Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Đề tài: " Xuất khẩu chè - hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.41 KB, 34 trang )



nguyÔn thu thuû - nn 42a







Luận Văn Tốt Nghiệp

Đề tài:
Xuất khẩu chè - hướng phát triển quan trọng
của ngành chè Việt Nam







nguyÔn thu thuû - nn 42a


Mục lục
Phần I: lời nói đầu 1
Phần II: nội dung 2
Chương 1: cơ sở lý luận chung của xuất khẩu chè 2
I. vai trò của xuất khẩu chè trong nền kinh tế quốc dân 2
1. Sự ra đời của ngành chè 2


2. Vị trí của xuất khẩu chè 3
3. Vai trò của xuất khẩu chè 5
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu chè 6
1. Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè 6
2. Chất lượng chè 8
3. Chính sách của nhà nước 10
4. Hệ thống tài chính của nhà nước 11
chương 2: thực trạng xuất khẩu chè của việt nam 13
I. thực trạng xuất khẩu chè của việt nam 13
1. Phân tích kết quả tổng quát về xuất khẩu chè 13
2. Phân tích kết quả xuất khẩu chè theo chủng loại sản phẩm 15
3. Phân tích kết quả xuất khẩu chè theo thị trường tiêu thụ 18
II. Đánh giá chung 19.
1. Những mặt tích cực 19
2. Những mặt còn hạn chế 20
chương 3: phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của việt nam trong thời
gian tới 24
I. phương hướng của ngành chè việt nam trong những năm sắp tới 54
1.Về sản xuất chè 24
2.Về công nghiệp chế biến chè 25
3. Về xuất khẩu chè 25
4. Về lao động 25
II. những biện pháp chủ yếu để thúc đẩy xuất khẩu chè của việt nam trong thời gian
sắp tới 25


nguyÔn thu thuû - nn 42a


1. Quy hoạch lại các vùng trồng chè, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm

25
2. Mở rộng thị trường tiêu thụ 29
3. Bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với người trồng chè. 30
4. Cải thiện hệ thống tài chính cho hoạt động xuất khẩu 30
phần III: kết luận 32
Danh mục tài liệu tham khảo


nguyÔn thu thuû - nn 42a


Phần I: lời mở đầu
Mang ảnh hưởng của tính chất kinh tế thị trường, nền nông nghiệp nước ta chuyển
dần từ tự cung tự cấp sang sản xuất nông sản hàng hoá với sản lượng và chất lượng
ngày càng được nâng cao, cải thiện rõ rệt. Song song với việc phát triển sản xuất nông
sản hàng hoá là mở rộng và phát triển thị trường đầu ra cho các mặt hàng này.Hướng
đi quan trọng của đổi mới và phát triển nông nghiệp - nông thôn chính là chiếm lĩnh
thị trường trong nước, mở rộng và nâng cao vị thế trên thị trường xuất khẩu cho các
mặt hàng nông sản phẩm - mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Đánh giá chung mặt hàng nông sản phẩm xuất khẩu của nước ta đang từng bước
khẳng định được lợi thế so sánh với xuất phát điểm Việt Nam là một nước nông
nghiệp.Vị trí số một sẽ dành cho xuất khẩu gạo - đứng thứ hai về trữ lượng xuất khẩu
trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Nhưng bên cạnh đó, chè với đặc thù là cây công nghiệp
ngắn ngày, thích hợp với điều kiện khí hậu và thổ nhưỡng nước ta hứa hẹn sẽ mang
lại một nguồn lợi không nhỏ. Không giống như gạo, nhu cầu sử dụng chè là phổ biến
trên thế giới không phân chia theo vùng địa lý, tôn giáo mà chỉ có sự khác biệt về chất
lượng là yếu tố quyết định duy nhất. Nắm bắt được điều này, chúng ta đ• xác định
được phướng hướng và biện pháp để có thể khai thác được lợi thế vốn có của chính
mình.
Chính vì vậy trong lần viết đề án chuyên ngành em đ• chọn đề tài: Xuất khẩu chè -

hướng phát triển quan trọng của ngành chè Việt Nam. Đề án này được hoàn thành với
sự giúp đỡ của cô giáo - Thạc sĩ Vũ Thị Minh. Nội dung của đề tài này gồm ba phần:
Chương 1 : Cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của Việt Nam trong
thời gian tới.



