Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận " tính tự trị của làng xã Việt Nam " docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.36 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
TÍNH TỰ TRỊ CỦA LÀNG XÃ
VIỆT NAM
Mục lục
* Mở đầu
I. Một số vấn đề về tính tự trị của làng xã Việt Nam
1. Thế nào là tính tự trị của làng xã?
2. Nền tảng của tính tự trị của làng xã?
3. Cái gì nuôi dưỡng và củng cố tính tự trị của làng
xã?
II. Biểu hiện của tính tự trị của làng xã
1. Tính tự trị của làng xã thể hiện qua mối quan hệ
giữa làng với làng
2. Tính tự trị của làng xã thể hiện qua mối quan hệ
giữa làng với nước
2.1. Qua tính chất bộ máy quản lý
Qua tính tự trị của làng xã thể hiện qua hương
ước
III. Hai mặt của tính tự trị của làng xã
1. Tích cực
2. Tiêu cực
IV. Kết luận
* Tài liệu tham khảo





*Mở đầu
Các nghiên cứu về nông thôn cho thấy làng là đơn vị xã hội tồn
tại lâu đời. Trước tiên làng là một công xã nông thôn, sau mới


chuyển thành đơn vị hành chính cơ sở. Và tự nó đã hàm chứa
cả hai yếu tố tự trị và phụ thuộc nhà nước. Các yếu tố về địa
vực, dân cư…đều mang nặng tính cục bộ, bản vị. Vậy tính tự trị
của làng xã là gì? Nó được thể hiện trên những phương diện
nào? Nó tác động đến đời sống làng xã và đất nước ra sao?
Những câu hỏi này sẽ được trả lời trong bài viết dưới đây:
I. Một số vấn đề về tính tự trị của làng xã Việt
Nam
1. Thế nào là tính tự trị của làng xã? Tại sao Nhà nước
duy trì và dung dưỡng tính tự trị của làng xã?
Theo GS. Phan Đại Doãn “làng là cộng đồng dân sự tự trị”[1].
Theo GS. Bùi Xuân Đính, làng là đơn vị tụ cư truyền thống của
người nông dân Việt, có địa vực riêng, cơ sở hạ tầng cùng cơ
cấu tổ chức riêng, lệ tục riêng… nhưng chặt chẽ và hoàn chỉnh
nhất. Còn xã là chỉ đơn vị hành chính cơ sở của Nhà nước
phong kiến ở cùng nông thôn. Không phải làng đồng nhất với
xã. Có thể mỗi xã là một làng nhưng cũng có thể mỗi xã gồm
nhiều làng hợp lại.
Mỗi làng xã từ khi mới thành lập đều có một sự độc lập nhất
định hay còn gọi là tính tự trị. Nói tính tự trị của làng xã là so
với Nhà nước phong kiến trung ương tập quyền. Ở phạm vi hẹp
hơn còn là so với làng khác. Có người dùng chữ “nửa cô lập” để
nói về tình hình này để thay cho chữ “tự trị”. Về bản chất thì
hai từ này đều nói về tính chất tách biệt của làng xã. Vậy thực
chất của tính tự trị của làng xã là gì? Tính tự trị của làng xã
làm cho làng xã có xu hướng chống đối lại Nhà nước. Trong khi
phong kiến hoá tập quyền ngày càng cao mà Nhà nước vẫn
duy trì tính tự trị làng xã mà chính tính chất này làm phân hoá
quyền lực? Ta có thể giải thích như sau:
Thứ nhất, dưới góc độ dân tộc học-pháp luật, thiết chế hoặc tổ

chức xã hội nào cũng có cách quản lý của nó để nắm các thành
viên theo một quy chế thống nhất. Mỗi làng xã cũng vậy. Nó
cũng có cách tổ chức quản lý của riêng nó. Không có một cách
quản lý dùng chung cho mọi làng xã. Như vậy bản thân làng
xã có sự “độc lập tương đối” với các đơn vị xã hội khác, kể cả
nhà nước.
Thứ hai, Nhà nước ra đời trên cơ sở tập hợp các làng xã. Hay
nói cách khác nhà nước xuất hiện là tổ chức của nhiều làng.
Điều đó có nghĩa là trước khi Nhà nước ra đời, làng xã tồn tại
như một thực thể riêng biệt với các thành viên, bộ máy
quản lý, bộ phận bảo vệ an ninh, quy ước hành động… Có thể
nói làng xã như một “nhà nước con”. Nhà nước khó có thể
“xâm phạm” vào được. Thêm vào đó, sự tồn tại các phe phái,
các quan hệ chồng chéo trong làng làm nảy sinh những mâu
thuẫn ngầm trong nội bộ từng làng mà Nhà nước không thể
điều hoà nên đành “để mặc” cho làng xã tự giải quyết (trong
phạm vi cho phép là không làm tổn hại đến Nhà nước).
Thứ ba, Nhà nước để có sức người sức của dùng vào việc công
và quốc phòng cần phải có sự đóng góp của người dân. Nhưng
người dân lại chịu sự kiểm soát của làng xã về mọi mặt từ lâu
đời. Muốn đạt được mục đích Nhà nước phải đi đến người dân
thông qua làng xã. Nhà nước giao chỉ tiêu, làng xã trực tiếp
thực hiện từ việc thu thuế, bắt lính, huy động lao dịch…. Như
vậy, nhà nước chỉ biết đến làng xã mà không biết đến từng cá
nhân. Có thể nói, về mặt này, làng xã là công cụ khá lý tưởng
phục vụ cho Nhà nước. Đổi lại Nhà nước muốn làng xã làm lợi
cho mình thì đương nhiên phải tôn trọng quyền tự trị- quyền
“độc lập tương đối” của làng xã.
Những điểm này chính là nguồn gốc và thực chất của cái gọi là
“tự trị” của làng xã.

