1
Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài:
Hiện tại, mối quan hệ giữa hai nƣớc Việt Nam và Nhật Bản đang trên đà phát triển
tốt đẹp. Các công ty Nhật Bản có mặt ngày càng nhiều trên khắp cả nƣớc. Do đó nhu cầu
học tiếng Nhật của ngƣời Việt Nam không ngừng gia tăng, đặc biệt là trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai. Để ngƣời học có thể sử dụng tiếng Nhật nhƣ là một cơng cụ giao tiếp, địi hỏi
cả ngƣời dạy lẫn ngƣời học luôn chú trọng vào 5 kỹ năng thực hành giao tiếp cơ bản:
Nghe, nói, đọc, viết và ngữ pháp. Luôn đặt các kỹ năng này trong mối quan hệ mật thiết
với nhau, hỗ trợ nhau, không nên xem trọng hay xem nhẹ một kỹ năng nào. Và ở mỗi kỹ
năng đều có những đặc điểm riêng để ngƣời dạy lẫn ngƣời học khám phá tìm tòi và học
hỏi. Trong số 5 kỹ năng nêu trên, kỹ năng nghe đƣợc cho rằng khó dạy và khó học nhất.
Thực tế giảng dạy tiếng Nhật tại trƣờng Lạc Hồng cho thấy, sinh viên không chú
trọng rèn luyện kỹ năng nghe, mà chú trọng vào kỹ năng viết, đặc biệt là chú trọng vào
việc học ngữ pháp. Rất nhiều sinh viên cho rằng họ không thể nào nghe đƣợc, mặc dù họ
viết rất tốt. Chính vì lẽ đó mà sinh viên có tâm lý rất sợ mơn nghe, ln né tránh, khơng
thích học mơn này, do đó chất lƣợng học mơn nghe của sinh viên khơng tốt, điều đó ảnh
hƣởng đến chất lƣợng học mơn nói, làm cho sinh viên thiếu tự tin trong giao tiếp. Thậm
chí có cả những ngƣời sau khi ra trƣờng cũng khơng có khả năng nghe tốt dẫn đến khơng
thể giao tiếp đƣợc. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu tìm ra những giải pháp giúp ngƣời học
có hứng thú trong giờ học mơn nghe cũng nhƣ giúp họ có phản xạ nghe hiểu tốt hơn đã
thôi thúc tác giả đến với đề tài “CHẤT LƢỢNG DẠY VÀ HỌC MÔN NGHE-TIẾNG
NHẬT TẠI KHOA ĐÔNG PHƢƠNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC LẠC HỒNG, THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
2. Lịch sử nghiên cứu
Hiện tại có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về phƣơng pháp giảng dạy kỹ năng
nghe hiểu, tuy nhiên hầu hết các cơng trình ấy đều lấy đối tƣợng là tiếng Anh và tiếng
Pháp, rất hiếm thấy tiếng Nhật. Dẫu biết rằng kỹ năng nghe tiếng Anh hay Pháp cũng đều
là nghe ngoại ngữ, tuy nhiên mỗi ngơn ngữ đều có một đặc trƣng riêng, do đó cũng cần
phải nghiên cứu một cách chi tiết đối với một ngoại ngữ cụ thể.
Trong số rất ít các cơng trình nghiên cứu về kỹ năng nghe tiếng Nhật, có thể kể
đến cơng trình nghiên cứu về phƣơng pháp dạy nghe của Quỹ giao lƣu quốc tế Nhật Bản.
Tuy nhiên theo đánh giá của chúng tôi, những ngƣời đang trực tiếp giảng dạy, thì những
2
phƣơng pháp ấy còn rất nhiều hạn chế, còn nặng về mặt lý thuyết, nên có thể nói những
phƣơng pháp ấy thích hợp cho việc dạy nghe ở chính đất nƣớc Nhật hơn là áp dụng tại
nƣớc ngồi.
Ngồi ra cịn có một số bài viết liên quan đến việc giảng dạy môn nghe của một số
giảng viên, giáo viên đang giảng dạy tại Việt Nam nhƣ bài viết: Những khó khăn khi học
tiếng Nhật – Điều tra thăm dò nguyên nhân không nghe đƣợc và ý thức của sinh viên đã
tốt nghiệp đối với việc dạy nghe, của tác giả Đỗ Hoàng Ngân và Fukami Kanetaka, đăng
trên yếu hội thảo khoa học quốc tế nghiên cứu và dạy học tiếng Nhật, 2007. Tác giả đã
tiến hành khảo sát những sinh viên đã tốt nghiệp, dựa vào kết quả khỏa sát ấy tác giả đƣa
ra đƣợc những khó khăn mà sinh viên đã gặp phải trong quá trình học tập 4 năm tại
trƣờng. Bài viết đặt trọng tâm vào nguyên nhân sinh viên không nghe đƣợc và ý thức của
sinh viên đối với việc học mơn nghe, để từ đó tác giả có thể nêu lên một số phƣơng pháp
nhằm khắc phục những khó khăn đó. Tuy nhiên bài viết quá ngắn, không cho ngƣời đọc
biết đƣợc nội dung của bảng khảo sát, mà chỉ nói kết quả khảo sát câu số 1,2…làm cho
ngƣời đọc khó theo dõi, dẫn đến khó hiểu.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả tiến hành điều tra xã hội học, xử lý và phân tích kết quả điều tra, từ đó đƣa ra
giải pháp.
4. Kết quả đạt đƣợc
Đề tài xuất phát từ thực tế giảng dạy cũng nhƣ dựa trên kết quả thăm dò ý kiến
trực tiếp của sinh viên để tìm hiểu thực trạng của việc dạy và học mơn nghe, từ đó đề
ra những giải pháp cụ thể, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy bộ môn này.
5. Bố cục
Để giải quyết vấn đề đặt ra, ngồi phần mở đầu và kết luận, chúng tơi phân đề tài
làm 3 chƣơng chính:
Chương 1: Tổng quan về môn nghe và kỹ năng nghe trong tiếng Nhật
Chương 2: Thực trạng dạy và học môn nghe của ngành Nhật Bản học, khoa
Đông Phƣơng, trƣờng đại học Lạc Hồng
Chương 3: Một số đề xuất về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy
môn nghe tại trƣờng Đại học Lạc Hồng
3
Chương 1:
Tổng quan về môn nghe và kỹ năng nghe trong tiếng Nhật
1.1 Môn nghe
Bất kỳ ngôn ngữ nào cũng có mối quan hệ giữa các kỹ năng: Nghe, nói, đọc, viết, ngữ
pháp. Các kỹ năng này ln liên hồn với nhau, tuy nhiên trong đó kỹ năng nghe và nói
đƣợc xem là cơng cụ giao tiếp trực tiếp nhất. Nghe và nói ln xuất hiện cùng nhau,
khơng thể nói giỏi khi không nghe giỏi và ngƣợc lại. Tuy nhiên trong q trình học, mơn
nói có vẻ nhƣ đƣợc chú trọng hơn, sinh viên đƣợc học nói trực tiếp với ngƣời bản xứ,
ngƣợc lại mơn nghe lại ít đƣợc chú trọng.
Khi tìm hiểu về mơn nghe, ngƣời nghiên cứu quan tâm đến hai khía cạnh, đó là nghe
băng và nghe trực tiếp. Do đó khi đề cập đến việc nâng cao chất lƣợng mơn nghe cũng
địi hỏi sự phân biệt giữa việc nâng cao chất lƣợng nghe thể hiện qua thành tích của mơn
nghe trong các kỳ thi (nghe qua băng đĩa) và hiệu quả của việc giao tiếp trực tiếp với
ngƣời bản xứ (nghe trực tiếp).
Hiện tại trong phạm vi trƣờng học, thông thƣờng công cụ để giảng dạy môn nghe là
băng đĩa nghe và máy casset. Đôi khi cũng dạy nghe qua băng đĩa hình, nhƣng khơng
thƣờng xun. Vì vậy chỉ đáp ứng đƣợc một khía cạnh (luyện tập nghe phục vụ cho thi
cử vì chỉ có nghe băng), nên cần phải tạo điều kiện phát huy hiệu quả khía cạnh cịn lại
(nghe trực tiếp thơng qua giao tiếp với ngƣời bản xứ).