nguyÔn thu thuû - nn 42a


phần II: nội dung
chương 1: cơ sở lý luận chung về xuất khẩu chè của việt nam.
I.vai trò xuất khẩu chè trong nền kinh tế quốC dân.
1.Sự ra đời và phát triển của ngành chè Việt Nam.
Sau Đại hội lần thứ VI của Đảng, cả nước ta bước vào một thời kỳ đổi mới. Sau khi
tiến hành thành công một thử nghiệm ở giai đoạn trước như: Liên kết công nông
nghiệp (năm 1979 ra đời và hoạt động các xí nghiệp Liên hiệp công nông nghiệp - sản
xuất chè ở trung du miền núi như: Phú Thọ, Yên Bái) cải tiến hệ thống sản xuất và tổ
chức quản lý (1983 - 1986), năm 1987 ngành chè bắt đầu bước vào một giai đoạn tiến
hành những thử nghiệm và đổi mới kinh tế một cách căn bản và hệ thống.
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng ở các tỉnh trung du và miền núi phía
Bắc và Lâm Đồng. Sản xuất trong nhiều năm qua đ• đáp ứng được nhu cầu về chè
uống của nhân dân, đồng thời xuất khẩu đạt kim ngạch hàng triệu USD hàng năm.
Tuy có những thời điểm giá chè thấp làm cho đời sống người làm chè gặp nhiều khó
khăn nhưng nhìn tổng thể cây chè vẫn là cây giữ vị trí quan trọng đối với nền kinh tế
quốc dân và tạo việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho một bộ phận đáng kể
nhân dân ở các vùng trung du, miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi
sinh. Vì vậy việc phát triển

sản xuất chè là một hướng quan trọng nhằm thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của nông
nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta.


Biểu 1: Lực lượng sản xuất của ngành chè Việt Nam trong những năm 2000 2010
Đơn v
ị tính: Nghìn tấn
N¨m
S¶n phÈm
2000

2001

2002
*
2010
*
S¶n l-îng chÌ bóp t-¬i 30



450-500

S¶n l-îng chÌ bóp kh« 12

58


150-180


XuÊt khÈu 55

40

56

110



nguyễn thu thuỷ - nn 42a


Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam, Ghi chú * số -ớc tính và dự báo
Din tớch chố ca c nc hin nay chim t l khỏ ln, nm 1999 l 82 nghỡn ha chố,
nm 2000 l 84 nghỡn ha chố. Trong ú din tớch kinh doanh chim 65 nghỡn ha, din
tớch trng mi l 2,2 nghỡn ha, din tớch k thut c bn l 12,6 nghỡn ha. Sn lng
chố khụ xut khu l 55 nghỡn tn nm 2000, t kim ngch xut khu 63 triu USD.
Nng sut chố bỳp ti nm 1999 l 4,46 tn/ ha. ú l mt thnh tu ỏng k ca
ngnh chố Vit Nam trong cụng cuc ph xanh t trng, i nỳi trc, bo v mụi
trng sinh thỏi, gii quyt vic lm cho ngi lao ng v lm ngha v quc t m
Chớnh ph giao phú. Nm 2001, xut khu c 40 ngn tn t giỏ tr l 70 triu
USD, d tớnh nm 2002 s xut khu c 56 ngn tn.
2.V trớ ca ngnh chố trong nn kinh t quc dõn.
Chố l cõy cụng nghip di ngy, trng mt ln cho thu hoch nhiu nm. Tui th
ca chố kộo di 50 - 70 nm, cỏ bit nu chm súc tt cú th ti hng trm nm. Chố
cú Vit Nam t hng ngn nm nay, mt s cõy chố Sui
Ging (Ngha L) cú tui th 300 - 400 nm. Nhiu nh khoa hc cho rng Vit Nam
l mt trong nhng cỏi nụi ca cõy chố.


Chố l th nc ung cú nhiu cụng c, va gii khỏt, va cha bnh. Ngi ta tỡm
thy trong chố cú ti 20 yu t vi lng cú li cho sc kho, vớ d cafein kớch thớch h
thn kinh trung ng, tamin tr cỏc bnh ng rut v mt s axit amin cn thit cho
c th.
Chố c trng ch yu trung du, min nỳi v cú giỏ tr kinh doanh tng i cao.
Mt ha chố thu c 5 - 6 tn chố bỳp ti, cú giỏ tr ngang vi mt ha lỳa ng
bng v gp 3 - 4 ln mt ha lỳa nng. Vỡ vy cú th núi cõy chố l cõy "xoỏ úi
gim nghốo, iu ho lao ng t ng bng lờn cỏc vựng xa xụi ho lỏnh, gúp phn
phỏt trin kinh t min nỳi bo v an ninh biờn gii.


nguyÔn thu thuû - nn 42a


Sản xuất và xuất khẩu chè thu hút một lượng lao động khá lớn (hơn 22 nghìn lao động
chính kể cả lao động chính, kể cả lao động phụ và lao động dịch vụ là gần 300 nghìn
người với mức thu nhập ổn định và không ngừng tăng (thu nhập bình quần quân toàn
ngành năm 1996 đạt 250 nghìn đồng/người/tháng, năm 9 tăng lên 350 nghìn
người/tháng).
Trồng chè cũng chính là "phủ xanh đất trồng đồi trọc", cải thiện môi trường sinh thái.
Với phương châm trồng chè kết hợp nông lâm, đào d•y hào giữa các hàng chè để giữ
mùn giữ nước, sử dụng phân bón hợp lý ngành chè đ• gắn kết được phát triển kinh tế
với bảo vệ môi trường.
Chè là một sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao và tiềm năng xuất khẩu lớn.
+ Một ha chè thâm canh thu hoạch được 10 tấn búp tươi chế biến được hơn 2 tấn chè
khô, đem xuất khẩu sẽ thu được một lượng ngoại tệ tương đương với khi xuất khẩu
200 tấn than và đủ để nhập khẩu 46 tấn phân hoá học.
+ Trên thế giới có khoảng 30 nước trồng chè nhưng có tới 100 nước uống chè. Như
vậy tiềm năng về thị trường của chè Việt Nam rất dồi dào. Tuy nhiên, tốc độ phát
triển cây chè của nước ta so với thế giới còn chậm. Năm 1939, Việt Nam xuất khẩu

