, những mặt chính xác là ít hơn những mặt chưa kiểm tra tính toán
được. Riêng sinh lý học thì cho biết là đời sống vô thức là lớn hơn đời
sống ý thức rất nhiều, và nghe nói toán học đã lập được "trường phái
toán mơ hồ", cả ngành lôgich cũng đang nghĩ tới một "trường phái
lôgich mơ hồ" vân vân và vân vân.

Nếu những dữ kiện trên đây là trúng, thì ở nghệ thuật, ta phải thấy điều
này là trật, những nguyên lý lâu nay ta vẫn quen dùng thường hướng về
sự ổn định, đối xứng, hài hoà, chính xác, minh bạch là ít hiệu nghiệm
cho đời sống thực. Liệu chúng có phải là thứ phồn vinh giả tạo của đầu
óc không. Liệu đã cần lật trái cái mặt ta từng bỏ quên: nguyên lý của sự
không ổn định, không đối xứng, không hài hoà, nguyên lý của cái mơ
hồ chưa? Có lẽ như vậy nguyên lý mới đi gần với thưởng thức, những

giác quan sinh động nhất trước thực tại, mà nhiều khi còn chính xác
hơn.


4. Tôi xin nói rằng tôi hiểu chữ thưởng thức theo định nghĩa của cụ
Đào Duy Anh - người mà chúng ta vừa chia vĩnh viễn - trong Hán Việt
từ điển, là "Có yêu mến mới thiệt là biết". Định nghĩa này cụ viết năm
1932. Nhân tiện, tôi cũng xin giới thiệu mấy định nghĩa khác, mà tôi có
sẵn trong tay như của Nguyễn Văn Khôn trong Tự điển Hán Việt của
ông, là: "Thưởng ngắm mà biết cái hay cái đẹp"; hay của Thanh Nghị
trong Việt Nam tân tự điển, là: "Xem mà biết cái hay, đẹp"; hay của
nhóm Lê Khả Kế trong Tự điển Học sinh là: "Hưởng, nhận lấy cái hay,
cái đẹp, cái ngon (bằng tâm hồn và giác quan)"; hay của nhóm Văn Tân
trong Tự điển tiếng Việt, là "Xem để hưởng cái hay, cái đẹp", v. v

Những định nghĩa này đều viết sau cụ Đào Duy Anh ba, bốn chục năm,
và theo tôi là không hoàn hảo và sâu sắc bằng.

Nghệ thuật đi tìm cái đẹp, và cái đẹp là một giá trị tinh thần, để thưởng
thức chứ không phải để sử dụng (trừ mỹ thuật công nghiệp, kiến
trúc ). Điều đó cần được làm rõ ở cả hai bên, người sáng tác và người
phê bình. Cái đẹp không bao giờ đến với chúng ta bằng con đường suy
lý dông dài, giải thích chi ly vì những lợi ích khác.

Quan hệ nghệ thuật là quan hệ "người" nhất, sâu kín, phức tạp, trừu
tượng, nhưng đặc biệt là trực tiếp nhất.

Tôi hiểu sự cảm thụ một bức tranh là đi ngay vào chính nó, và điều
quan trọng nhất, có thể nói là từ bên trong. Về "Sự tiếp xúc với tác
phẩm" tôi đã có trình bày một lần ở cuộc hội thảo khác cách đây mấy

năm, sau có đăng trên tạp chí Sông Hương số 19 - 1986. Hiểu một hình
tượng nghệ thuật là biết được những bí mật, niềm vui và nỗi đau của
nó, nghĩa là đời sống của nó rung động trong chính nó.

Đối với tôi, tôi chỉ thực hiện được điều đó khi thực sự thưởng thức nó,
theo cảm thức và tâm trạng của mình, ngoài, và bỏ quên tất cả mọi
nguyên lý. Thưởng thức giống như thực sự nếm, thực sự ăn và tiêu hóa
vào bụng một món ăn. Còn nguyên lý, tôi sợ nó giống như đứng ngoài
bàn ăn, nhìn vào cái đĩa mà phân tích, giảng giải bằng những điều đọc
và hiểu món ăn đó qua sách dạy nấu nướng. Riêng khả năng của tôi là
chỉ hiểu được cái mà tôi thực sự thưởng thức, ngay trong thực nghiệm
của đời sống bản thân.