1.2 Kỹ năng nghe trong tiếng Nhật
Tiếng Nhật thuộc loại hình ngơn ngữ chấp dính, nó khác hẵn với loại hình ngơn ngữ
đơn lập của tiếng Việt. Trong tiếng Nhật, nổi bật nhất chính hệ thống kính ngữ. Nhờ vào
hệ thống này, ngƣời Nhật thể hiện đƣợc thứ bậc, địa vị xã hội giữa những ngƣời đang
giao tiếp. Do đó trong tiếng Nhật thƣờng xuất hiện những dạng biến đổi động từ và sự kết
hợp một số từ vựng để chỉ mối quan hệ giữa ngƣời nói, ngƣời nghe và ngƣời đƣợc nói
đến trong cuộc hội thoại. Ngƣời ta cho rằng chính hệ thống kính ngữ đã làm cho tiếng
Nhật trở nên phức tạp hơn. Hơn thế nữa, trong giao tiếp cũng có sự phân biệt giới tính, có
những từ chỉ dành riêng cho nam giới sử dụng, và có những từ chỉ dành riêng cho nữ giới.
Chính vì lẽ đó đã làm cho ngƣời nghe khó nắm bắt kịp nếu nhƣ khơng trực tiếp giao tiếp
mà chỉ nghe qua băng đĩa.
4
Tiếng Nhật đƣợc viết trong sự phối hợp ba kiểu chữ: Hán tự hay Kanji và hai kiểu chữ
mềm Hiragana và đơn âm cứng Katakana, trong đó Kanji chiếm hơn 80%. Mỗi chữ Kanji
đều thể hiện một ý nghĩa khác nhau và hình dạng của chúng cũng tƣơng đối khác nhau,
thế nhƣng có rất nhiều chữ đƣợc phát âm giống nhau. Ví dụ có đến 41 chữ mang âm Ko,
48 chữ mang âm shi…Ngồi ra cũng có khá nhiều từ đồng âm nhƣ từ Gakki có nghĩa là
học kỳ và nhạc cụ… Vì vậy khi đọc sẽ dễ dàng nhận ra nghĩa, nhƣng khi nghe cần phải
chú ý ngữ cảnh, ngữ điệu.
Trọng âm của tiếng Nhật chủ yếu là trọng âm không đều. Trọng âm đƣợc xác định
theo từ. Những trƣờng hợp từ đồng âm có thể phân biệt nhờ sự khác nhau về trọng âm.
Ví dụ nhƣ trong phƣơng ngữ Tokyo, ame (雨, "mƣa") và ame (飴, "kẹo") thì đƣợc đọc
tƣơng ứng là 「a\me」 (phần đầu đọc cao hơn) và 「a/me」 (kiểu âm bằng), những
chữ đều đƣợc phiên âm là hashi o 「端を」 (góc đƣờng), 「箸を」 (đơi đũa), 「橋を」
(cây cầu) thì đọc tƣơng ứng là 「ha/shio」「ha\shio」「ha/shi\o」.ha/na\ga (花が,
hoa) dễ bị hiểu nhầm thành "lỗ mũi" 「鼻が」 (ha/naga). Mặc dù nhƣ vậy, không phải
lúc nào khác trọng âm cũng là khác nghĩa nhau. Nhƣ kyō'iku (教育, "giáo dục") hay
zaisei (財政, "tài chính") giọng Tokyo đọc là 「kyo/ーiku」 và 「za/iseー (za/isei)」,
nhƣng theo các nhà chuyên môn cũng thƣờng đƣợc đọc là 「kyo\ーiku」 và 「za\ise
ー」. Ngồi ra, sự bằng hóa trọng âm dƣờng nhƣ đang là xu hƣớng của thời đại, densha
(電車, "xe điện") và eiga (映画, "phim") từ cách đọc 「de\nsha」 và 「e\ーga (e\
iga)」 đang dần trở thành 「de/nsha」 và 「e/ーga. Do đó nếu bản thân ngƣời nghe phát
âm khơng đúng sẽ dẫn đến khơng hiểu hay có thể hiểu sai hoặc nhầm lẫn ý nghĩa của từ.
Trật tự từ tiếng Nhật cơ bản là Chủ ngữ - Bổ ngữ - Động từ. Sự liên kết Chủ ngữ, Bổ
ngữ hay các yếu tố ngữ pháp khác thƣờng đƣợc đánh dấu bằng trợ từ. Trật tự từ này khác
hẵn với tiếng Việt, tiếng Anh…nên cũng góp phần gây khó khăn cho ngƣời Việt trong
việc nghe và nhận biết. Bên cạnh đó, tiếng Nhật cũng khơng có những từ riêng biệt để
biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp, cụ thể là những từ đóng vai trị biểu hiện thì và thể nhƣ từ đã,
từ chƣa…trong tiếng Việt, mà lại sử dụng hình thức chia động từ ở cuối câu. Trong tiếng
Nhật ngƣời ta chia động từ ra rất nhiều thể để thể hiện nhiều ý nghĩa ngữ pháp. Tuy nhiên
có một số thể có cách chia rất giống nhau. Ví dụ động từ thể bị động, động từ ở dạng kính
ngữ và động từ nhóm 2 chia ở thể khả năng giống hệt nhau, do đó khi nghe thống qua
động từ đã đƣợc chia, nếu nhƣ không nhận biết rõ ngữ cảnh, hay chƣa nắm rõ cấu trúc
5
ngữ pháp sẽ làm cho ngƣời nghe trở nên không hiểu nghĩa. Hơn thế nữa trong tiếng Nhật
có những động từ nếu viết chữ thì chữ viết khác nhau và mang ý nghĩa cũng hoàn toàn
khác nhau, nhƣng chia cùng một thể thì phát âm rất giống nhau. Ví dụ từ mua và từ ni,
nếu chia ở thì hiện tại tiếp diễn thì phát âm đều là Katteiru. Chính vì lẽ đó mà địi hỏi
ngƣời nghe phải đặc biệt chú ý vào ngữ cảnh và đặc biệt chú ý biểu hiện của động từ cuối
câu để nhận biết thì và thể.
Tiếng Nhật đƣợc nói theo từng nhịp đều nhau. Ngữ điệu trong tiếng Nhật là ngữ điệu
cao thấp. Điều này tạo cho ngƣời nghe cảm giác rằng ngƣời Nhật nói quá nhanh và âm
của chữ trƣớc dính liền với chữ sau khó nhận ra nghĩa.
Ở Nhật Bản có rất nhiều phƣơng ngữ (方言 hōgen). Có sự khác nhau rất lớn giữa
miền Đông và miền Tây của Nhật Bản cũng nhƣ ở nhóm đảo Ryūkyū. Các phƣơng ngữ
thƣờng khác nhau về ngữ điệu, hình thái biến đổi, từ vựng, và cách dùng các trợ từ.
Tiếng Nhật mang đặc tính mạnh của ngơn ngữ âm tiết mở, có 111 kiểu mora (phách).
Tiếng Nhật là một ngơn ngữ lƣợc bỏ đại từ, có nghĩa là chủ ngữ hay bổ ngữ của một
câu không cần phải đƣợc nêu ra nếu nó là hiển nhiên trong ngữ cảnh đó. Ngồi ra, ngƣời
ta thƣờng cảm thấy, đặc biệt trong văn nói tiếng Nhật, câu càng ngắn càng hay, tạo ra xu
hƣớng loại bỏ các từ ra khỏi câu một cách tự nhiên chứ không dùng đại từ. Do đó làm
cho ngƣời nghe khó theo dõi, dẫn đến khó hiểu.
6
Chương 2:
Thực trạng việc dạy và học môn nghe của ngành Nhật học, khoa
Đông Phương trường đại học Lạc Hồng
Để tìm hiểu về thực trạng học mơn nghe của sinh viên, chúng tôi đã tiến hành điều tra
thông qua bảng hỏi.
2.1 Về đối tượng khảo sát và phiếu khảo sát
2.1.1 Đối tượng khảo sát
Đối tƣợng khảo sát là sinh viên ngành Nhật trƣờng Đại học Lạc Hồng. Phiếu khảo sát
đƣợc phát ra và phân bổ đều cho các đối tƣợng từ sinh viên năm 1, những ngƣời mới bắt
đầu làm quen với tiếng Nhật cho đến sinh viên năm 4, những sinh viên sắp tốt nghiệp ra
trƣờng. Đồng thời chúng tôi cũng tiến hành khảo sát cả nam và nữ, cả sinh viên có học
lực từ yếu kém đến khá giỏi để có thể bao quát đƣợc phản ứng của sinh viên các khóa đối
với mơn nghe, cũng nhƣ đánh giá thái độ của từng loại sinh viên đối với môn nghe nhƣ
thế nào.
Trong năm học 2011- 2012, tổng số sinh viên đang theo học ngành Nhật Bản học là
336 sinh viên, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 265 sinh viên (chiếm 78.9% trên tổng
số sinh viên), trong đó:
Sinh viên năm
1
2
3
4
Số sinh viên khảo sát/
39/46
55/69
86/118
85/103
84.8%
79.7%
72.9%
82.5%
Tổng số sinh viên
Tỉ lệ
+ Năm 1: tổng số sinh viên đang theo học là 46, tổng số phiếu phát ra là 39, chiếm tỉ
lệ 84.8%.