2. Nền tảng của tính tự trị của làng xã là gì?
Đó chính là sự cố kết chặt chẽ, không thể tách rời khỏi thực
thể làng của các bộ phận, tổ chức, cá nhân trong làng. Làng là
tập hợp của một đơn vị cư trú, một tổ chức sản xuất, tổ chức
xã hội, tổ chức quân sự. Sự đan xen nghề nghiệp; nông, công,
thương và mối quan hệ đa dạng phường hội, họ hàng, xóm,
giáp; sự dung hợp các hệ tư tưởng và tôn giáo… đã tạo cho
làng cổ truyền một cơ sở vững chắc. Mỗi cá nhân đồng thời là
thành viên của nhiều tổ chức, phe giáp, và là thành viên của
cộng đồng làng, là bộ phận hữu cơ luôn gắn bó chặt chẽ với tổ
chức làng. Tâm lý cộng đồng là một trong những đặc trưng của
văn hoá làng. Kết cấu đa dạng và chặt của làng đã tạo ra một
định hướng hành vi hành động của cá thể và toàn thể, đã tạo
ra một sự thống nhất tương đối, đồng thời có sự tự điều chỉnh
và ổn định. Chính sự liên kết bền vững này là “nội lực” cho
làng xã có thể duy trì được tính tự trị của mình. Nó tạo cho
làng xã “sức mạnh” để chống lại mọi sự thâm nhập từ bên
ngoài.
3. Cái gì nuôi dưỡng và củng cố tính tự trị của làng xã?
Với chế độ quân điền, ruộng đất của mỗi làng do làng ấy tự
phân chia và sử dụng. Nhà nước phong kiến không trực tiếp
phân chia ruộng đất. Chính điều này đã làm cho tính tự trị của
làng xã tiếp tục tồn tại và càng được củng cố.
Thực chất, nhà nước cũng không thể kiểm soát được việc thực
hiện quân điền của làng xã. Việc chia ruộng đất đòi hỏi phải có
tổ chức đại diện các giáp, các họ cùng với hội đồng chức dịch
bảo đảm sự phân chia cho hợp lý, tương đối côngbằng. Việc
phân chia này có lệ riêng của làng, có khi không theo đúng thể
lệ quân điền của Nhà nước. Chế độ quân điền thời Gia Long đề
ra 3 năm một lần chia lại ruộng đất công, nhưng nhiều làng xã

kéo dài tới 4 năm, thậm chí có làng 6 năm mới chia lại ruộng
công. Có năm nhà nước đề ra phép chia ruộng theo số dân.
Nhưng tới làng xã thì thực hiện lại khác.Vì ngoài việc chia
ruộng theo suất đinh, làng còn những loại ruộng khác cho
giáp, chùa, hội tư văn, cho các chức dịch từ xã trưởng đến
mõ…
Tính chất tự trị của làng xã tồn tại lâu đời là do nhiều nguồn
nuôi dưỡng nó, nhưng tôi cho rằng chính việc sử dụng quân
điền và cách phân chia ruộng công trong thời kỳ phong kiến là
nền tảng kinh tế vững chắc nhất cho tính chất độc lập của làng
xã được duy trì.
II. Biểu hiện của tính tự trị của làng xã
1. Tính tự trị của làng thể hiện trong mối quan hệ giữa
làng với làng
Làng xã là một thực thể thống nhất. Nó có đầy đủ các bộ phận
để hoạt động, để “sống” và tự bảo vệ mình khỏi xâm nhập từ
bên ngoài. Nguyễn Đổng Chi cho rằng “làng là một cơ thể trọn
vẹn, gần như một con người, nhưng lại là một con người phi
giai cấp. Trong cơ thể người trọn vẹn đó, không những có ẩn
giấu một linh hồn, một tâm lý ý thức cộng đồng, mà còn có
một cá tính riêng, nghĩa là một đặc sắc riêng về tính cách”.
Đúng vậy, mỗi làng không những có một địa vực riêng mà còn
có một tín ngưỡng riêng, luật lệ riêng, nhiều nét văn hoá khác
nhau…
1.1.Về địa vực
Mỗi làng đều có giới hạn phạm vi của làng rất rõ ràng. Nhiều
làng có mốc giới lãnh thổ, có cổng làng và điếm canh… Nếu vì
một lý do gì đó, cái ranh giới cũ bị thay đổi thì sự tranh giành
lãnh thổ sẽ diễn ra lâu dài và gay go thậm chí gây tổn thất rất
lớn cho hai bên và kéo dài tới nhiều thế hệ con cháu trong