2400 tấn chè - đứng hàng thứ 6 trên thế giới. Đến nay, Việt Nam xuất khẩu được hơn
20.000 tấn chè - đứng hàng thứ 17. Có thể thấy, trong vòng 60 năm, sản lượng xuất
khẩu của nước ta tăng 8 lần những vị trí đ• tụt đến 10 bậc.
+ Sản xuất chè của ta có nhiều thuận lợi: Điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu rất thích hợp
với cây chè. Quỹ đất trồng chè lớn (khoảng 20 vạn ha) trong khi hiện nay ta mới chỉ
trồng được khoảng 7 vạn ha. Bên cạnh đó, lao động vốn là lợi thế so sánh của nước ta,
đặc biệt là lao động nông nghiệp với kinh nghiệm lâu đời trong trồng về chế biến chè.
Tóm lại, có thể kim ngạch xuất khẩu chè còn kém xa các mặt hàng mũi nhọn khác
(dầu mỏ, than, gạo) nhưng xét đến những tác động tích cực của nó về mặt x• hội và để
tận dụng mọi nguồn lực hiện có, chúng ta nên tiếp tục phát triển sản xuất và xuất khẩu
chè trong thời gian tới.


nguyÔn thu thuû - nn 42a


3. Vai trò của xuất khẩu chè
chè là một cây công nghiệp dài ngày, thích hợp với khí hậu và đất đai ở miền núi phía
bắc và trung du của nước ta.Cây chè còn đem lại nhiều nguồn lợi cho chúng ta việc
xuất khẩu đ• có một số vai trò rất quan trọng như:
- để phục vụ cho việc xuất khẩu chè thì trước hết chúng ta phải có các vùng chuyên
trồng cây chè, như đồi núi ở trên thì cây chè thường phân bố ở trung du và miền núi.
Đây là những nơi mà việc trồng lúa rất khó khăn. Do vậy cây chè đ• trở thành một
trong những cây chủ lực ở những khu vực này để xoá đói giảm nghèo, tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho những người sống ở khu vưc này, tránh được hiện tượng nông
nhàn trong nộng nghiệp và nó còn tạo ra một lượng thu nhập đáng kể cho những
người trồng chè, góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân ở vùng miền núi vốn rất
khó khăn và cuộc sống rất cực nhọc. Do vậy việc xuất khẩu chè có một vai trò to lớn
trong việc tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Không những nó có vai trò về
kinh tế mà nó còn có vai trò về an ninh quốc phòng, việc định canh định cư của các

người trồng chè trên những vùng cao và hẻo lánh đ• đảm bảo được an ninh biên giới
của nước ta.
Việc trồng chè để xuất khẩu cũng có một vai trò to lớn trong việc bảo vệ môi
trường sinh thái. Như chúng ta đ• biết hiện nay hoạt động chặt phá rừng ngày càng
diễn ra mạnh mẽ công với việc du canh du cư chặt nương phá rẫy của một số các đồng
bào dân tộc đ• hủy hoại môi trường sống của chúng ta. Việc trồng chè để phục vụ xuất
khẩu đ• phủ xanh đất trống đồi núi trọc, còn góp phần điều hoà không khí, ngoài ra
cây chè còn một số tác dụng trong ngành y học.
- Xuất khẩu chè tạo ra một nguồn vốn đáng kể cho đất nước, góp phần vào công cuộc
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Chè là một trong những mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực của nước ta, hàng năm mang về cho đất nước rất nhiều ngoại tệ để
thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước như: Năm 2000 đ• xuất khẩu được 45
ngàn tấn mang về cho đất nước khoảng 56 triệu USD, năm 2001 đ• xuất khẩu được
40000 tấn tăng 9,94% so với năm 2000 đạt kim ngạch xuất khẩu 70triệu USD, 5 tháng