+ Năm 2: tổng số sinh viên đang theo học là 69, tổng số phiếu phát ra là 55 phiếu,
chiếm tỉ lệ 79.7%.
+Năm 3: tổng số sinh viên theo học là 118, tổng số phiếu phát ra là 86 phiếu, chiếm tỉ
lệ 72.9%.
+ Năm 4: tổng số sinh viên đang theo học là 103 sinh viên, số sinh viên đƣợc chọn để
phát phiếu là 85 sinh viên, chiếm tỉ lệ 82.5%.
7
2.1.2 Phiếu khảo sát
Phiếu khảo sát đƣợc chia làm 2 phần:
+ Phần thơng tin cá nhân gồm: Giới tính, sinh viên năm thứ, nơi cƣ trú, điểm trung
bình học tập. Để tìm hiểu và phân tích ngun nhân dẫn đến kết quả học tập liên quan
đến hoàn cảnh của đối tƣợng đƣợc hỏi.
+ Phần điều tra về thực trạng học mơn nghe của sinh viên. (Bảng hỏi đính kèm)
Bao gồm hệ thống các câu hỏi chi tiết liên quan đến chuyên môn của kỹ năng nghe
nhằm khảo sát cụ thể về kỹ năng nghe của từng đối tƣợng khảo sát.
Kết quả điều tra đƣợc sử lý bằng phần mềm SPSS
2.2 Thực trạng việc dạy và học môn nghe thông qua kết quả khảo sát
Trong những năm gần đây tiếng Nhật đƣợc đƣa vào giảng dạy ở khắp mọi miền đất
nƣớc, và cũng đã đƣợc đƣa vào giảng dạy ở một số trƣờng phổ thông nhƣ là một môn
ngoại ngữ bắt buộc. Tuy nhiên có đến 96,6% số sinh viên cho biết trƣớc khi vào học
tiếng Nhật tại trƣờng đại học Lạc Hồng họ đều chƣa từng biết qua tiếng Nhật. Tiếng Nhật
đối với họ hoàn toàn mới lạ, họ phải bắt đầu từ những chữ cái đơn giản.
2.2.1 Mức độ hứng thú với môn nghe
Trong tiếng Nhật, kỹ năng nghe đƣợc xem là một trong những kỹ năng khó. Đến
86,3% số sinh viên cho rằng trong 5 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, ngữ pháp, kỹ năng nghe
là kỹ năng khó nhất.
Chính vì họ cho rằng kỹ năng nghe là kỹ năng khó, nên họ khơng có hứng thú với
việc học môn nghe. Trong số các sinh viên đƣợc khảo sát, chỉ có 25,5% số sinh viên cho
rằng thích học môn nghe, 60% số sinh viên cho rằng họ không thích học mơn nghe lắm,
và 7,1% số sinh viên rất ghét học nghe.
MỨC ĐỘ HỨNG THÚ VỚI MÔN NGHE CỦA SINH VIÊN
NGÀNH NHẬT
8.0%
7.2%
24.9%
60.0%
Rất thích
Thích
Khơng thích lắm
Rất ghét
8
Sự u thích mơn nghe giữa nam và nữ cũng có sự khác nhau. Sinh viên nam trả lời
khơng thích học môn nghe lắm chiếm 63.8% và 6.9% rất ghét, 25.9% trả lời thích và
3.4% trả lời rất thích. Trong khi đó sinh viên nữ trả lời khơng thích học nghe lắm chiếm
58.9%, ít hơn nam 4.9%, và 8.2% trả lời là rất ghét, 24.6% trả lời là thích và 8.2% rất
thích.
MỨC ĐỘ HỨNG THÚ VỚI MƠN NGHE CỦA
SINH VIÊN NAM VÀ NỮ
70
60
50
40
Nam
30
Nữ
20
10
0
Rất thích
Thích
Khơng thích lắm
Ghét
Mức độ hứng thú đối với mơn nghe cũng có sự khác nhau tùy thuộc vào học lực của
sinh viên. Cụ thể nhƣ sau:
+ Sinh viên có học lực yếu phần lớn rất ghét học mơn nghe, số sinh viên khơng thích
học nghe chiếm 66.7%, cịn lại 33,3% thích học.
+ Sinh viên có học lực trung bình đa số cũng khơng thích học mơn nghe lắm, con số
này chiếm đến 67.7% và 15.6% cho là rất ghét học nghe, chỉ có 13.5% cho là thích học
và 3.1% cho là rất thích.
+Sinh viên có học lực khá cũng khơng thích mơn nghe lắm, nhƣng tỉ lệ khơng nhiều
bằng sinh viên trung bình và yếu, chỉ chiếm 59.2% và chỉ có 2.8% là rất ghét học nghe.
Ngƣợc lại, tỉ lệ thích học mơn nghe tăng lên đáng kể, chiếm 31% và rất thích chiếm 7%.
+Sinh viên có học lực giỏi phần lớn thích học mơn nghe 33.3% cho là thích và 25%
cho là rất thích, cịn lại 41.7% cho là khơng thích lắm, khơng có sinh viên giỏi nào rất
ghét học nghe.
9
MỨC ĐỘ HỨNG THÚ VỚI MÔN NGHE PHÂN THEO
HỌC LỰC CỦA SINH VIÊN
0.8
0.7
0.6
0.5
0.4
0.3
0.2
0.1
0
Học
Học
Học
Học
Rất thích
thích
khơng thích
lắm
lực
lực
lực
lực
yếu
trung bình
khá
Giỏi
Rất ghét
Tuy nhiên nếu tìm hiểu riêng từng khóa chúng ta sẽ nhìn nhận rõ đƣợc thái độ sinh
viên các khóa đối với mơn nghe cũng có sự khác nhau.
+ Sinh viên năm nhất: thích học mơn nghe chiếm 30.8% và rất thích học chiếm
15.4%; khơng thích học nghe lắm chiếm 51.3% và rất ghét chiếm 2.6%
+Sinh viên năm hai: thích học mơn nghe chiếm 34.5% và rất thích chiếm 7.3%, khơng
thích học nghe lắm chiếm 49.1% và rất ghét học nghe chiếm 9.1%
+ Sinh viên năm ba: thích học mơn nghe chiếm 11.6% và 5.8% rất thích, khơng thích
học nghe lắm chiếm 69.8% và ghết chiếm 12.8%
+ Sinh viên năm tƣ : thích học nghe chiếm 29.4% và 4.7% rất thích, khơng thích học
nghe lắm chiếm 61.2% và rất ghét học chiếm 4.7%
MỨC ĐỘ HỨNG THÚ VỚI MƠN NGHE
CỦA SINH VIÊN THEO TỪNG KHĨA
80.0%
70.0%
60.0%
50.0%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
0.0%
Sinh viên
năm 1
Sinh viên
năm 2
Sinh viên
năm 3
Sinh viên
năm 4
Rất thích
Thích
Khơng thích lắm
Rất ghét
10
2.2.2 Ngun nhân làm cho mơn nghe trở nên khó
Theo đánh giá của sinh viên, sở dĩ môn nghe trở nên khó bởi nguyên nhân chủ yếu
sau đây:
+ Do cấu trúc của tiếng Nhật khác hẵn với cấu trúc tiếng Việt (62%)
+ Ngƣời Nhật nói khá nhanh, cách phát âm từ vựng của họ làm tăng độ khó của mơn
nghe lên nhiều lần. Những biến đổi âm trong lời nói nhanh và liên tục khác hẵn so với
cách phát âm rõ ràng từng âm tiết của giáo viên ở lớp. (81%)
+ Do sinh viên không thuộc từ vựng, và do bản thân phát âm sai, nên khi nghe không
nhận ra đƣợc. Có rất nhiều từ nhìn vào có thể hiểu đƣợc nhƣng khi nghe thì khơng hiểu
nghĩa.(85%)
+ Tâm lý căng thẳng khi nghe có thể biến những từ quen thuộc trở thành từ mới
khơng nhận ra nghĩa trong q trình nghe. (78%)
+ Do bản thân sinh viên chƣa nắm vững các cấu trúc ngữ pháp dẫn đến không hiểu rõ
ý nghĩa của câu (68%)
+ Do sinh viên chƣa quen với cách nghe qua để nắm ý, mà phần lớn lại tập trung vào
nghe từng câu, câu chữ, nên khi gặp từ khơng hiểu thì khơng tập trung nghe tiếp đƣợc,
làm tuột mất thông tin tiếp theo. (73%)
+ Một số sinh viên ngay từ ban đầu nghe mà không hiểu nghĩa, hoặc thƣờng xuyên
vừa nghe vừa đọc phần lời, lâu dần trở thành thói quen ln khơng tập trung khi nghe,
nghe phải kết hợp với đọc mới hiểu.(48%)
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%
Cấu trúc Biến đổi âm Không thuộc Tâm lý căng Không nắm Không biết Có thói quen
câu khác
trong lời
từ, khơng
thẳng
cấu trúc ngữ cách nghe
vừa nghe
hẵn với tiếng nói,khác hẵn nắm cách
pháp
để nắm ý
vừa đọc
Việt
với cách phát âm của
chính
phần lời
phát âm
từ
trực tiếp của
GV trên lớp
11
2.2.3 Thành tích học tập mơn nghe
Từ số liệu phân tích về mức độ hứng thú với mơn nghe cho thấy mặc dù phần lớn
sinh viên cho là môn nghe khó và khơng thích học, thậm chí cịn có khá nhiều sinh viên
tỏ ra rất ghét học môn nghe, tuy nhiên nếu dựa vào kết quả thi cuối kỳ môn nghe (lần 1)
trong năm học vừa qua thì có thể nói thành tích học mơn nghe đạt mức tƣơng đối, chỉ có
15.5% có số điểm thi dƣới trung bình, số sinh viên đạt điểm trung bình khá cao, chiếm
đến 58.5%, sinh viên đạt điểm khá từ 7-8 điểm chiếm 24.9%, tuy nhiên số sinh viên đạt
điểm giỏi rất ít chỉ có 1.1%.