làng. Truyện Lê Phụng Hiểu và hàng loạt những truỵện dân
gian khác đều phản ánh sự tranh giành địa phận đẫm máu
giữa hai làng. Làng không cho cái gì thâm nhập làm thay đổi
cơ thể của nó.
Vấn đề địa vực còn thể hiện rất rõ qua “dân chính cư” và “dân
ngụ cư” hay còn gọi là “dân nội tịch” và “dân ngoại tịch”.
Những người dân trong làng, tham gia các hoạt động của làng,
chịu những luật lệ của làng, đồng thời cũng được làng bảo vệ
mới được công nhận là một bộ phận trong “cơ thể” làng. Đó là
dân chính cư. Những người do hoàn cảnh gia đình đói kém hay
vì điều gì đó mà phải li tán sang những làng khác, làm dân ngụ
cư ở làng đó sẽ không được làng đó chấp nhận. Dân ngụ cư
không được tham gia bất kỳ hoạt động gì trong làng, không có
nghĩa vụ gì với làng, cũng như không được quyền lợi gì như
tham gia tế lễ, chia ruộng… Những người ngụ cư này không
được sống trong địa phận của làng. Họ phải sống ở những nơi
đất chưa có chủ, thường là ở rìa sông, ven bãi. Những người
không có một mảnh đất chính thức này sẽ bị dân trong làng
khinh rẻ, chê bai. Càng về sau, do đói kém, chiến tranh loạn
lạc, số dân li tán càng nhiều đồng nghĩa với sự gia tăng số dân
ngụ cư. Nhà nước mới cho lập sổ dân ngụ cư. Vị trí dân ngụ cư
được nâng lên một bậc. Khả năng họ trở thành dân chính cư
cao hơn nhưng vẫn rất khó bởi thường có hai cách là dùng số
tiền lớn để mua hoặc kết hôn với con cái nhà có địa vị trong
làng.
1.2. Về văn hoá tín ngưỡng
Đình là nơi sinh hoạt văn hoá của cả làng. Thường mỗi làng có
một ngôi đình, thờ một vị thành hoàng. Dân gian đã có câu:
“Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”.
Cùng đó mỗi làng có một lễ hội khác nhau. Thời gian và cách

thức tổ chức lễ hội phụ thuộc vào mỗi vị thánh làng thờ.
Mỗi làng xã có cá tính khác nhau. Thậm chí nhờ vào tính cách
đặc trưng đó của làng, người ta có thể nhận biết được làng.
Chúng ta đã từng nghe những câu tục ngữ như; “Trai Cầu
Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ Cầu Lim”, “Văn chương Xuân Mỹ, lý
sự Thuỷ Khê”, “Chua ngoa là đất Kẻ Đình, dài váy Đốc Tín, cậy
mình Kẻ Siêu”…
1.3. Về lệ tục của làng: điều này thể hiện rõ nhất qua hương
ước làng. Làng nào cũng có hương ước riêng với những quy
định không giống nhau. Nhiều khi hương ước của làng này đề
cập đến một số vấn đề mà hương ước làng khác không có,
thậm chí có trường hợp hương ước làng này trái hẳn với hương
ước làng kia. Mặt khác, trải qua thời gian và tác động của
nhiều yếu tố, mỗi làng có sự biến đổi khác nhau, kéo theo đó
là sự thay đổi không giống nhau của hương ước mỗi làng. Vì
hương ước là để quản lý làng xã, nên khi làng xã có biến đổi,
hương ước cũng phải được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Những lần sửa đổi này nhiều khi làng xã không trình báo lên
chính quyền phong kiến cấp trên. Những điều này càng làm
tăng tính khác biệt giữa hương ước của các làng xã.
2. Tính tự trị của làng xã thể hiện qua mối quan hệ giữa
làng với nước
2.1. Qua tính chất bộ máy quản lý làng xã
Mỗi làng xã có hai cơ quan quản lý. Đó là cơ quan của nhà
nước, đứng đầu là các xã quan (xã trưởng, sau này là các lý
dịch: lý trưởng, phó lý, hương thân, hương hào, khán thủ,
hương trưởng) và Hội đồng kỳ mục của làng xã đứng đầu là
các tiên thứ chỉ (thường là quan lại về hưu, người cao tuổi
trong làng…). Vậy, muốn xét tính chất độc lập của làng xã
trong mối quan hệ với nhà nước, ta có thể xét tầm quan trọng