nguyÔn thu thuû - nn 42a


đầu năm 2002 đ• xuất khẩu được 25000 tấn đạt giá trị 28 triệu USD.Tuy nhữmg con
số này vẫn chưa thực cao trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của chúng ta những
xuất khẩu chè cũng đ• đóng góp một nguồn vốn đáng kể cho đất nước thực hiện sự
nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
Khi xuất khẩu chè thì chúng ta sẽ mở rộng được thị trường tiêu thụ và giao lưu học
hỏi được nhiều bài học kinh nghiệm của các nước bạn. Hiện nay chúng ta xuất khẩu
sang hơn 40 nước khác nhau. Từ đó tạo ra nhiều mối quan hệ kinh tế cho các doanh
nghiệp trong ngành chè nói riêng và các doanh nghiệp trong cả nước nói chung, xuất
khẩu chè ra nhiều thị trường thì làm cho các doanh nghiệp của chúng ta có thể tiếp thu
được các thông tin nhanh hơn, và sáng tạo hơn.
Xuất khẩu chè thì chúng ta đ• tạo ra sự ổn định cho những người trồng chè về mặt tiêu

thụ sản phẩn từ đó họ yên tâm hơn với công việc của mình. Do đó chất lượng chè
cũng phần nào được cải thiện từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh chè của nước
ta trên thị trường thế giới. Và khi có thị trường tiêu thụ ổn định thì người trồng chè sẽ
yên tâm và gắn bó với nghề của mình nhiều hơn.
ii.Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu chè
1.Đặc điểm kinh tế kỹ thuật của ngành chè.
a.Mang đặc điểm của ngành sản xuất nông sản phẩm.
- Tính thời vụ: cũng như tất cả các loại nông sản khác thì cây chè cũng mang tính
thời vụ rõ ràng, có thời gian sinh trưởng theo mùa, thường thì cây chè cho thu hoạch
vào mùa hè, không phải mùa nào cây chè cũng cho chúng ta thu hoạch. Do vậy chúng
ta cần nắm rõ các quy luật sản xuất mặt hàng chè. Làm tốt công tác chuẩn bị trước
mùa thu hoạch, đến kỳ thu hái là phải chuẩn bị đầy đủ lao động nhanh chóng triển
khai công tác thu mua và tiêu thụ sản phẩm.
- Tính khu vực: chúng ta cũng biết cây chè không phải là cây trồng ở đâu cũng có
thể sống và cho chất lượng tốt. ở nước ta thì cây chè tập trung ở vùng núi phía Bắc và
Trung Du, nói chung là tập trung ở những vùng cao, và được trồng ở các nông trường


nguyÔn thu thuû - nn 42a


và do nông dân tự trồng hay trồng theo kiểu giao khoán của Tổng công ty chè Việt
Nam. Do đặc điểm này vấn đề đặt ra là việc bố trí địa điểm thu mua, phương thức thu
mua, chế biến và vận chuyển phải phù hợp với đặc điểm này.
- Tính tươi sống: Cây chè là một loài thực vật nên cũng rất dễ bị hỏng, kém chất
lượng, tuỳ theo địa hình và khí hậu ở các nơi khác nhau mà cho chất lượng chè của
chúng ta cũng khác nhau, và ở nước ta thì chè được trồng ở Thái Nguyên có chất
lượng tương đối là tốt. Vì vậy khi chúng ta thu mua cần lưu ý phân loại, tốt nhất là
chế biến ngay sau khi thu hoạch là tốt nhất.
- Tính không ổn định: Chè cũng giống như lúa và nhiều loại nông sản khác thường

không ổn định sản lượng lên xuống thất thường, vùng này được mùa vùng kia mất
mùa. Bởi có ý do này là do cây chè cũng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, khi khí
hậu không phù hợp với cây chè thì nó sẽ cho chất lượng kém và sản lượng không cao
như các năm mà thời tiết ưu đ•i.
b. Đặc điểm riêng của ngành chè.
Cây chè thường phân bố ở các đồi núi và cao nguyên. Do đặc điểm này mà nước ta có
thể nói có điều kiện rất thuận lợi cho việc sản xuất và trồng cây chè. Cũng do đặc
điểm này thì yêu cầu đối với ngành chè cần phải có một trình độ thâm canh rất tốt và
phải phù hợp với điều kiện và khí hậu ở các vùng cao này
Ngành chè đòi hỏi phải có một hệ thống thuỷ lợi tốt và hiện đại để có thể đưa nước
lên cao phù hợp với đặc điểm sinh sống của cây chè phục vụ cho việc tưới tiêu thuận
lợi nhất.
Công nghệ chế biến chè phải hiện đại đảm bảo được chất lượng chè theo đúng tiêu
chuẩn. Không giống như các mặt hàng nông sản khác như luá, bông chè thì cần phải
có một quy trình chế biến và bảo quản đúng quy cách và đúng kỹ thuật và nguyên liệu
phải đưa vào chế biến ngay nếu để lâu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng chè, l•ng phí
nguyên liệu