THÀNH TÍCH HỌC MƠN NGHE DỰA TRÊN
ĐIỂM THI CUỐI HỌC KỲ
1.1%
15.5%
24.9%
Dưới 5
Từ 5-dưới 7điểm
Từ 7- 8 điểm
Từ 9 đến 10
58.5%
Nếu xét cụ thể đối với từng khóa học ta thấy điểm nghe cũng có sự thay đổi:
+ Sinh viên năm thứ nhất: Ở bậc phổ thông, trong giờ học ngoại ngữ, chủ yếu học về
ngữ pháp và đọc hiểu, kỹ năng nghe và nói hầu nhƣ khơng đƣợc luyện tập. Thế nhƣng,
bƣớc vào đại học, các em đã học ngoại ngữ với từng kỹ năng riêng biệt, có hẵn một giờ
học nghe riêng, và một giờ thi nghe riêng. Do chƣa quen nên kết quả thi môn nghe ở học
kỳ đầu tiên vừa qua cho thấy sinh viên có điểm khá giỏi mơn nghe rất ít, có đến 38,5% số
sinh viên có điểm thi dƣới 5, sinh viên đạt đƣợc mức điểm từ 5 đến dƣới 7 điểm chiếm
43,6%, mức điểm 7 đến 8 điểm chiếm 15,4%, chỉ có 2,6% đạt điểm 9 đến 10.
+ Sinh viên năm 2: Dƣờng nhƣ sinh viên đã quen dần với cách thi môn nghe nên so
với điểm thi môn nghe của năm thứ nhất, điểm thi môn nghe của sinh viên năm hai có
phần cao hơn. Điểm thi mơn nghe dƣới trung bình chỉ cịn 10.9%, so với 38.5% của năm
thứ nhất, 49.1% số sinh viên đạt điểm thi môn nghe đạt mức trung bình, 38.2% số sinh
viên đạt điểm khá, 1,8% sinh viên đạt điểm giỏi.
12
+ Sinh viên năm 3: Điểm thi môn nghe dƣới trung bình của năm 3 có phần cao hơn
năm thứ 2, chiếm tỉ lệ 16,3%, điểm thi môn nghe đạt mức trung bình chiếm 53.5%, điểm
thi mơn nghe đạt loại khá chiếm 29.1%, sinh viên đạt điểm thi loại giỏi chiếm 1.2%
+ Sinh viên năm 4: điểm thi môn nghe dƣới trung bình ở năm 4 giảm đi đáng kể so
với năm 3. Sinh viên có điểm thi nghe dƣới trung bình chỉ cịn 7.1%, sinh viên đạt điểm
nghe thuộc loại trung bình chiếm 76.5%, sinh viên đạt điểm nghe khá chiếm 16.5%,
khơng có sinh viên có điểm thi giỏi.
THÀNH TÍCH HỌC MƠN NGHE CỦA SINH VIÊN
THEO TỪNG KHĨA
90.0%
80.0%
Sinh viên năm 1
Sinh viên năm 2
Sinh viên năm 3
Sinh viên năm 4
70.0%
60.0%
50.0%
40.0%
30.0%
20.0%
10.0%
0.0%
Dưới 5
Từ 5 đến dưới 7
Từ 7 đến 8
Từ 9 đến 10
Nếu xét điểm thi môn nghe trong mối quan hệ với học lực của sinh viên chúng ta
sẽ có kết quả nhƣ sau:
+ Sinh viên có học lực yếu: 66.7% sinh viên có điểm nghe dƣới 5, 33.3% có điểm
nghe trung bình.
+ Sinh viên có học lực trung bình: 29.2% có điểm nghe dƣới trung bình, 61.5% có
điểm nghe trung bình, 9.4% có điểm nghe khá, khơng có sinh viên có học lực trung bình
có điểm nghe giỏi.
+ Sinh viên có học lực khá:7.7% có điểm dƣới trung bình, 64.8% có điểm nghe
trung bình, 27.5% có điểm nghe khá, khơng có sinh viên có học lực khá có điểm nghe
giỏi.
+ Sinh viên có học lực giỏi: khơng có sinh viên giỏi có điểm nghe dƣới trung bình,
12.5% có điểm nghe trung bình, 75% có điểm nghe khá, 12.5% có điểm nghe giỏi.
13
Điểm nghe với học lực của sinh viên
80.0%
Học lực yếu
60.0%
Học lực trung bình
40.0%
Học lực khá
20.0%
Học lực giỏi
0.0%
Điểm nghe
dưới 5
Từ 5 đến dưới
7
Từ 7 đến 8
Từ 9 đến 10
Cụ thể đối với từng năm:
+ Sinh viên năm 1: Trong số những sinh viên năm nhất có điểm học tập thuộc loại
trung bình có đến 56,5% có điểm thi mơn nghe dƣới 5, điểm nghe từ 5-7 điểm chiếm
34,8% , điểm nghe từ 7-8 điểm chiếm 7,8%. Trong số những sinh viên khá thì cũng có
14,3% có điểm nghe dƣới 5, điểm nghe từ 5 đến 7 chiếm 57,1% , điểm nghe từ 7-8 điểm
chiếm 8,7%. Trong số 2 sinh viên có thành tích học tập giỏi thì có 1 sinh viên có điểm
nghe đạt ở mức điểm trung bình.
+ Sinh viên năm 2: Trong số các sinh viên năm hai có học lực trung bình thì điểm thi
mơn nghe dƣới 5 chiếm 26.7%. Điểm thi mơn nghe trung bình chiếm 66.7%. Điểm thi
mơn nghe khá chiếm 6.6%, và khơng có điểm thi môn nghe đạt mức giỏi. Trong số các
sinh viên có học lực khá thì có 6.9% có điểm thi nghe dƣới trung bình, 55.2% có điểm thi
trung bình, 37.9% có điểm thi khá. Trong số các sinh có điểm học lực giỏi thì có đến 90%
có điểm thi nghe đạt từ 7-8 điểm; 10% đạt 9-10 điểm.
+ Sinh viên năm 3: Sinh viên có học lực yếu tồn bộ đều có điểm nghe dƣới trung
bình; trong số sinh viên có học lực trung bình có 28.1% có điểm thi mơn nghe dƣới trung
bình, 56% có điểm thi nghe đạt mức trung bình, 15.6% có điểm nghe khá, khơng có sinh
viên trung bình có điểm nghe giỏi; trong số sinh viên có điểm học lực khá có 6.5% có
điểm nghe dƣới trung bình, 60.9% có điểm nghe trung bình, 32.6% có điểm nghe khá,
khơng có sinh viên khá có điểm nghe giỏi; trong số sinh viên có học lực giỏi 83.3% có
điểm nghe loại khá, 16.7% có điểm nghe loại giỏi.
+ Sinh viên năm 4: Trong số sinh viên có học lực trung bình của năm 4 có 7.7% sinh
viên có điểm nghe dƣới 5, sinh viên có điểm nghe trung bình chiếm 88.5%, sinh viên có
điểm nghe khá chiếm 3.8%, khơng có sinh viên trung bình có điểm nghe giỏi; trong số
những sinh viên có học lực khá có 7.7% có điểm nghe dƣới trung bình, 88.5% có điểm
14
nghe trung bình, 3.8% có điểm nghe khá, khơng có sinh viên có điểm nghe giỏi; trong số
sinh viên có học lực giỏi có 33.3% có điểm nghe trung bình, 66.7% có điểm nghe khá,
khơng có sinh viên giỏi có điểm nghe giỏi.