của các xã quan ra sao?
Từ thế kỷ XI, Khúc Hạo bắt đầu đặt xã quan, đánh dấu bước
khởi đầu nhà nước chính thức can thiệp vào đời sống làng xã.
Từ đó đến giữa thế kỷ 18, các vua liên tục đặt các chức xã
quan (xã trưởng, xã xử, xã tư). Thực ra, trong khoảng 500
năm đó, các xã quan chỉ tồn tại gián đoạn và nhìn chung là bị
nhà nước coi nhẹ nên không chiếm địa vị quan trọng. Lúc đầu
các xã quan được xếp vào hạng ngũ phẩm trở lên hoặc lục
phẩm trở xuống. Sau đến đời nhà Lê đổi các xã quan thành xã
trưởng, xã trưởng được chọn trong các nho sinh và sinh đồ.
Sau đó 10 năm, đời Cảnh Trị (1663-1672), các xã quan lại một
lần nữa bị hạ thấp tầm quan trọng khi xã trưởng chỉ còn được
chọn trong “các con em nhà lương thiện” không có văn bằng
chức phẩm gì. Từ giữa thế kỷ XVIII, các xã quan bị bãi bỏ, việc
đặt xã trưởng do dân bầu. Như vậy, việc làng xã chấp nhận xã
quan vào hàng ngũ cai trị trong làng có nghĩa là làng xã không
còn tính tự trị độc lập. Nhưng các xã quan chỉ thực hiện một số
công việc cụ thể liên quan với nhà nước. Vai trò quản lý làng
xã vẫn nằm chủ yếu trong bộ máy quản lý truyền thống của
làng. Cho nên làng xã so với nhà nước vẫn có một sự tự do
nào đó, không còn tự trị độc lập, cũng không phụ thuộc hoàn
toàn. Đó chính là sự tự trị tương đối của làng xã.
Từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, tính chất tự trị của
làng xã càng trở nên rõ rệt hơn. Sự can thiệp của nhà nước
vào làng xã không mạnh mẽ như trước vì nhà nước phong kiến
trung ương tập quyền đi vào con đường suy yếu, bế tắc. Nó
tạo ra một sự thoả hiệp nửa vời nhưng có hiệu quả giữa nhà
nước và các làng xã.
Giai đoạn này, làng xã tự đặt các xã quan, được gọi là bộ phận
lý dịch, sau đó trình lên chính quyền Nhà nước cấp trên để nhà

nước chính thức thừa nhận. Qua cách thức này, chúng ta thấy
xã quan “xếp sau” bộ phận cai trị truyền thống của làng đó là
tiên thứ chỉ, hương chủ… và quan viên bô lão.
Thực tế cho thấy, các lý dịch không bao giờ được nắm quyết
định tối hậu cho mọi việc trong làng. Xã trưởng hay lý trưởng
hoàn toàn không phải người đứng đầu một làng. Vai trò đó
thuộc về tiên chỉ, thứ chỉ hay hương chủ.
Trong sự sắp xếp ngôi thứ tại làng, các lý dịch chỉ xếp ở hàng
thứ ba thứ tư. Trong các kỳ hương ẩm, miếng ăn và chỗ ngồi
thể hiện rõ địa vị và ngôi thứ trong làng. Ở đình làng, gian
giữa là chỗ trọng nhất, đến gian tả, sau cùng là gian hữu. Lý
dịch và hương chức chỉ được ngồi gian hữu cùng với hạng vũ
biền. Gian tả dành cho các văn khoa. Gian chính giữa dành cho
các quan to, quan chức, bô lão. Về chia phần: thủ lợn dành
cho tiên chỉ, chức sắc; lý trưởng được một miếng thịt… Các
quyền lợi khác, lý dịch đều được hưởng kém phần so với các
chức sắc truyền thống của làng.
Về phẩm trật của lý dịch: xã quan từ được xếp hàm tứ ngũ lục
phẩm ở thế kỷ XIII, xuống tòng cửu phẩm đầu thế kỷ XIX-
phẩm cấp cuối cùng trong hàng quan lại. Đến đời Minh Mệnh,
xã quan không được ban phẩm hàm. Lý dịch hạ vai trò tới mức
thấp nhất, chỉ còn là một bộ phận nằm trong bộ máy quản lý
làng xã. Điều đó có nghĩa là sự can thiệp của nhà nước vào
làng xã (thông qua xã quan) bị suy yếu, đồng nghĩa với việc
làng xã tăng cường tính chất tự trị tự quản. Thêm vào đó là
quyền lực lý dịch được gia tăng trong đời sống xã thôn làm cho
tính tự trị của xã thôn tăng lên gấp bội.
Hội đồng chức dịch chỉ đóng vai trò là bộ phận trung gian giữa
làng xã và nhà nước. “Lý trưởng là người mối giới giữa chính
phủ với làng xã. Lý trưởng phải giữ các công văn địa bạ, các sở