nguyÔn thu thuû - nn 42a


Kỹ thuật chăm sóc cây chè cũng rất phức tạp từ khâu chọn giống tốt đến làm đất trồng
hom, đều phải đúng theo quy trình kỹ thuật và điều này ảnh hưởng đến sự phát triển
của cây chè sau này, mà cây chè không giống như nhiều cây nông sản khác chỉ trồng
một vụ thì vụ sau lại trồng lại, nhưng cây chè thì có tuổi thọ cao thường vài chục năm,
nên nếu làm tốt công đoạn gieo trồng tốt thì cây chè sẽ phát triển tốt và cho năng suất
cao, tuổi thọ sẽ được kéo dài.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng chè
Đây là điều kiện tiên quyết vì công nghệ dù có hiện đại đến đâu cũng không thể tạo ra

sản phẩm tốt từ những nguyên liệu tồi. Chất lượng chè búp tươi được quyết định bởi
các yếu tố:
* Giống chè:
Có nhiều giống chè nhưng một số giống chính đ• chiếm phần lớn diện tích. Phía Bắc
trồng phổ biến 3 giống: Chè Shan ở vùng cao, chè Trung du và PH1 ở vùng thấp.
Ngoài ra còn có các giống mới khác như: LĐP1, LĐP2, TR777, Vân Xương, Bát
Tiên, Ngọc Thuý, Yabukita và 17 giống của Nhật đang khảo nghiệm, chiếm diện tích
chưa đáng kể. Phía Nam có các giống Shan, ấn Độ, TB11, TB14. Trong các giống
trên, giống Trung du chiếm diện tích lớn nhất ( 59% tổng diện tích ), sau đó đến giống
Shan ( 27,3% ) còn lại là PH1 và các giống khác. Chỉ có giống Shan cho chất lượng
khá, còn lại các giống Trung du và PH1 cho năng suất khá nhưng chất lượng không
cao, vị chè hơi đắng, hương kém thơm. Trong những năm qua, Viện nghiên cứu chè
đ• có nhiều cố gắng trong việc nhập nội thuần hoá, chọn lọc cá thể và lai tạo giống
nhằm tạo ra một tập đoàn giống tốt và phong phú, tuy nhiên công tác này diễn ra còn
chậm. Có thể nói giống chè ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng chè xuất khẩu, hiện
nay chúng ta vẫn chưa có nhiều giống chè có năng suất và chất lượng cao ngoại trừ
chè Shan.
* Quy trình thâm canh:


nguyÔn thu thuû - nn 42a


Đầu tư cho trồng và chăm sóc chè đều thấp so với yêu cầu trung bình, đầu tư cho
trồng là 6 - 7 triệu đồng/ ha đạt 40%, và cho chăm sóc là 3 - 3,5 triệu đồng/ ha đạt
80%. ở những vùng nghèo, tỉ lệ này còn thấp hơn, thậm chí có vườn chè nhiều năm
không được bón phân. Quy trình kỹ thuật chưa được thực hiện nghiêm túc, không
thâm canh ngay từ đầu. Bón phân chưa đủ, thiếu cân đối, nặng về phân đạm thiếu hữu
cơ và vi lượng. Cơ cấu phân bón như vậy không những làm nghèo đất, kiệt quệ cây
chè, mà còn làm tăng vị đắng chát, giảm hương thơm của sản phẩm. Cá biệt, một số

đơn vị áp dụng công thức bón phân cân đối đ• tạo nên chất lượng chè rất đặc trưng
như Mộc Châu, Thanh Niên. Đặc biệt, vấn đề nghiêm trọng đáng báo động hiện nay
là việc sử dụng thuốc trừ sâu tuỳ tiện, không đúng liều lượng, chủng loại và quy trình.
Hậu quả là dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm vượt quá mức cho phép; qua kiểm
tra sản phẩm của 5 đơn vị với 15 mẫu, đ• phát hiện 4 mẫu ( 26% ) của 3 đơn vị có dư
lượng thuốc trừ sâu cao.
* Thu hái:
Có thể coi thu hái là khâu cuối cùng trong công đoạn sản xuất nông nghiệp, sản phẩm
của công đoạn này là những búp chè tươi sẽ được dùng làm nguyên liệu cho các công
đoạn sau. Để đảm bảo chất lượng, việc hái chè phải tuân thủ nguyên tắc “một tôm hai
lá” nghĩa là chỉ hái 1 búp và 2 lá non nhất. Trong những năm gần đây, việc hái chè và
thu mua chè búp tươi không theo tiêu chuẩn đ• diễn ra trong hầu khắp cả nước, điển
hình là ở những vùng buôn bán chè sôi động như Yên Bái, Phú Thọ, Lâm Đồng. ở
những vùng này, vào thời điểm chính vụ, nhiều đơn vị không mua được chè B, thậm
chí cả chè C nếu xét đúng tiêu chuẩn. Nhiều nơi không có khái niệm chè A, B. Chè
hái quá già ( 5 - 7 lá ) và lẫn loại đ• gây trở ngại cho quá trình chế biến, thiết bị chóng
hư hỏng và tất cả dẫn đến chất lượng thấp, hàng kém sức cạnh tranh.
* Vận chuyển:
Khi búp chè đ• hái ra khỏi cây thì dù muốn dù không công đoạn chế biến cũng đ•
được bắt đầu, đó là quá trình héo. Từ đây, búp chè đ• phải tham gia vào quá trình với
những đòi hỏi khắt khe về thời gian và điều kiện bảo quản. Chính vì vậy, vận chuyển


