Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
LỜI NÓI ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Macr-Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam,
đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng Cộng Sản Việt Nam và
của dân tộc Việt Nam. TT HCM trung thành với những nguyên lý phổ biến
của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời khi nghiên cứu, vận dụng những
nguyên lý đó, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn loại bỏ những gì không thích hợp
với điều kiện cụ thể của nước ta, dám đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn
đặt ra và giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả. TT HCM soi
đường cho Đảng ta và nhân dân ta trên con đường thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Lịch sử đã chỉ rõ những cuộc chiến tranh yêu nước thắng lợi đều là
những cuộc chiến tranh nhân dân, phát huy được sức mạnh tinh thần và vật
chất tiềm tàng của toàn dân. Kháng chiến chống Tống, chống Mông - Nguyên
thời Lý - Trần là những minh chứng hùng hồn. Từ những hoàn cảnh, đặc
điểm và thực tế của lịch sử dân tộc, một số nhân vật tiến bộ trong giai cấp
phong kiến như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo... đã nhận thức khá sâu sắc
vai trò quyết định của nhân dân trong chiến tranh chống ngoại xâm cũng như
trong các biến cố lớn của lịch sử. Trần Hưng Đạo cho rằng "vua tôi đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước chung sức" là nguyên nhân thắng lợi của
kháng chiến thời Trần. Theo ông, "chúng chí thành thành", chí dân là bức
thành giữ nước. Chính vì nhận thức về vai trò đoàn kết toàn dân là rất quan
trọng, Trần Quốc Tuấn đã đề ra "thượng sách giữ nước" là "khoan thư sức dân
làm kế rễ bén gốc". Đó là điều kiện tiên quyết để chiến thắng kẻ thù. Ông đã
1
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
thấy vai trò quyết định của quần chúng nhân dân đối với vĩ nhân trong lịch sử.
Trần Quốc Tuấn nói: "Chim hồng học bay được cao là nhờ ở sáu cái lông
cánh, nếu không có sáu cái lông cánh ấy thì cũng như chim thường thôi". Như
vậy, anh hùng xuất chúng làm nên nghiệp lớn là nhờ sự ủng hộ của quần
chúng nhân dân tộc.
Trên vũ đài chính trị và tư tưởng thời Lý - Trần, nhân dân đã được nhìn
nhận như một lực lượng xã hội cần phải quan tâm đến khi tiến hành những
cuộc chiến tranh giữ nước và duy trì trật tự xã hội nhằm đem lại sự thịnh
vượng cho nước nhà. Và giá trị tích cực của quan điểm thân dân, "khoan thư
sức dân" là ở chỗ đó.
I. Hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Ngyễn Sinh Cung, sau đổi là Nguyễn Tất
Thành ) chịu ảnh hưởng tư tưởng thân dân, lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi
cuộc cải cách của cụ thân sinh Nguyễn Sinh Sắc; chịu ảnh hưởng đức tính
nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với mọi người của mẹ là Bà Hoàng Thị
Loan; lòng yêu nước, thương nòi trong mối quan hệ và sự tác động của ba chị
em của Người; ảnh hưởng của truyền thống văn hóa, giàu lao động, chống
ngoại xâm của quê hương Nghệ Tĩnh; tấm gương của các lãnh tụ yêu nước,
của các anh hùng, liệt sĩ của quê hương.. Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Tất
Thành đã chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột đến cùng cực
của đồng bào mình cùng với thái độ ươn hèn của bọn phong kiến Nam triều
thêm đó là sự thất bại của các nhà yêu nước tiền bối và đương thời. Tất cả
điều đó đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm một con đường mới để cứu
nước, cứu dân. Cùng với việc phê phán hành động cầu viện Nhật và ý tưởng
“ỷ Pháp cầu tiến”, Nguyễn Tất Thành đã tự định ra cho mình một hướng đi
mới là phải đi ra nước Pháp và các nước khác.
2
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
II. Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
1. Vì sao phải thân dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có
vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc
với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân
liệu cũng xong”. Dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương
để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước.
Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là
chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất.
Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là
người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của
Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được
nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối
của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng
cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng
vậy.
2. Thân dân thì phải làm thế nào?
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải
tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất
khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn
biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức
mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên
“phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì
nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học
hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt
phải có nhiệt thành, có quyết tâm”.
3
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
Phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân là
cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ
phải thế nào? Câu trả lời của Người là: “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình,
phê bình nhưng không phải là chửi”. Và người yêu cầu: người làm chủ trước
hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà
nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế đúng kỳ, bảo
vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo việc nước như việc
nhà”, “phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm
chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm
bao nhiêu thì làm”.
Thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải thường xuyên chăm
lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người thường nhắc
tới những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”, “dân dĩ thực vi
thiên”. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân không thể lý
luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời
sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét là Đảng
và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân ốm là
Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Thân dân thì phải hiểu dân, nghe được dân nói, nói được cho dân nghe,
làm được cho dân tin, là nhận biết được những nhu cầu của họ, biết được họ
đang suy nghĩ gì, trăn trở cái gì? Họ mong muốn những gì? Và họ đang mong
đợi gì ở người khác, nhất là ở người lãnh đạo, quản lý; phải biết phát hiện và
đáp ứng kịp thời những nhu cầu và lợi ích thiết thực của dân; là nhìn thấy cả
cái thực tại và vạch ra được viễn cảnh (tương lai) đúng đắn cho dân phát triển;
là biết chia sẻ, đồng cảm và gần gũi với cuộc sống của dân, mọi suy nghĩ và
hành động đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của dân, phản ánh đúng tâm tư,
tình cảm, nguyện vọng của dân. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý:
“Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng
hái, hạng vừa vừa và hạng kém… Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái
4
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa
vừa và kéo hạng kém lên. Phải học hỏi dân chúng, nhưng “không phải dân
chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”; phải “tìm ra mâu thuẫn trong những
ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai” để vận dụng
Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi ích đều vì
dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của
dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể từ
Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước
của dân, do dân, vì dân.Tháng 10-1945, trong thư gửi Ủy ban nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “...Nếu nước độc lập
mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý
gì... Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến
các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ
không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp,
Nhật. Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết
sức tránh. Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”1.