thuế của làng và các lệnh truyền của chính phủ”[2]. Hội đồng
kỳ mục có tính tự trị, tự quản cao hơn, chi phối cả hội đồng
chức dịch.
Như vậy bộ máy quản lý làng xã gồm cả lý dịch vẫn biểu hiện
như một bộ máy tự quản của làng xã. Thậm chí có khi sự có
mặt của lý dịch lại làm tăng thêm tính tự trị của làng xã như
trên vừa nói. Chỉ dưới thời thực dân, hào lý tác yêu tác quái
với tư cách nhà nước để đàn áp xã dân. Pháp muốn gia tăng
quyền lực cho bọn này để làm công cụ cho pháp đàn áp xã
dân, triệt tiêu các phong trào phản kháng. Song cuối cùng
chúng cũng thất bại.
Thực dân Pháp muốn tăng cường quyền lực của chúng ở làng
xã để kiểm soát được làng xã. Năm 1921, chúng giải tán hội
đồng kỳ mục. Cho rằng làng xã có tổ chức chặt chẽ là do
mỗi làng đều có một vài dòng họ lớn nắm giữ, cho nên chỉ
cầm nắm được những trưởng dòng họ này là có thể nắm được
nông thôn. Vì vậy chúng thành lập hội đồng tộc biểu, tập hợp
những người đứng đầu dòng họ. Nhưng đó là một nhận biết sai
lầm của Pháp về làng xã Việt Nam. Làng Việt Nam không đơn
giản là do các dòng họ hợp thành mà như trên đã nói, “làng
Việt Nam, đa nguyên và chặt”. Nó gồm rất nhiều tổ chức, các
mối quan hệ đan xen chồng chéo. Người đứng đầu làng là tiên
chỉ, thứ chỉ, hương chức và cả bô lão. Việc các trưởng họ lên
nắm quyền đã gây sự phản đối gay gắt của các tiên thứ chỉ.
Chính vì thế, âm mưu và kế hoạch của Pháp thất bại. Sau 6
năm, đến năm 1927, Pháp phải tái lập hội đồng kỳ mục bên
cạnh hội đồng tộc biểu. Và đến năm 1941, Pháp phải giải tán
hội đồng tộc biểu, duy trì hội đồng kỳ mục.
Chúng ta có thể khẳng định, tính tự trị tự quản của làng xã
một phần thể hiện ở tính chất bộ máy quản lý. Một khi tính tự

trị của làng xã còn mạnh mẽ thì không thể xoá bỏ bộ máy
quản lý đó.

2.2. Qua hương ước
Chúng ta đã biết, làng xã từ xa xưa đã có các quy ước và quản
lý nông dân theo các quy ước đó. Đó chính là lệ làng. Hương
ước ra đời là văn bản hoá lệ làng. Đó là sự khẳng định thêm
một lần nữa tính tự quản của làng xã.
Nhà nước trung ương đã thấy rõ tính tự trị của nhà nước thể
hiện qua hương ước. Đồng thời còn thấy rõ sự phân tán quyền
lực do tính chất đó của làng xã-mối nguy hại tới chính quyền
trung ương tập quyền. Chính vì vậy, chính quyền đã khuyên
rằng “các làng xã không nên có khoán ước riêng”, mà nên thực
hiện theo luật nước. Sách Hồng Đức thiện chính thu có ghi
“nhà nước có điều luật để chiếu vào đó mà thi hành; dân an
nước thịnh không nên có khoán ước riêng, để trừ bỏ cái hại,
theo chính bỏ tà…”[3]. Nhà nước tỏ thái độ hai mặt đối với
hương ước là vừa ngăn cản, vừa lợi dụng hương ước để can
thiệp vào làng xã. Dùng hương ước để lệ làng hoá phép nước
“Nước có luật lệ của nước, làng có hương ước riêng” hay “Nhà
nước có pháp luật quy định, còn dân có những điều ước
riêng”…. Ngay từ phần mở đầu của hương ước đã khẳng định vị
trí độc lập tương đối của làng với nhà nước. Như chúng ta đã
biết, từ thế kỷ XV, nhà nước ngày càng can thiệp sâu vào đời
sống làng xã bằng cách đặt hệ thống xã quan song song với hệ
thống quản lý cổ truyền của làng xã. Vậy mà mỗi làng xã đều
khẳng định một cách dứt khoát “quyền tự trị” của mình bằng
lời “tuyên ngôn” mở đầu cho “bộ luật” của nó[4]. Làng xã công
khai tuyên bố quyền tự trị của mình với nhà nước và được nhà
nước thừa nhận. Bằng chứng là hương ước của tất cả làng xã,

sau khi được lập, đều trình lên chính quyền phong kiến cấp
trên phê duyệt rồi mới chính thức thi hành, hoàn toàn không
có sự “dấu giếm” gì với nhà nước.
Xét về nội dung của hương ước, những điều khoản ghi trong
hương ước nhiều khi khác xa so với luật pháp nhà nước.
“Những điều khoản của hương ước đã được cụ thể hoá, căn cứ
vào đặc điểm của từng làng, để cuối cùng chỉ còn là
những “bóng hình” mờ nhạt của luật nước”[5]. Tinh thần
của luật nước được thể hiện trong hương ước chỉ qua những
quy định về việc thực hiện các nghĩa vụ về sưu thuế, phu dịch
hay việc chia cấp ruộng đất công, bầu cử bộ máy chính quyền
nhà nước ở làng…Những mặt này do nhà nước cố tình áp đặt
vào hương ước. Còn lại hầu hết các điều khoản còn lại của
hương ước chỉ liên quan tới đời sống của làng. Những điều quy
định này là những cái “thâm căn cố đế” khó có thể lay chuyển
được. Ví dụ như trong cải lương hương chính năm 1921 của
Pháp. Pháp muốn qua đợt cải lương hương chính này để nắm
làng xã. Một phần chúng đã thành công như tăng cường quyền
lực của bộ máy quản lý nhà nước ở làng xã, quy định cách lập
hương ước (gồm hai phần chính trị và tục lệ)…còn các vấn đề
chia ruộng đất công, tổ chức cưới xin, ma chay, thờ cúng… thì
chúng đành cho “từng làng giải quyết”, làm thế nào cho giảm
tổn phí thì làm. Chúng không thể nào can thiệp vào được.
Tính tự trị của làng xã thông qua hương ước còn thể hiện ở mối
quan hệ giữa các nho sĩ-những người soạn thảo ra hương ước
với làng xã. Khi nhà nước bắt buộc phải chấp nhận hương ước
thì ra điều kiện là phải do những nho sĩ trong làng soạn thảo
và trình lên nhà nước. Như vậy để nhà nước thực hiện “nho
giáo hoá” đời sống làng xã. Nhưng nho sĩ cũng là thành viên
của làng xã, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ mọi mặt đời sống làng

