Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bài 2: Ghi chú về người vẽ tranh pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.2 KB, 4 trang )

Bài 2: Ghi chú về người vẽ tranh

Nguyên Hưng
Họa sĩ, không ít người luôn “kêu gào tự do”, nhưng chính họ, nhiều
khi lại rất “độc đoán” khi bình phẩm về đồng nghiệp - làm như chỉ có
họ mới là kẻ cầm nắm “chân lý”…
Thực ra, người họa sĩ, khi sáng tác, cũng chịu sự chi phối của các yếu
tố mai phục, ẩn kín như ở người xem tranh. Trước khi là con người-
sáng tạo, họa sĩ là con người-văn hóa. Và, chính cái tính cách và tầm
vóc con người-văn hóa này sẽ là những tác nhân thúc đẩy hay kiềm chế
con người-sáng tạo nơi mỗi họa sĩ. Nó qui định hay quyết định cách
nhìn, cách nghĩ của họa sĩ về nghệ thuật. Kéo theo là qui định hay
quyết định phương pháp sáng tác của họa sĩ. Và đương nhiên, cuối
cùng, là quan niệm, là tiêu chuẩn về hiệu quả trên mặt tranh.
- Những họa sĩ tin rằng hội họa là để tôn vinh vẻ đẹp của tự nhiên, là để
thanh lọc tâm hồn hay làm thăng hoa các cảm xúc con người… dễ có
khuynh hướng đi vào quĩ đạo của các chuẩn mực nghệ thuật đã trở
thành Cổ điển. Các chuẩn mực đề cao sự hài hòa (hiểu theo nghĩa cân
bằng thị giác…), đề cao sự cao cả, sự trong sáng của hình tượng, của tư
tưởng và tình cảm v.v…
- Những họa sĩ tin rằng hội họa là để phản ánh hiện thực, hay để biểu lộ
tâm tư, phơi bày bản ngã… dễ có khuynh hướng bấu víu vào các nội
dung chỉ định của hình, vào tầm quan trọng của đề tài, và tính tư tưởng
của chủ đề… Hiệu quả trên mặt tranh, được khoanh lại trong các tiêu
chuẩn về tính điển hình của hình tượng, về tính chắt lọc và khái quát
của ngôn ngữ thể hiện… - tất cả, là nhằm tạo nghĩa, nhằm làm “vang
nghĩa” cho tranh. Ở đây, cái biểu đạt (hình thức nghệ thuật) gắn liền
với cái được biểu đạt (hiện thực). Và, mức độ bộc lộ sáng tỏ ý nghĩa cái
được biểu đạt trở thành tiêu chuẩn xác định giá trị cái biểu đạt (hiệu
quả trên mặt tranh). Và dĩ nhiên, cũng là tiêu chuẩn xác định tài năng
của họa sĩ…


- Những họa sĩ tin theo các quan điểm nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa,
cho rằng các tiêu chuẩn mỹ học cổ điển chỉ là giả tạo (đối tượng của
nghệ thuật không chỉ là những vẻ đẹp lý tưởng); cho rằng phương pháp
sáng tác Hiện thực hay Lãng mạn chủ nghĩa lấy việc phản ánh chân
thực hiện thực cuộc sống, hay lấy việc biểu lộ chân thành cá tính hay
tâm tư nghệ sĩ làm mục đích tối thượng chỉ là ảo tưởng hay ngộ nhận
do sự trì trệ của tư duy trong tâm thế lạc hậu (Nếu lấy phản ánh chân
thực hiện thực cuộc sống làm mục đích tối thượng, hội họa không thể
nhanh nhạy và hiệu quả như nhiếp ảnh, điện ảnh hay truyền hình; nếu
lấy biểu lộ chân thành cá tính hay tâm tư nghệ sĩ làm mục đích tối
thượng, thì trước tính chất DỊ BẢN trong cách nhìn và thấy nơi mỗi
người xem, cũng trở thành vô nghĩa…) thì, như một lẽ đương nhiên,
những họa sĩ đó dễ có khuynh hướng tự đưa mình vào cuộc phiêu lưu
bất tận của những tìm tòi sáng tạo CÁI MỚI.
Xin lưu ý các chữ “dễ có khuynh hướng” trong các nhận định trên.
Không ai có thể loại trừ trường hợp có những nghệ sĩ nghĩ và tin như
thế này nhưng lại sáng tác theo một cách khác. Công việc sáng tạo vốn
vô cùng phức tạp, bị/được thúc đẩy bởi nhiều động lực khác nhau,
trong bản thân người nghệ sĩ cũng như bên ngoài xã hội, từ ý thức cũng
như từ tiềm thức, từ những tài sản văn hoá tích luỹ lâu dài cũng như từ
những ngẫu hứng bộc phát tình cờ, vượt ra ngoài mọi sự chờ đợi hay
tiên đoán. Tuy nhiên, nhìn chung, các nhà lý thuyết nghệ thuật cũng
như văn hoá đều tin tưởng vào mối quan hệ gần gũi giữa quan điểm
thẩm mỹ và phong cách sáng tác.
Nếu lịch sử nghệ thuật cho thấy có nhiều quan điểm thẩm mỹ và nhiều
phong cách khác nhau thì một kết luận không thể tránh được là: không
có một tiêu chuẩn chung cho cái gọi là hiệu quả trên mặt tranh nói
chung. Cũng như, không có tiêu chuẩn chung cho “cái đẹp”, không có
qui phạm chung cho cái gọi là nghệ thuật. Thử xem, nếu xem những
thiếu nữ no tròn mũm mĩm trong ánh nắng với bảng màu lung linh của

Renoir là “đẹp”, thì những bà già tóp teo, dúm dó trong xó nhà âm u
của Van Gogh là gì? Nếu xem những vệ nữ duyên dáng, thanh tao của
Botticelli là “đẹp”, thì những hình mẫu đàn bà “cao su hóa” nhễu nhão
của Dali, hay những mẫu “nude” như bê tông, như gạch vụn của
Picasso là gì? Nếu xem những bức tranh phản ánh chân thực hiện
thực cuộc sống như của Coubert, những bức tranh phơi bày mãnh liệt
các xung động nội tâm như của Van Gogh là nghệ thuật…, thì những
bức tranh không rõ hình thù, không rõ tâm tình như của Mondrian, của
Kandinsky v.v…, thì gọi là gì? v.v… và v.v…
Tính chất đa dạng của những cái gọi là “đẹp” ấy cho thấy lịch sử nghệ
thuật là một sự vận động liên tục. Niềm tin vào tính chất phổ quát và
vĩnh cửu của môt phong cách hay một kỹ thuật sáng tác nào đó chỉ là
một ảo tưởng. Một nghệ sĩ lớn chỉ lớn khi góp phần thúc đẩy quá trình
vận động của các quan niệm về nghệ thuật cũng như về cái đẹp. Nói
cách khác, chính bản thân họ phải thay đổi cách nhìn cùng lúc với việc
thay đổi cách vẽ.


(*) 2 bài này đã đăng trên Thể thao & Văn hóa (2 số ra ngày 10 & 11
tháng 9-2007)

×