Người yêu cầu cán bộ từ Chủ tịch nước trở xuống đều phải là đày tớ trung
thành của nhân dân. Theo Người: “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thứ
trưởng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân,
chứ không phải là làm quan cách mạng”
Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề
thực hiện dân chủ với dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân
chủ” và “hưởng quyền dân chủ”. Ngày 6/1/1946, chỉ bốn tháng sau khi khai
sinh nền Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ lâm thời do Người đứng đầu đã tổ
chức cuộc tổng tuyển cử phổ thông, trực tiếp, bình đẳng lần đầu tiên trong
lịch sử Việt Nam. Tháng 11/1946, Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 2 đã thông
5
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
qua bản Hiến pháp do Người chỉ đạo soạn thảo. Nhà nước dân chủ, pháp
quyền từ ý tưởng của Người đã dần dần trở thành hiện thực trên đất nước Việt
Nam. Quan điểm của Người trong những sự kiện lịch sử này rất mẫu mực, rõ
ràng: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”, “Hễ là những người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử”. Nhà nước của dân còn bao hàm việc dân có quyền bãi miễn
Chính phủ và nhân viên chính quyền Nhà nước các cấp, nếu họ có tư tưởng
hoặc việc làm có hại đến nhà nước, hại đến dân.
Nhà nước Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập là Nhà nước kiểu
mới: Nhà nước của dân. Sức mạnh và sự trường tồn của nhà nước bắt nguồn
từ lực lượng toàn dân đoàn kết, với tinh thần làm chủ - tự chủ. Bởi thế nhà
nước ta còn là nhà nước do dân. Bác viết: “Trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Không có lực lượng nhân dân thì
việc nhỏ mấy, dễ mấy làm cũng không xong”; “Vậy nên Chính phủ với nhân
dân phải đoàn kết thành một khối”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của dân, do dân phải được thể
hiện ở các chủ trương, chính sách của nhà nước trong mọi mặt đời sống xã
hội là vì dân. Ngay sau khi nước nhà dành được độc lập, Người nói rõ: “…
nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có
nghĩa lý gì”.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhân dân đã và sẽ mãi
mãi là người làm nên lịch sử. Thực hiện tốt Di huấn của Bác về lấy dân làm
gốc, chắc chắn bộ máy Nhà nước ta sẽ “chạy” đều, hiệu quả quản lý điều
hành chắc chắn có hiệu lực cao. Đó là việc làm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn.
Là người phục vụ nhân dân, cán bộ Đảng, Nhà nước, đoàn thể đồng thời
là người lãnh đạo, người hướng dẫn của nhân dân. Theo Người: Nếu không
có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng, nếu không có Chính phủ, thì
nhân dân không ai dẫn đường. Cán bộ, đảng viên phải làm thế nào để xứng
6
Tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân. Điều này cho thấy, Hồ Chí Minh không bao giờ đối lập vai trò người
lãnh đạo với người đày tớ của nhân dân trong bản thân người cán bộ của
Đảng và Nhà nước, mà trái lại Người yêu cầu phải làm thế nào để xứng đáng
vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Là
lãnh đạo không có nghĩa là đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Bởi vì: “Chế độ ta là chế
độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất
cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp
nào và ngành nào đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”
Từ thực tế, Bác đã thẳng thắn phê phán nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp
cao, khi xuống cấp dưới triển khai công việc thì khệnh khạng như “ông quan”
và nội dung truyền đạt thì rất đại khái, hình thức, vì vậy mà quần chúng
không hiểu và rất sợ đi họp. Đó là bệnh xa quần chúng, bệnh hình thức, không
phải vì lợi ích của quần chúng.
Việc đặt ra chương trình làm việc, kế hoạch hành động, tuyên truyền,
nhiều cán bộ cũng không hỏi xem quần chúng cần cái gì, muốn nghe, muốn
biết cái gì, “chỉ mấy ông cán bộ đóng cửa lại mà làm, ngồi ỳ trong phòng giấy
mà viết, cứ tưởng những cái mình làm ra là đúng, mình viết là hay. Nào có
biết, cách làm chủ quan đó, kết quả là “đem râu ông nọ chắp cằm bà kia”,
không ăn thua, không thấm thía, không lợi ích gì cả”.
báo Việt Nam độc lập, số 3 ra ngày 21-8-1941, ngay trên trang nhất, báo
đã in trang trọng câu thơ: "Có Tổ quốc mới có ta; Nước là rất trọng ta là rất
khinh" (Khinh là xem nhẹ - TVH, Người kịch liệt phê phán những cán bộ
miệng thì nói dân chủ, nhưng khi thực hiện công việc thì lại theo lối quân chủ
và xa rời nhân dân. Người viết: Bệnh quan liêu mệnh lệnh từ đâu mà ra?
Nguyên nhân bệnh ấy là:
Xa nhân dân: do đó mà không hiểu tâm lý của nhân dân, nguyện vọng của
nhân dân.
7