xã, thậm chí ảnh hưởng cả về mặt tâm lý làng xã. Lợi ích của
họ gắn liền với lợi ích của làng xã. Bởi vậy, với nho sĩ nhiều khi
việc làng còn “to” hơn việc nước. Như vậy, đương nhiên hương
ước do họ soạn thảo cũng phải rất chú trọng tới lợi ích của làng
xã.
Thường thì hương ước được thi hành theo đúng nguyên tắc
không trái với luật nhà nước. Nhưng đôi khi vẫn xảy ra trường
hợp lệ làng được coi trọng hơn phép vua luật nước. Hương ước
của làng nào cũng ngăn cản và “trừng phạt” những người
“vượt làng” đi kiện cáo lên quan trên. Người phạm tội, nhà
nước xử theo luật nước, làng xử theo lệ làng. Có những hình
phạt trong luật nước không có mà hương ước làng lại có như:
trừng phạt bằng cách tẩy chay đám tang,… Thêm vào đó là
trong xã hội nông thôn truyền thống, đa số người nông dân
sống khép kín, cả đời chẳng mấy khi bước chân ra khỏi làng. Vì
vậy họ thường sống theo lệ làng mà ít biết đến, ít tuân thủ luật
pháp nhà nước. Tính tuỳ tiện, không tuân thủ luật pháp của
nông dân đến nay vẫn còn nặng nề.
Hương ước ra đời là kết quả của sự thoả hiệp giữa tính tự trị
của làng xã và tính áp chế của chính quyền nhà nước. Có thể
nói nó thể hiện rất rõ tính tự trị của làng xã đối với nhà nước.
Hầu hết làng xã truyền thống ở Bắc và Trung Bộ đều có hương
ước để quản lý làng mình thật chặt chẽ. Làng xã thay đổi thì
hương ước sẽ được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp với
tình hình mới. Nếu vì một lý do nào đó làng mất hương ước thì
sau đó sẽ nhanh chóng được lập lại.
III. Hai mặt của tính tự trị của làng xã Việt Nam
1. Tích cực
Có thể thấy tác dụng tích cực nhất của tính tự trị làng xã là
làm cho nội bộ làng xã có một sự cố kết chặt chẽ mà khó có

thế lực nào có thể phá vỡ. Nó làm nên sức sống lâu bền của
làng. Điều này có ý nghĩa lịch vô cùng lớn lao, thể hiện rõ
nhất là khi đất nước bị nạn ngoại xâm, các đô thị nhanh chóng
rơi vào tay giặc, nhưng làng thì không. Có thể nói mỗi làng xã
Việt Nam là một pháo đài kiên cố chống giặc. Làng xã hoàn
chỉnh như một cơ thể. Cơ thể này không những có “cá tính”
như trên chúng ta đã nói mà nó còn biết và chủ động tự bảo
vệ mình khỏi các thế lực khác. Trong lịch sử Việt Nam đã có
hàng ngàn làng chiến đấu điển hình. Giáo sư Trần Quốc Vượng
nói: “1000 năm Bắc thuộc, ta giành lại được độc lập là do ta
mất nước nhưng không mất làng”. Đến thời Pháp thuộc, nhà
cầm quyền thực dân cũng xác định rõ rằng làng xã là nơi
chúng không thể “đụng chạm” tới. Toàn quyền P.Pasquier nhận
định: “Làng xã là nước cộng hoà nhỏ…một tổ chức phức tạp
như thế, dân chủ như thế, một tổ chức mà trong đó không bao
giờ kỳ mục được phép hành động đơn độc, một tơ chức đã tồn
tại theo truỳên thống từ thời rất xa xưa, tổ chức đó chúng ta
không nên đụng chạm tới kẻo làm xứ sở rối loạn…”
Nhờ làng xã có tính tự trị tương đối góp phần làm cho đất
nước có một nền văn hoá phong phú, đa dạng. Chúng ta đã có
những làng văn hoá với những nét văn hoá đặc trưng nổi bật.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, nó không bị văn hoá của tổ
chức xã hội khác đồng nhất. Nó không bị xoá bỏ bởi văn hoá
làng khác, vùng miền khác, hay sự can thiệp của chính quyền
trung ương, thậm chí là chính quyền của ngoại xâm. Tiêu biểu
là thời Bắc thuộc hàng ngàn năm. Đó là thời kỳ bọn phong kiến
phương Bắc tiến hành đồng hoá văn hoá Việt Nam một cách ồ
ạt, dữ dội (bắt dân ta để tóc, mặc đồ Trung Quốc, dùng chữ
Hán, tổ chức những ngày lễ tết của người Hán…) nhưng cuối
cùng chúng đã thất bại trước hàng ngàn làng văn hoá truyền