nguyÔn thu thuû - nn 42a


chè búp tươi có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm. Hiện nay, khâu vận
chuyển còn có nhiều nhược điểm: thứ nhất, số lần cân nhận, thu mua và vận chuyển
trong ngày ít, thường chỉ 2 lần/ ngày ( so với ấn Độ là 4 - 6 lần/ ngày ), nên chè
thường bị lèn chặt ở sọt hái trong thời gian dài, dẫn đến bị ngốt, nhất là vào mùa hè.

Thứ hai, khoảng cách vận chuyển xa làm kéo dài thời gian vận chuyển. Thứ ba, không
có xe chuyên dùng chở chè và không thực hiện đúng quy trình vận chuyển cũng dễ
gây ôi ngốt dập nát.
3. Môi trường chính trị luật pháp và các chính sách của nhà nước.
Môi trường chính trị và hành lang pháp lý của một quốc gia có ảnh hưởng trực tiếp
tới hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng. Sự ổn
định về mặt chính trị sẽ giúp cho mối quan hệ giữa hai bên được thưc hiện. Chính vì
vậy, trước khi đặt quan hệ với đối tác, các doanh nghiệp cần tìm hiểu và tuân thủ các
quy định của chính phủ các nước liên quan, tập quán và luật pháp quốc tế liên quan
trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp yếu tố chính
trị và pháp luật trở thành tiêu thức buộc các nhà kinh doanh phải tuân thủ khi lựa chọn
thị trường xuất khẩu. Với ngành chè thì cũng vậy khi chúng ta xuất khẩu sang một
nước nào đó thì chúng ta cần hiểu con người và luật pháp ở nước đó, cũng phải tìm
hiểu xem tình hình chính trị ở nước đó như thế nào có ổn định hay không, người dân
ở đó có hay uống chè hay không.
Mỗi một quốc gia đều có các chính sách về xuất khẩu riêng, ở nước ta sau đại hội
Đảng lần thứ IX thì Đảng và Nhà nước ta đ• thực hiện chủ trương khuyến khích các
thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu, và đ• chủ chương thành lập quỹ hỗ trợ xuất
khẩu. Những điều này tạo rất nhiều điều kiện cho các ngành các doanh nghiệp khi
tham gia vào việc xuất khẩu. Những phải nhìn nhận một cách khách quan rằng những
chủ trương của Đảng và Nhà nước vẫn chưa được thực hiện một cách có hiệu quả.
Nhiều mặt hàng không cần phải xuất khẩu qua đầu mối những vẫn phải qua đầu mối,
vừa không những không phát huy được thế mạnh của các doanh nghiệp vừa không
phù hợp với cam kết quốc tế mà nước ta đ• ký trong thời gian qua. Doanh nghiệp


nguyÔn thu thuû - nn 42a


chưa thực sự làm chủ khi xuất khẩu. Các chính sách của nhà nước về xuất khẩu như

thuế quan, hạn ngạch xuất khẩu, giấy phép xuất khẩu.
-Thuế quan: thực chất là dùng thuế này để đánh vào các mặt hàng xuất khẩu, nhưng
hiện nay nhà nước đ• quy định một số mặt hàng khi xuất khẩu không phải chịu thuế
trong đó có mặt hàng chè và điều này tạo điều kiện rất lớn cho ngành chè khi tham gia
vào việc xuất khẩu.
-Hạn ngạch xuất khẩu: quy định của nhà nước về hạn chế xuất khẩu số lượng hoặc giá
trị một mặt hàng nào đó hoặc một thị trường nào đó trong một thời gian nhất định
(thường là một năm ). Như vậy, rõ ràng nếu doanh nghiệp xuất khẩu một hay nhiều
sản phẩm nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch thì tất yếu hạn ngạch được cấp nhiều
hay ít sẽ kéo theo quy mô kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp tăng hay giảm. Và
nếu chúng ta nhìn vào ngành chè thì việc hạn ngạch này hầu như không áp dụng đối
với xuất khẩu chè.
-Giấy phép xuất khẩu: Một số mặt hàng nhà nước quy định trước khi xuất khẩu thì
phải xin giấy phép xuất khẩu, việc này chỉ áp dụng đối với những mặt hàng mà nhà
nước quy định, và những mặt hàng này nhà nước không khuyến khích xuất khẩu, hay
liên quan đến việc an ninh quốc phòng của một đất nước. Còn đối với việc xuất khẩu
chè thì chúng ta không phải xin giấy phép xuất khẩu vì chè nằm trong những mặt
hàng được nhà nước khuyến khích xuất khẩu. Việc này tạo điều kiện rất lớn cho
ngành chè khi tiến hành xuất khẩu và ở nước ta việc xuất khẩu chè thường do Tổng
công ty chè đảm nhiện.
4. Hệ thống tài chính của nhà nước
Có thể nói hệ thống tài chính có ảnh hưởng rất lớn đến xuất khẩu nói chung và xuất
khẩu chè nói riêng, nó thể hiện ở các mặt sau:
- Các chính sách tài chính mà thông thoáng thì việc vay tiền hỗ trợ cho việc sản xuất
sản phẩm để xuất khẩu sẽ trở nên dễ dàng và ngược lại nếu hệ thống tài chính qua