Tuy nhiên cũng cần lƣu ý rằng phần lớn đề thi cuối kỳ môn nghe hiện nay của ngành
Nhật Bản học đều có kết cấu trung bình khoảng 60-80% nằm trong giáo trình dạy, chỉ có
20-40% năm ngồi chƣơng trình. Với đề thi hiện tại, thì thành tích mà sinh viên đã đƣợc
qua bài thi cuối kỳ môn nghe chƣa đánh giá đƣợc năng lực nghe thật sự của sinh viên. Có
nhiều sinh viên tỏ ra rất hài lịng về thành tích nghe của mình, từ đó tạo cho họ tính chủ
quan, đánh mất ý thức rèn luyện nghe, nhƣng thật sự khả năng nghe của họ chƣa đạt đến
mức đó. Do đó, có thể khẳng định bảng điểm cuối kỳ chƣa đánh giá đƣợc thật chất thành
tích học mơn nghe của sinh viên. Chính vì thế để đánh giá năng lực nghe của sinh viên,
chúng tôi đã khảo sát thêm điểm thi môn nghe trong kỳ thi năng lực tiếng Nhật quốc tế.
So với đề thi học kỳ, đề thi năng lực phần nào có thể đánh giá đƣợc một cách khách quan
năng lực nghe của sinh viên. Tuy nhiên không phải tất cả sinh viên ngành Nhật đều tham
gia kỳ thi năng lực, mà chỉ có 73.9% sinh viên thuộc đối tƣợng khảo sát đã dự thi. Đặc
biệt, sinh viên năm nhất không tham gia thi, nên kết quả sau đây chỉ có tính tƣơng đối,
chƣa phản ảnh trung thực đƣợc năng lực chung của toàn sinh viên ngành Nhật. Điểm
nghe của kỳ thi năng lực đƣợc tính theo thang điểm 60, điểm liệt là 19. Sinh viên bị điểm
liệt môn nghe chiếm 24.5%, sinh viên khơng bị điểm liệt nhƣng có điểm mơn nghe dƣới
trung bình chiếm 61.2%, sinh viên có điểm nghe từ trung bình đến đƣợc 2/3 số điểm
chiếm 12.8%, sinh viên đạt trên 2/3 số điểm chỉ đạt 1.5%.
ĐIỂM THI MÔN NGHE- KỲ THI NĂNG LỰC QUỐC TẾ
(THANG ĐIỂM 60)
12.8% 1.5%
24.5%
Điểm liệt (>19)
19 đến 30
31-40
41 trở lên
61.2%
Tóm lại, kết quả thi cuối kỳ môn nghe cho thấy phần lớn sinh viên đạt ở mức trung
bình, sinh viên đạt điểm nghe khá khơng nhiều lắm, sinh viên đạt điểm nghe loại giỏi rất
hiếm. Sinh viên có thành tích mơn nghe kém nhất trong ngành Nhật là sinh viên năm nhất.
15
Sinh viên năm 2 học nghe tương khá so với sinh viên năm 3 và 4. Đa số sinh viên năm 4
có thành tích nghe đạt mức trung bình. Sinh viên có học lực giỏi thì điểm nghe chỉ ở mức
khá, sinh viên học lực khá điểm nghe chỉ đạt mức trung bình, sinh viên có học lực trung
bình, phần lớn điểm nghe cũng đạt mức trung bình, sinh viên có học lực yếu phần lớn
điểm nghe yếu.
2.2.4 Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ cho giờ học môn nghe trên lớp
85% sinh viên cho rằng cơ sở vật chất hiện tại chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu học nghe
cũng nhƣ chƣa tạo điều kiện để sinh viên luyện tập kỹ năng nghe. Trên thực tế, mặc dù
trƣờng có trang bị phòng Lab để phục vụ cho giờ học nghe, nhƣng phần lớn giờ nghe chỉ
diễn ra tại phòng học thƣờng, đồ dùng dạy học chủ yếu là máy Casset. Tuy nhiên đa số
các máy casset đều đã cũ, có nhiều máy ở trong tình trạng khơng tốt, khơng đọc đƣợc đĩa,
chất lƣợng âm thanh kém, thậm chí có những giờ học phải thay đổi máy 2,3 lần, làm mất
thời gian học…
Hiện tại, cả ngành Nhật, Hàn, Trung Quốc của khoa Đơng phƣơng có tổng cộng 23
lớp học. 23 lớp học này sử dụng chung 1 phòng Lab. Trong đó có những lớp học trong
phịng Lab suốt cả học kỳ học, có những lớp cả một năm chƣa một lần đƣợc học phịng
lab, và có rất nhiều ngày trong tuần phòng lab bị bỏ trống. Đặc biệt rất nhiều giáo viên
cũng nhƣ sinh viên khơng thích học trong phịng Lab. Nguyên nhân là do nếu đăng ký sử
dụng phòng lab thì phải đăng ký cố định suốt cả học kỳ, chất lƣợng của hệ thống máy
trong phòng lab rất kém, rất nhiều máy bị hƣ chỉ nghe đƣợc nhƣng màn hình khơng nhìn
đƣợc. Trong giờ học nghe, khơng chỉ nghe băng, đĩa mà giáo viên còn cho sinh viên
luyện tập với nhau, phân vai để nói lại các tình huống vừa nghe, tuy nhiên phịng lab lại
bố trí giữa hai sinh viên có một vách ngăn, bất tiện cho việc trong đổi, luyện tập với nhau.
Hơn thế nữa, giáo viên và sinh viên không thể trao đổi với nhau nếu không sử dụng tai
nghe, tuy nhiên nếu đeo tai nghe suốt 4 tiết học thì rất khó. Đặc biệt phịng Lab khơng
trang bị Iternet, nên khơng hỗ trợ đƣợc nhiều trong giờ dạy nghe. Do đó mặc dù có phịng
Lab nhƣng lại có đến 78% sinh viên cho rằng thiếu trang thiết bị nghe nhìn, sinh viên
cũng ít có cơ hội để vừa nghe vừa nhìn vì khơng phải phịng học nào cũng có trang bị hệ
thống máy chiếu. Hơn thế nữa, số lƣợng băng đĩa video rất ít, nên không đáp ứng đƣợc
nhu cầu dạy và học của giáo viên lẫn sinh viên. Hệ thống mạng tại các lớp học rất yếu,
nên không thể sử dụng internet để phục vụ giờ học nghe nhìn, làm cho giờ học nghe
16
phong phú hơn. Hiện tại phịng tƣ liệu có 11 máy vi tính, nhƣng sinh viên chƣa tận dụng
đƣợc để tự luyện nghe.
62% sinh viên cho rằng chất lƣợng băng đĩa khơng đƣợc tốt, có nhƣng đĩa nghe rất cũ,
chất lƣợng âm thanh kém, nên rất khó nghe.
59% sinh viên nhận xét số lƣợng sinh viên trong mỗi lớp học khá đơng, có lớp trên 40
sinh viên, nên ảnh hƣởng đến chất lƣợng giờ nghe. Những sinh viên ngồi phía sau không
thể nghe rõ, dẫn đến không tập trung trong giờ học nghe. Giáo viên không quan sát đƣợc
những sinh viên ngồi phía sau, nên khơng nhận biết đƣợc sinh viên có nghe và hiểu đƣợc
hay khơng. Lớp đơng nên sinh viên ít có cơ hội luyện tập nói lại sau khi nghe xong.
86% sinh viên cho rằng tài liệu học mơn nghe chƣa phong phú. Ngồi giáo trình chính
sử dụng để học giờ nghe, sinh viên rất ít nghe các tài liệu khác. Tại phòng tƣ liệu Nhật
Bản cũng có khá nhiều tài liệu nghe, nhƣng tài liệu chỉ phục vụ tại chỗ, trong khi đó
phịng tƣ liệu khơng trang bị máy để sinh viên có thể nghe, dẫn đến sinh viên không thể
sử dụng tài liệu nghe ở phịng tƣ liệu Nhật Bản.
Tóm lại, cơ sở vật chất hiện tại chưa đáp đáp ứng được nhu cầu vừa nghe vừa nhìn
của sinh viên trong giờ học nghe, chưa tạo điều kiện để có thể ứng dụng Internet trong
giờ dạy. Tài liệu nghe, băng đĩa nghe chưa phong phú.
2.2.5 Giờ học nghe trên lớp
Trong chƣơng trình học tiếng Nhật, môn nghe sinh viên năm 1, 2 đƣợc học 45 tiết/
học kỳ, sinh viên năm 3,4 đƣợc học 60 tiết/ học kỳ. Thời lƣợng học môn nghe nhiều hơn
môn đọc và viết, ít hơn mơn ngữ pháp, tƣơng đƣơng với giờ học mơn nói. Thế nhƣng có
thể nói sinh viên ngành Nhật rất thụ động, phần lớn sinh viên chƣa tìm ra cho mình một
mơi trƣờng học mơn nghe, cũng nhƣ để luyện tập nghe mà phụ thuộc vào giờ nghe trên
lớp.