thống nước Nam. Truyền thống đó được gìn giữ lâu đời và vô
cùng vững chắc nhờ làng xã, văn hoá ngoại lai khó có thể xâm
nhập.
Với tính tự trị tự quản của mình, làng xã là nơi bảo lưu tốt
nhất những giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp, đáng quý để
cho con cháu đời sau noi gương học tập như: truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm, truyền thống giữ đạo hiếu, nhân
nghĩa, truyền thống học tập…
2. Tiêu cực
2.1. Làng xã là công cụ của chính quyền trung ương nhằm bóc
lột nông dân. Trong thời kỳ phong kiến, nhà nước luôn dựa vào
làng xã để thu cống phú, thuế má, binh dịch. Đến thời Pháp,
khi mới đặt nền đô hộ trên đất nước ta, chúng đã có ý thức lợi
dụng bộ máy và cơ chế quản lý cũ của làng xã để vơ vét tiền
của của nhân dân. Toàn quyền P.Doumer cũng giống như nhà
nước phong kiến đều cho rằng: “Nhờ cơ cấu vững chắc của
làng xã An Nam…trước mắt chúng ta không phải là hàng triệu
cá nhân mà chỉ có vài ngàn tập thể tổ chức chặt chẽ và có kỷ
luật, liên hệ với chúng ta theo từng đơn vị khối mà chúng ta
chỉ biết có hội đồng kỳ mục mà thôi”
2.2. Tính tự trị của làng xã luôn có xu hướng làm cho làng xã
hoạt động độc lập hoàn toàn, xa rời quỹ đạo quản lý của nhà
nước. Trong thời kỳ phong kiến, như trên đã nói, khi có giặc
ngoại xâm, sự cố kết các làng xã là cao nhất đê cùng nhau
chống giặc, bảo vệ đất nước. Nhưng kết thúc chiến tranh, sự
phân rã vô cùng lớn hơn lúc nào hết. Có thể nói, trong thời
bình, sự cố kết giữa các làng xã rất lỏng lẻo, mà khi đó chính
quyền trung ương tập quyền lại suy yếu, không đủ sức kiểm
soát nổi làng xã thì điều tất yếu là trong nước sẽ sinh biến
loạn. Ví dụ như cuối thời Trần (cuối thế kỷ 13-14), xã hội có

nhiều rạn nứt. Mô hình tập quyền thân dân của nhà Trần bị
khủng hoảng. Chính quyền trung ương không thể kiểm soát
được làng xã. Hậu quả là triều Trần sụp đổ.
Chúng ta vẫn nghe câu “phép vua thua lệ làng”. Thật ra nói
như vậy cũng hơi cường điệu vị trí của làng xã. Lệ làng thế nào
thì cũng không được trái với phép nước. Nhìn chung là hương
ước của làng xã thống nhất với pháp luật của nhà nước. Cơ cấu
quyền lực của làng xã là quyền lực kép, có sự hoà hợp của
quyền tự trị và quyền nhà nước. Nhưng câu nói đó đúng trong
trường hợp nhà nước yếu, không quản lý nổi làng xã như trên.
Khi đó, làng xã tự do vận hành theo tục lệ riêng, theo sự điều
khiển của một số cá nhân chức sắc trong làng, bất chấp cả
phép nước.
2.3. Tính tự trị của làng xã là nguồn gốc và là kẻ nuôi dưỡng
chủ nghĩa địa phương, cục bộ. Vì bản chất của làng xã là “một
sự cố kết có tính chất địa phương” như Ph.Ăng-ghen nhận
định. Nó hình thành “tâm lý làng”, “giá trị làng” và chỉ có làng
mình là hơn cả. Nó không dễ gì chấp nhận những văn hoá tiến
bộ từ bên ngoài. Chúng ta đã nghe những câu như: “Khôn
ngoan ở đất nhà bay. Dù che ngựa cưỡi đến đây cũng hèn”,
hay câu “ta về ta tắm ao ta. Dù trong dù đục ao nhà vẫn
hơn”… Ta còn thấy nhiều xung đột, mâu thuẫn gay gắt giữa
các làng vì làng nào cũng chỉ biết đến lợi ích trước mắt của
làng mình, không quan tâm tới lợi ích làng khác. Nguy hiểm
hơn là trường hợp chủ nghĩa địa phương của làng nhiều khi
không biết tới lợi ích của đất nước, gây ra sự phân rã lớn trong
nội bộ đất nước. Hay trong việc kiểm soát ruộng đất và số dân.
Cho đến tận thời Pháp thuộc, nhà nước đã không thể nào nắm
được con số thực tế về số ruộng và số dân trong làng. Nhà
nước thường dựa vào hai mặt này để đánh thuế, phu dịch. Hầu