nguyÔn thu thuû - nn 42a



phức tạp thì việc vay vốn của các công ty rất khó vì vậy nó ảnh hưởng đến việc sản
xuất và xuất khẩu của các công ty.
Như chúng ta đ• biết cây chè thì chủ yếu do các nông trường và người dân trồng. Nếu
là những người dân thì việc có thể vay được vốn của các ngân hàng mà đầu tư để phát
triển cây chè thì đó là một điều đáng mừng vì hầu hết các người dân không có vốn
chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước. Nhưng thực tế hiện nay khâu nay vẫn có
nhiều vấn đề nay sinh và chưa đáp ứng được những nhu câù của nhân dân thủ tục vay
vốn quá phức tạp.
Mặc dù hiện nay chúng ta đ• có quỹ hỗ trợ xuất khẩu nhưng tác dụng của quỹ này
chưa cao đặc biệt là đối với các doanh nghiệp tư nhân.
Ngoài những nhân tố chủ yếu trên đây còn rất nhiều các nhân tố khác ảnh hưởng đến
xuất khẩu như: về con người, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và
xuất khẩu, công nghệ chế biến và đặc biệt trong ngành chè thì công nghệ chế biến có
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của chè xuất khẩu.
chương 2: thực trạng xuất khẩu chè của việt nam
I.thực trạng xuất khẩu chè của việt nam
1.Kết quả sản xuất và chế biến chè
*Về sản xuất chè: Việc thực hiện kế hoạch sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm
2002 gặp phải những khó khăn ngay từ ban đầu bởi hạn hán ở nhiều địa phương có
diện tích chè lớn, làm cho khả năng sinh trưởng và khả năng cho búp kém hơn so với
thời kỳ của các năm trước. Song thực thế sức hút thị trường và sự chủ động của các
đơn vị, cây chè đ• được chủ động chăm sóc thâm canh cho sản lượng 6 tháng đầu năm
tương đương so với cùng kỳ năm 2001. Giá thu mua chè nguyên liệu bình quân đạt
cao, từ 1950 – 2100đ/kg, có nơi giá cao hơn như ở: Thái Nguyên, Lâm Đồng từ 2300
– 2500đ/kg. Đây là điều đáng phấn khởi cho người sản xuất nông nghiệp và đảm bảo
được nghị quyết và các cam kết của người sản xuất chè tại Đại hội và các hội nghị


nguyÔn thu thuû - nn 42a



toàn thể Hiệp hội chè khoá 2, 6 tháng đầu năm nay sản lượng sản xuất ra tăng cao so
với cùng kỳ. Nguyên liệu búp tươi tăng so với cùng kỳ 24%. Sản lượng tăng so với
cùng kỳ 25%, trong đó, xuất khẩu tăng 32%, kim ngạch xuất khẩu tăng 27%. Xuất
khẩu 6 tháng đầu năm chủ yếu là chè cấp thấp. Giá chè trong nước vẫn giữ mức như
trước: chè Sen 1700000 đ/kg; chè nhài 150.000đ/kg; chè đặc sản 100.000 -
150.000đ/kg; chè xanh ngon 50.000 - 70.000đ/kg; chè thường 13.000 -14.000 đ/kg.
Đời sống người sản xuất chè được nâng cao, tạo ra không khí phấn khởi trong ngành
chè. Bên cạnh sự sôi động tích cực, còn nhiều điều nảy sinh chưa tốt trong sản xuất
nông nghiệp. Với sự bùng nổ ra đời nhiều doanh nghiệp và hộ chế biến chè trong 3
năm gần đây phân bố không tương xứng với quy mô sản xuất nông nghiệp gây ra sự
cạnh tranh mua bán nguyên liệu. Qua báo cáo hoạt động năm 2001 của Tổng công ty
chè Việt Nam và hơn 31 đơn vị khác cho thấy: tỷ lệ nguyên liệu chủ động tự sản xuất
rất thấp. Tổng công ty chè có sản lượng tự sản xuất chiếm 49,7%, mua ngoài chiếm
50,3%. Các đơn vị ngoài chỉ có 37,2% sản lượng nguyên liệu tự sản xuất còn 62,85
sản lượng thu mua nguyên liệu trôi nổi trên thị trường, lại chưa ký hợp đồng giữa
người sản xuất với người chế biến nên luôn luôn bị động. Sản xuất nguyên liệu 6
tháng đầu năm 2002 cung vẫn trong tình trạng ấy, giá thu mua nguyên liệu không
phản ánh đúng chất lượng, thường lẫn loại vượt từ 1- 2 cấp, với tỷ lệ giá bánh tẻ trong
nguyên liệu phổ biến 50 – 55% thậm chí có nơi chiếm 65- 70% giá bánh tẻ. Chỉ có ít
các đơn vị như Mộc Châu, Long Phú, Lương Sơn có nguyên liệu sản xuất đảm bảo.
Hơn thế ở không ít vùng miền, việc đầu tư chăm sóc chưa thật đầy đủ chỉ đảm bảo 50
- 60% mức quy trình thâm canh cần thiết. Trồng chè hạt vẫn chiếm 30- 40% diện tích.
Phân bón vào đồi chè mất cân đối các yếu tố dinh dưỡng: thuốc trừ sâu phun không
đúng chủng loại quy định, hiện trạng thu hái chỉ sau phun thuốc khoảng 3- 4 ngày vẫn
còn. Thu hái chè thậm chí không cần biết đến loại phẩm cấp nguyên liệu, mua bán
theo giá cả thoả thuận trực tiếp. Gần đây một số đơn vị sản xuất lớn như Mộc Châu,
Trần Phú, Phú Đa, Phù Bền đ• chú trọng việc đầu tư phân tổng hợp đa yếu tố khoáng
cân đối cùng việc đưa phân hữu cơ cho đồi chè là một hướng đi đúng đắn nhằm tổ
chức sản xuất lâu bền, chất lượng và an toàn thực phẩm dần được cải thiện.