Dĩ nhiên sự thưởng thức của một cá nhân là nằm trong nhận thức và
điều kiện xã hội nhất định. Đó lại là một mệnh đề khác, rộng hơn, mà
tôi không có ý đề cập tới hôm nay. Tôi chỉ xin nhắc lại cái định nghĩa
thưởng thức mà tôi theo, là: "Có yêu mến mới thực là biết".

Xin cho tôi được ngờ vực ngôn luận của các nhà phê bình không yêu
mến gì tác phẩm và tác giả mà chỉ sử dụng các nguyên lý đến thành tật,
còn trước đời sống của chữ nghĩa, của màu sắc, hình khối hay âm thanh
thì ghẻ lạnh và vô cảm.


5. Khái niệm Einfuhlung mà mỹ học thế giới vẫn để nguyên tiếng Đức
(bản thân tôi trong nhiều trường hợp đã dịch là "đồng cảm thẩm mỹ")
thì gần đây tôi thấy một tác giả Pháp gọi là Co-naissance (cùng đẻ ra),
và tôi cho là đúng hơn để chỉ sự hợp tác qua lại giữa người sáng tạo và
người thưởng thức trong quá trình cảm thụ và hoàn thiện một hình
tượng nghệ thuật.


Theo khái niệm này, thì chính sự thưởng thức mới có khả năng nâng
cao và khắc sâu hiệu quả thẩm mỹ của tác giả lên thêm một nửa. Hay
nói ngược lại, sự không thưởng thức (hay không thưởng thức được) tác
phẩm sẽ giết nó một nửa, mà có khi làm tắt hết mọi lối giao thông tinh
thần.

Hiểu một bức tranh, đối với tôi, thường xảy ra trong tình trạng tâm
thần, là cùng với kiến thức của tôi về bức tranh đó, tôi biết được cả
những điều ẩn giấu trong cuộc đời, trong đất trời, đẹp đẽ và xấu xí, ân
huệ và tội lỗi, bao hàm cả những điều ấn giấu trong chính bản thân tôi
mà từ trước tới nay tôi vẫn lẩn tránh nó, vì tôi đã trót chia mình làm
thành hai nửa: người rượt đuổi nó, và người bị nó rượt đuổi.

Trạng thái tâm thần đó là khi tôi mê mải trong thưởng thức, chứ không
phải là tỉnh táo hay cảm giác bằng nguyên lý (mỹ học hay xã hội học,
đạo đức hay chính trị ).

Tôi cho rằng có cái yêu cầu - không phải là tất cả - đối với người xem
tranh, nghe nhạc, hay đọc thơ văn, và muốn có thành tựu nào đó về mỹ
cảm trước một tác phẩm thì phải "đánh mất mình đi", hoàn toàn quên
rằng mình là nhà phê bình hay nông dân, viện trưởng hay là lính, nhà
báo hay công an, đảng viên hay ngoài đảng, trung ương hay làng xã.
Đó là vì bản chất người và bản chất vô tư của cái đẹp.


6. Tôi không nói rằng chúng ta dừng ở thưởng thức: mà nói chỉ có bằng
con đường thưởng thức thì người xem và nhà phê bình mới thực sự
hiểu được tác phẩm.


Hiểu được tác phẩm, ta mới có quyền phán xét, định đoạt và truyền thụ
ý nghĩa và giá trị của nó cho người khác.

Sau cùng là: phán xét, định đoạt và truyền thụ ý nghĩa và giá trị nghệ
thuật của một tác phẩm cho người khác cũng là cốt để cho người đó
thưởng thức, và cũng chỉ có thể gọi là có kết quả khi người đó thưởng
thức được, một cách tự nguyện mà thôi.

Đây là ý nghĩ và cách phê bình nghệ thuật mà tôi chọn. Tôi không sung
sướng gì khi mọi người phản đối mình. Nhưng tôi cũng không mong gì
mọi người làm như mình. Sự khác nhau trong quan niệm và cách thức
làm việc có thể là bất lợi cho từng cá nhân, nhưng chắc chắn là có lợi
cho việc chung, khi ta muốn tìm (và quan trọng hơn là thực nghiệm)
một giải pháp tối ưu nào đó cho nghệ thuật.


Thái Bá Vân
Tiếp xúc với nghệ thuật


×