như các làng đều khai man số ruộng để trốn thuế, khai man số
đinh để trốn phu dịch. Nhà nước có biết đìêu đó, cũng đành lấy
diện tích và dân số cố định của làng vào năm điều tra để làm
chuẩn. Nhiều làng còn phản đối nhà nước bằng cách “giải toả”
làng, dân đi phiêu tán. Đến khi nhà nước chấp nhận số thuế và
số đinh theo yêu cầu của họ thì họ mới trở về lập lại làng. Tuy
trường hợp này không phổ biến rộng nhưng cũng không phải là
ít xảy ra. Tình trạng khai man này làm nảy sinh “tệ điêu hào”
rất phổ biến trong làng xã. Đó là các chức sắc trong làng khai
man để thu lợi vào túi mình. Chúng rất lộng hành, hành động
tuỳ tiện, không tuân theo pháp luật, gây ra nhiều nhũng nhiễu
trong làng xã.
2.4. Làng xã với tính tự trị của nó bảo lưu rất tốt các giá trị
truyền thống nhưng đồng thời nó cũng lưu giữ những hủ tục
“thâm căn cố đế”, không dễ dàng xoá bỏ vì nhà nước có muốn
can thiệp vào cũng không đơn giản. Như những hủ tục về khao
vọng, cưới xin, ma chay cỗ bàn đình đám, trọng nam khinh nữ,
đông con nhiều của… mà đến ngày nay chúng ta vẫn chưa xoá
bỏ được hết, thậm chí để xoá bỏ được một vài hủ tục cũng rất
khó khăn và mất một thời gian không phải là ngắn.

IV. Kết luận
1. Tính tự trị của làng xã dù có mặt tích cực hay tiêu cực
thì cũng tồn tại một cách tất yếu. Xã thôn còn thì tính tự trị
vẫn còn. Thời phong kiến, trong làng ngoài bộ phận tự trị có
thêm bộ phận chính quyền nhà nước chồng xếp lên nhau tạo
nên một kết cấu quyền lực kép. Đến năm 1945, kết cấu này bị
bãi bỏ vì cấp xã lúc này là một đơn vị chính quyền liên làng
(khoản 5-6 làng). Bộ phận tự trị của làng bị giải thể. Nhưng từ
đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20 về sau, làng thôn được tái lập.

Cùng với nó là tính tự trị tự quản của làng xã cũng được phục
hồi. Nhiều làng lại có ban tự quản và lập lại hương ước mới.
2. Vì tính tự trị của làng xã có tác động hai mặt tới sự phát
triển của đất nước, nên vấn đề làm sao để phát triển xã hội
nông thôn cho phù hợp, phải rất chú trọng tới tính chất này
của làng xã. Vì nếu phát huy được nhân tố tích cực thì hiệu
quả đạt được sẽ rất tốt đẹp. Nhưng ngược lại chúng ta sẽ phải
chịu hậu quả vô cùng nặng nề, có thể xảy ra một cuộc khủng
hoảng chính trị xã hội sâu sắc mà không dễ gì giải quyết được.
3. Ngày nay chúng ta vẫn đề cao tính tự trị của làng xã vì
đó là nhân tố giúp ổn định xã hội nông thôn nước ta. Nhưng
phải tạo điều kiện để phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế
tiêu cực của tính tự trị. Tạo điều kiện xây dựng và thực hiện
các hương ước mới, các quy chế về nếp sống văn minh ở thôn
xã. Nhà nước cần sớm nghiên cứu đề ra quy chế thích hợp về
chức năng, vai trò của cấp thôn, ấp, bản phù hợp với tình hình
của từng vùng.





Tài liệu tham khảo

1. Phan Đại Doãn, Làng xã Việt Nam - một số vấn đề kinh
tế-văn hoá-xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001.
2. Phan Đại Doãn, Mấy vấn đề văn hoá làng xã Việt Nam
trong lịch sử, NXB CTQG, H.2004
3. Phan Đại Doãn, Quản lý xã hội nông thôn nước ta hiện
nay-một số vấn đề và giải pháp, Hà nội, 1996

4. Bùi Xuân Đính, Hương ước và quản lý làng xã, NXB
KHXH, Hà nội, 1998.
5. Bùi Xuân Đính, Lệ làng phép nước, NXB Pháp lý, Hà nội,
1985
6. Lê Doãn Tá, Đinh Xuân Lâm (cb), Một số chuyên đề về
lịch sử Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 1997
7. Viện sử học, Nông thôn Việt Nam trong lịch sử TII, NXB
KHXH, Hn.1978
8. Diệp Đình Hoa (cb), Tìm hiểu làng Việt, NXB KHXH,
H.1990
9. Làng văn hoá cổ truyền Việt Nam, NXB Thanh Niên, Hà
nội, 2000


×