Môi trường luyện tập kỹ năng nghe của sinh viên
8.7% 0.8%
Chủ yếu học nghe trên lớp
Tự học nghe qua băng đĩa
20.4%
Tự học nghe qua phim ảnh
70.2%
Tự học nghe qua giao tiếp
với người bản xứ
17
Có đến 70.2% sinh viên cho rằng họ học nghe và luyện nghe chủ yếu trên lớp học.
20.4% sinh viên tự luyện tập nghe qua băng đĩa, 8.7% cho rằng họ luyện nghe nhờ vào
việc xem những bộ phim của Nhật, chỉ có 0.8% cho rằng họ đã tìm cơ hội giao tiếp với
ngƣời Nhật để luyện nghe nói. Mặc dù phần lớn sinh viên cho rằng môn nghe rất khó nên
họ khơng hứng thú với việc học nghe lắm, tuy nhiên sinh viên cũng cho rằng họ luyện tập
nghe chủ yếu trên lớp học, từ đó cho thấy, dƣới con mắt của sinh viên giờ học nghe trên
lớp hiện nay mang tính hiệu quả, phần nào có thể giúp sinh viên luyện nghe.
Nhƣ đã đề cập ở phần trƣớc, giờ học nghe hiện nay chủ yếu là học qua đĩa tiếng, sử
dụng máy casset. Môn nghe đƣợc dạy theo giáo trình quy định sẵn, phần lớn thời gian
trên lớp giáo viên dành để giải quyết các yêu cầu mà giáo trình đặt ra. Thỉnh thoảng cũng
có giáo viên dạy nghe qua video, qua những đoạn phim hoạt hình ngắn, hay dạy nghe qua
những bài hát…nhƣng do giáo viên phải dạy để kịp chƣơng trình quy định, và cở sở vật
chất còn nhiều hạn chế, nên thời gian dành cho việc nghe thêm ngồi chƣơng trình học
khơng nhiều.
Chính vì lẽ đó có khá nhiều sinh viên cho rằng trong giờ học nghe các em chỉ nghe và
làm bài tập trong giáo trình là chủ yếu. 4 tiết nghe đƣợc bố trí chung cho một buổi học
khơng hợp lý, sinh viên nghe liên tục 4 tiết sẽ rất mệt mõi và khơng thể tập trung đƣợc.
Vì thế cần kết hợp giữa nghe và nói trong giờ học nghe. Tuy nhiên hiện nay, trong giờ
nghe ít có thời gian dành cho luyện nói, chẳng hạn nói lại những gì đã nghe, hay đƣợc
phân vai để luyện tập lại các mẫu đối thoại ngắn xuất hiện trong giáo trình…đó cũng là
một trong những nguyên nhân làm cho giờ nghe trở nên tẻ nhạt. 27% sinh viên cho là họ
hồn tồn khơng đƣợc luyện nói trong giờ nghe, 19.2% sinh viên cho rằng đƣợc luyện
nói lại những gì đã nghe nhƣng rất hiếm khi. 33.2% sinh viên cho rằng thỉnh thoảng họ
đƣợc luyện tập nói trong giờ nghe, 20.4% cho rằng học thƣờng xuyên đƣợc luyện tập nói
trong giờ nghe.
18
LUYỆN TẬP NÓI TRONG GIỜ NGHE
20.4%
27.2%
Hoan toan khong
Rat hiem
Thinh thoang
Kha nhieu
33.2%
19.2%
Nếu xét trên riêng ở từng khóa, chúng ta nhận thấy sinh viên năm nhất đƣợc luyện nói
trong giờ nghe nhiều nhất, sinh viên năm 2 trong giờ học nghe cũng đƣợc luyện nói khá
nhiều, sinh viên năm 4 ít đƣợc luyện nói trong giờ nghe nhất.
LUYỆN TẬP NĨI TRONG GIỜ NGHE THEO TỪNG
KHÓA HỌC
70.0
60.0
50.0
40.0
30.0
20.0
10.0
0.0
Sinh viên năm 1
Sinh viên năm 2
Sinh viên năm 3
Sinh viên năm 4
Hồn tồn
khơng
Rất hiếm
Thỉnh thoảng
Khá nhiều
Ngày nay nhờ vào Internet mà sinh viên có thể tìm đƣợc phần lời thoại lời thoại và
đáp án của các giáo trình đang sử dụng để dạy và học nghe. Nếu sinh viên biết cách sử
dụng phần lời thoại và đáp án này thì có thể đem lại lợi ích nhất định và sẽ tạo đƣợc kiện
tốt cho việc tự luyện nghe của sinh viên. Nếu không biết cách sử dụng sẽ gánh chịu tác
hại. Thực tế giảng dạy cho thấy, trong giờ học nghe để đối phó với giáo viên, có khá
nhiều sinh viên vừa nghe vừa nhìn phần lời, thậm chí có cả sinh viên chuẩn bị trƣớc bài
nghe ở nhà bằng cách học thuộc phần lời, và có cả sinh viên ngay khi đƣợc chọn để phân
vai luyện tập vẫn mở phần lời ra học thuộc. Nhƣ thế lâu dần sẽ tạo cho sinh viên một thói
quen khơng nhìn phần lời sẽ khơng nghe đƣợc, dẫn đến mất khả năng nghe hiểu, chỉ còn
khả năng đọc hiểu.
19
Theo quy định của nhà trƣờng về chuẩn đầu ra của ngoại ngữ. Để có thể tốt nghiệp ra
trƣờng sinh viên phải có đƣợc bằng năng lực Nhật ngữ N3. Tuy nhiên có rất nhiều sinh
viên khơng đạt trong kỳ thi năng lực là do điểm môn nghe thấp, hoặc bị điểm liệt môn
nghe, nguyên nhân một phần là do trong giờ học trên lớp sinh viên ít đƣợc luyện nghe với
hình thức thi nghe năng lực. 28.3% sinh viên cho rằng trên lớp giáo viên hồn tồn khơng
cho sinh viên nghe những tài liệu luyện thi năng lực. 24.9% cho rằng rất ít khi đƣợc giáo
viên cho nghe, 42,6% cho rằng thỉnh thoảng họ cũng đƣợc nghe, 4.2% cho rằng giáo viên
cho nghe tài liệu luyện thi năng lực.
Nghe các tài liệu luyện thi năng lực quốc tế trên lớp
4.2%
28.3%
Hồn tồn khơng
Rất hiếm
Thỉnh thoảng
42.6%
Khá nhiều
24.9%
Với mong muốn tăng cƣờng khả năng nghe nói của sinh viên, giúp sinh viên có nhiều
cơ hội cũng nhƣ thời gian để nghe nói trực tiếp ngƣời Nhật, ngành Nhật Bản đã bố trí
giáo viên ngƣời Nhật giảng dạy cả giờ nói lẫn giờ nghe. Tuy nhiên, khá nhiều sinh viên
cho rằng học nghe với giáo viên ngƣời Nhật không hiệu quả bằng học với giáo viên
ngƣời Việt. Số sinh viên cho rằng không thích giáo viên ngƣời bản xứ dạy nghe lắm,
cũng nhƣ số sinh viên hồn tồn khơng thích trở nên nhiều hơn số sinh viên trả lời thích
và rất thích.
Học nghe với giáo viên người bản xứ
6.80%
18.10%
Khơng thích
Khơng thích lắm
Thích
Rất thích
34%
41.10%
Ƣu điểm của việc học với giáo viên ngƣời Nhật là sinh viên có thể nghe trực tiếp
giọng của ngƣời bản xứ, nhƣng nhƣợc điểm là khi nghe CD, có rất nhiều chỗ sinh viên
20
không hiểu nghĩa, mặc dù trong khi làm bài tập giáo viên có giải thích, nhƣng nhiều khi
khơng làm cho sinh viên hiểu rõ đƣợc. Bên cạnh đó, nếu học với giáo viên ngƣời Việt, thì
họ có thể biết đƣợc sinh viên có hiểu rõ đƣợc vấn đề hay khơng bằng cách cho sinh viên
nói lại ý nghĩa của đoạn hội thoại vừa nghe bằng tiếng Việt.
Tóm lại, từ những kết quả phân tích trên, ta thấy đa số sinh viên ngành Nhật rất thụ
động, họ khơng biết tìm kiếm cho mình một mơi trường khác để luyện tập nghe mà họ chỉ
học nghe chủ yếu trên lớp học khi có giáo viên. Như vậy hiện nay giờ học nghe trên lớp
đóng một vai trị hết sức quan trọng đối với việc luyện tập kỹ năng nghe của sinh viên.
Tuy nhiên trong giờ học nghe cũng có giáo viên chủ yếu cho nghe trong giáo trình học, ít
cho sinh viên xem video để có thể vừa nghe vừa nhìn, cũng như cho sinh viên luyện tập
nói, nói lại sau khi nghe, đồng thời giáo viên cũng ít dành thời gian để giúp sinh viên
luyện nghe các dạng đề thi năng lực quốc tế, dẫn đến điểm thi năng lực nghe rất thấp.
Khá nhiều sinh viên tỏ ra khơng thích giáo viên người bản xứ dạy nghe.
2.2.6 Việc tự luyện tập kỹ năng nghe của sinh viên
Nhiều sinh viên cho rằng ngồi giờ học ở lớp, thời gian cịn lại ở nhà chủ yếu họ đầu
tƣ vào việc học và làm bài tập của môn ngữ pháp, học chữ Kanji…thời gian dành cho
việc luyện nghe ở nhà rất ít. Hơn thế nữa, sinh viên cũng chƣa biết cách tự luyện tập nghe.
Qua trao đổi trực tiếp với sinh viên, có khá nhiều sinh viên cho biết, để giờ học nghe trên
lớp diễn ra tốt đẹp, sinh viên luôn chuẩn bị bài nghe trƣớc ở nhà bằng cách nghe từng chữ,
từng từ sau đó họ viết ra tất cả những gì họ nghe đƣợc và dịch nó ra để biết nghĩa, sau đó
học thuộc lịng. Thậm chí có sinh viên cho biết, họ chỉ cần học thuộc lịng phần lời thoại
mà khơng cần nghe, nhƣ thế họ cũng có thể hồn thành đƣợc bài tập.
Tất cả sinh viên đều có trong tay đĩa và giáo trình học mơn nghe, tuy nhiên có nhiều
sinh viên sau khi đƣợc giáo viên hƣớng dẫn nghe và làm bài tập cũng nhƣ giải thích ý
nghĩa, họ rất ít khi tự mình nghe lại để đánh giá bản thân đã thật sự hiểu hay chƣa, cũng
nhƣ để nghe lại cách phát âm của những từ mà mình khơng nhận ra.
Nghe lại bài nghe đã học trên lớp
12.10%
12.80%
22.60%
52.50%
Hồn tồn khơng
Rất hiếm
Thỉnh thoảng
Khá nhiều
21
Sinh viên chƣa có thói quen tìm kiếm cơ hội để luyện tập kỹ năng nghe, họ không
dành thời gian để sƣu tầm những đoạn phim ngắn bằng tiếng Nhật để luyện nghe, hay tìm
ngƣời bản xứ để giao tiếp tăng cƣờng khả năng nghe.
Mặc dù điểm thi năng lực Nhật ngữ quốc tế môn nghe của sinh viên rất thấp, bên cạnh
đó giáo viên cũng khơng có nhiều thời gian để giúp sinh viên luyện nghe các dạng đề thi,
nhƣng bản thân sinh viên cũng không dành nhiều thời gian để tự luyện tập. Có đến 24.5%
số sinh viên cho rằng hồn tồn khơng luyện nghe, 27.5% cho rằng có luyện nghe nhƣng
rất ít, 41.9% cho rằng, thỉnh thoảng họ cũng tự mình luyện nghe, chỉ có 6% số sinh viên
thƣờng xuyên nghe các giáo trình luyện thi năng lực
Thời gian dành cho việc luyện nghe các dạng đề thi
năng lực của sinh viên
6.0%
24.5%
41.9%
Hồn tồn khơng
Rất hiếm
Thỉnh thoảng
Khá nhiều
27.5%
Tiểu kết:
Phần lớn sinh viên cho rằng mơn nghe khó và khơng thích học mơn nghe lắm. Kết
quả thi cuối kỳ môn nghe của sinh viên phần lớn ở mức trung bình. Nhiều sinh viên
khơng đậu đƣợc kỳ thi năng lực quốc tế là do điểm nghe thấp. Cở sở vật chất chƣa đáp
ứng đƣợc nhu cầu của giờ học nghe, nghe khơng đi liền với nhìn do thiếu phƣơng tiện.
Có phịng Lab nhƣng sinh viên khơng thƣờng xun đƣợc sử dụng. Sỉ số sinh viên trong
lớp khá đông ảnh hƣởng đến chất lƣợng học ngoại ngữ. Giờ học nghe trên lớp chủ yếu là
học qua băng đĩa, chủ yếu là nghe đĩa. Các bài tập trong giáo trình quy định chiếm phần
lớn lƣợng thời gian trên lớp, do đó sinh viên ít có thời gian nghe thêm các tài liệu khác
cũng nhƣ xem phim, nghe bài hát nhật…Trong giờ nghe sinh viên chỉ nghe và làm bài
mà ít đƣợc luyện tập nói. Sinh viên chƣa dành nhiều thời gian để luyện tập kỹ năng nghe,
chƣa biết cách học môn nghe cũng nhƣ chƣa chủ động để tìm cho mình mơi trƣờng để
luyện nghe.
22
Chương 3:
Một số đề xuất về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy và
học môn nghe tại trường Đại học Lạc Hồng
3.1 Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của giờ học nghe trên lớp
3.1.1 Cơ sở vật chất phục vụ giờ học nghe
- Đƣa phòng Lab vào sử dụng trong giờ học nghe. Sử dụng tối đa cơng sức của
phịng lab. Phải tu sửa các máy tính và hệ thống máy điều hịa đang bị hỏng. Phân cơng
ngƣời quản lý và điều hành phịng máy. Lập ra chế độ bảo trì máy móc cũng nhƣ thời
gian vệ sinh phòng máy. Chia lịch học ở phòng Lab thành 4 ca/ ngày. Cân đối lịch học
môn nghe sao cho tất cả các lớp đều có thể học tại phòng Lab. Trang bị Micro cho phòng
Lab.
- Quy định một số phòng học ƣu tiên cho giờ học nghe. Đồng thời cần phải trang
bị hệ thống máy chiếu cho tất cả các phịng này để có thể cho sinh viên học giờ nghe nhìn
ngay tại phịng học.
- Trang bị hệ thống mạng tại phòng Lab với tốc độ tƣơng đối để giáo viên có thể
dùng nó để tạo giờ học phong phú hơn.
- Phát huy tính hiệu quả của phịng tƣ liệu Nhật Bản. Hiện tại có trên 40 đầu sách
dùng để luyện nghe, có cả sách luyện thi năng lực. Tuy nhiên những sách này chỉ phục vụ
tại chỗ, do đó cần trang bị máy CD để sinh viên có thể học nghe tại phịng tƣ liệu.
- Đối với những lớp có sĩ số sinh viên trên 40, đề xuất nhà trƣờng cho phép chia
làm 2 lớp nhỏ để học giờ nghe và nói.
3.1.2 Về mặt phân bổ chương trình học, giáo trình, tài liệu phục vụ giờ nghe
Phân bổ lại chƣơng trình giảng dạy mơn nghe cho phù hợp hơn. Chẳng hạn giảm
tải ½ chƣơng trình nghe trên lớp hiện nay để dành thời gian cho sinh viên học nghe qua
Video, qua bài hát, phim hoạt hình, qua Internet để sinh viên làm quen với việc nghe
những cuộc hội thoại trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của chính ngƣời Nhật.
Đối với giáo trình học hiện nay của năm nhất và năm hai, sau mỗi bài học đều có
nghe và nói với mục đích giúp sinh viên củng cố lại các mẫu ngữ pháp đã học trong bài.
Do đó khi phân bổ chƣơng trình học, cần phải lƣu ý phân bổ bài học nghe phải song
song với bài học ngữ pháp, đồng thời khi xếp thời khóa biểu cũng lƣu ý xếp giờ nghe học
ngay sau giờ ngữ pháp, tránh trƣờng hợp giáo viên dạy nghe dành thời gian để dạy ngữ
pháp.
23
Tạo điều kiện cho sinh viên có nguồn tài liệu phong phú để luyện nghe không chỉ
nghe ở trƣờng mà cịn có thể nghe thêm ở nhà, phịng tƣ liệu Nhật Bản cần phải có dịch
vụ copy với giá rẽ để phục vụ sinh viên.
Tạo điều kiện cho sinh viên có thể mƣợn đƣợc sách về nhà. Phịng tƣ liệu phải
phân loại các đầu sách cần thiết mà sinh viên có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, sau
đó sẽ tiến hành copy lại để cho sinh viên mƣợn về nhà.
Tranh thủ xin viện trợ sách từ Quỹ giao lƣu và hợp tác quốc tế để bổ sung nguồn
tài liệu trong đó có tài liệu phục vụ mơn nghe.
Xin các trƣờng Đại học tại Nhật Bản tài trợ tài liệu băng đĩa thông qua những
giảng viên đang là nghiên cứu sinh, học viên cao học tại một số trƣờng ở Nhật Bản.
3.1.3 Về phía giảng viên
+ Soạn giáo án, bài giảng: Ngoài việc soạn giáo án, soạn bài giảng dựa giáo trình
đã quy định sẵn, giáo viên cần phải thu thập thêm các tài liệu khác có nội dung phù hợp
phục vụ cho giờ nghe để đƣa vào bài giảng. Ví dụ thu thập những trang web nhƣ trang
NHK chuyên đọc những bản tin thời sự hay bản tin dự báo thời tiết, trang Web
mainichi.jp chuyên về những bản tin dành cho trẻ em nên rất dễ nghe và dễ hiểu…bên
cạnh đó giáo viên cịn phải thu thập những đoạn Video nói về cảnh sinh hoạt hằng ngày
của ngƣời dân nhƣ cảnh sinh hoạt trong gia đình, cảnh mua bán ở siêu thị, tiếng rao bán
ngoài chợ…để sinh viên có thể nghe đƣợc những câu nói thơng thƣờng của ngƣời Nhật.
Riêng đối với sinh viên năm nhất, trong giáo án giáo viên cần đƣa thêm phần
luyện phát âm. Mặc dù phần phát âm đã đƣợc giáo viên ngƣời bản xứ trực tiếp dạy trong
giờ nói, tuy nhiên cũng cần cho sinh viên nghe lại phần luyện phát âm trong máy, để sinh
viên làm quen với giọng đọc qua băng đĩa. Đồng thời trong giáo trình Minna hiện đang
sử dụng, có đĩa đọc từ vựng, giáo viên cũng nên đƣa phần luyện đọc từ vựng vào bài
giảng để giúp sinh viên nghe và luyện phát âm đúng, tránh trƣờng hợp bản thân sinh viên
phát âm không đúng, nên nghe không ra, dẫn đến không hiểu hay hiểu sai nghĩa.
Bài nghe thông thƣờng là những mẫu hội thoại tƣơng đối ngắn, hoặc những bài
phát biểu hay những bản tin, bản thông báo…Khi soạn bài giảng, giáo viên cần đƣa vào
thật nhiều câu hỏi xung quanh nội dung bài nghe, giúp sinh viên hiểu rõ hơn nội dung bài
nghe.
24
+ Soạn đề thi:
Để khắc phục tình trạng chủ quan, học thuộc lòng của sinh viên, giáo viên cần chủ
động sáng tạo hơn trong việc làm đề thi. Sƣu tầm các tài liệu có trình độ tƣơng đƣợng để
làm đề thi. Hạn chế đến mức tối đa cho thi những bài trong giáo trình mà sinh viên đƣợc
nghe. Tuyệt đối tránh trƣờng hợp sinh viên khơng cần nghe mà có thể làm đƣợc ngay vì
phần đó đã đƣợc nghe qua trên lớp.
Đƣa các dạng đề thi năng lực quốc tế vào đề thi để sinh viên làm quen dần.
+ Hoạt động trên lớp:
Trƣớc hết, giáo viên cần bố trí vị trí ngồi của sinh viên và giáo viên sao cho tất cả
các sinh viên có thể ngồi lên phía trƣớc tập trung để nghe, và giáo viên có thể quan sát
đƣợc. Cụ thể nhƣ xếp bàn ghế sinh viên theo hình chữ U. Máy nghe khơng đặt ở bàn giáo
viên nhƣ hiện nay mà đặt ở vị trí trung tâm và đƣơng nhiên giáo viên cũng đứng ở vị trí
gần sinh viên để tiên quan sát.
Giáo viên phải tạo bầu khơng khí hết sức thoải mái trong giờ nghe, khơng để giờ
nghe trở nên căng thẳng vì sẽ ảnh hƣởng đến chất lƣợng giờ nghe, làm sinh viên mất tập
trung khi nghe. Không tạo áp lực đối với sinh viên để tránh tình trạng sinh viên học đối
phó, học thuộc lịng trƣớc phần lời của bài nghe mà khơng cần tập trung nghe, không để
sinh viên vừa nghe, vừa xem phần lời, dẫn đến đánh mất khả năng nghe.
Nắm bắt sức học của sinh viên, bố trí những sinh viên yếu, thụ động, khơng
thƣờng xun nói ngồi ở vị trí phía trên để có thể theo dõi, lƣu ý giúp đỡ tạo điều kiện
cho họ có thể nghe, nói đƣợc.
Phối hợp đều giữa nghe và nói. Khơng để sinh viên chỉ nghe và làm bài tập, mà
giáo viên phải tạo điều kiện, tạo tình huống cho sinh viên nói. Sau khi nghe và làm bài
tập theo yêu cầu của giáo trình, giáo viên nên suy nghĩ và đặt ra thật nhiều câu hỏi từ dễ
đến khó xung quanh nội dung đã nghe và yêu cầu sinh viên trả lời. Các câu hỏi dễ sẽ
dành riêng cho những sinh viên trung bình, yếu để họ có thể tham gia tích cực vào giờ
học, không sao lãng và làm việc riêng. Đồng thời giáo viên cũng có thể yêu cầu sinh viên
tóm tắt lại những nội dung chính của đoạn vừa nghe. Đối với bài nghe là những đoạn hội
thoại, giáo viên cũng cần phân vai cụ thể để sinh viên luyện tập với nhau, nói lại đoạn hội
thoại vừa nghe. Đối với bài nghe là những bản tin tức, bản thông báo, hay bài phát biểu
khá dài…trƣớc khi nghe giáo viên nên gợi ý một số câu hỏi để giúp sinh viên định hình
đƣợc phần nào về nội dung để dễ nắm bắt, đồng thời sau khi nghe giáo viên cũng nên cho
25
sinh viên luyện tập nói từng ý nhỏ, sau khi nhớ đƣợc hết các ý, giáo viên cho sinh viên
liên kết các ý nhỏ lại với nhau và nói thành một đoạn dài, nhƣ thế sẽ giúp ích cho sinh
viên trong cơng tác phiên dịch sau này.
Để sinh viên có thể làm bài tập cũng nhƣ bài thi đƣợc tốt hơn, đối với những dạng
bài tập khác nhau giáo viên cần phải hƣớng dẫn thật kỹ về cách làm, những mẹo vặt hay
những điểm cần lƣu ý. Ví dụ dạng bài tập nghe và điền từ giáo viên cần giúp sinh viên
nhận biết đƣợc từ loại cần điền, dựa vào trợ từ cho sẵn có thể đốn đƣợc động từ, hoặc
dựa vào trợ từ có thể đốn đƣợc động từ…
Giáo viên phải giúp sinh viên có thói quen nhận biết đƣợc từ khóa, nội dung chính
để sinh viên có thể làm nhanh và làm đúng bài tập. Đồng thời cần rèn luyện cho sinh viên
khả năng suy đoán, suy diễn dựa trên hình ảnh gợi ý ban đầu, hoặc các yếu tố báo hiệu
chuyển ý nhƣ các liên từ, từ nối câu… để đốn đƣợc thơng tin tiếp theo.
Giải thích những điểm ngữ pháp mới, những từ mới xuất hiện trong bài nghe giúp
sinh viên hiểu rõ hơn.
Giáo trình nghe hiện nay của năm 1 và 2 đƣợc thiết kế có một phần nghe câu hỏi
và ghi trả lời vào phần để trống. Để tập phản xạ nhanh cho sinh viên, giáo viên không
nên bắt sinh viên chuẩn bị bài trƣớc ở nhà, cũng nhƣ không yêu cầu sinh viên lặp lại câu
hỏi sau khi nghe và điền câu trả lời vào chỗ trống mà ngƣợc lại yêu cầu sinh viên trả lời
ngay sau khi nghe dứt câu hỏi.
Hƣớng dẫn sinh viên nghe các tài liệu luyện thi năng lực để giúp các em thi nghr
tốt hơn.
3.1.4 Về phía sinh viên
Sinh viên cần khắc phục thói quen xem trƣớc phần lời cũng nhƣ học thuộc lịng
phần lời để đối phó với giáo viên.
Rèn luyện cho mình phƣơng pháp nghe đúng, khơng đặt mục tiêu nghe hiểu tồn
bộ những gì đã nghe, mà chỉ cần nghe để lấy ý. Không tập trung để ý từng câu chữ. Biết
bỏ qua những từ nghe không hiểu để tập trung nghe tiếp những thông tin phía sau. Tập
thói quen suy đốn thơng tin tiếp theo dựa vào thơng tin đã tiếp nhận.
Luyện tập thói quen tập trung khi nghe. Luyện tập khả năng phản xạ nhanh để đáp
ứng kịp thời yêu cầu của ngƣời nói.
Chủ động tìm cơ hội giao tiếp với ngƣời bản xứ