nguyÔn thu thuû - nn 42a


* Về chế biến chè: đến nay cả nước đ• có khoảng hơn 250 doanh nghiệp lớn, vừa và
nhỏ, khoảng 1 vạn hộ sản xuất chế biến hộ gia đình, trong đó có hơn 40 doanh nghiệp
quốc doanh trung ương và địa phương. Nhiều đơn vị thuộc tổng công ty đ• có đội ngũ
cán bộ được đào tạo chuyên môn kỹ thuật, quản lý nên đảm bảo thực việc thực hiện
quy trình có tiến độ hơn trước, chất lượng sản phẩn được chú trọng hơn, khắc phục
được 60 – 70% các khuyết tật trong công nghệ như chế biến vận chuyển chè bằng bao
tải, dải chè trên nền đất, bớt được chè cao lửa, giảm nhiều mùi than ướt qua các tiến
độ về sấy, tạo được mặt hàng tốt hơn bằng phương pháp áp dụng cắt nhẹ. Một số nhà
máy như Mộc Châu, Sông Cầu, Nghệ An, Phú Đa đ• xác định rõ trách nhiệm từng
công đoạn, từng ca sản xuất xúc tiến xây dưng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO 9000. Công tác vệ sinh công nghiệp đ• được nhiều nhà máy lớn, các cán
bộ công nhân có ý thức trách nhiệm tốt hơn. Nhiều doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, công ty TNHH vì giá trị và danh tiếng sản phẩm của mình cũng đ• rất chú trọng
đến chất lượng, thương hiệu mặt hàng như Xí nghiệp chế biến Cầu Tre, công ty chè
Bảo Lộc, công ty cổ phần Mỹ Lâm. Sự phát triển các doanh nghiệp sản xuất chế biến
chè với tốc độ cao, trong thời gian ngắn cũng bộc lộ nhiều điểm vướng mắc cần được
hạn chế. Trên cùng một địa bàn nhiều doanh nghiệp chế biến không có vùng cung cấp
nguyên liệu riêng nên thiếu chủ động, việc xác định phẩm chất và trả giá không thể
thống nhất được, mà phần lớn các doanh nghiệp mới chỉ đứng ngoài hiệp hội nên
càng không thể có tiếng nói chung. Đó là một trong những nguyên nhân mà việc cạnh
tranh nguyên liệu chưa được khắc phục. Hơn nữa, kéo theo đó nhiều nhà máy không
đủ nguyên liệu để sản xuất theo công suất thiết kế gây rất nhiều l•ng phí về năng lực
sản xuất và tiền bạc. Hàng loạt các doanh nghiệp được hình thành với nhiều loại quy
mô, nhiều doanh nghiệp có quy mô khá nhưng thiết bị được đầu tư ở mức thấp, thậm
chí nhiều loại thiết bị được chế tạo theo kiểu mẫu sao chép nhưng kém chất lượng

không được kiểm nghiệm đầu tư theo hướng giá rẻ, khấu hao nhanh. Tình trạng này
phổ biến ở nhiều vùng, miền sản xuất chè đặc biệt như ở Thái Nguyên năm 2000 mới
chỉ có 7 doanh nghiệp, đến năm 2001 đ• có 20 và đến đầu năm 2002 đ• có 29 doanh
nghiệp sản xuất và chế biến chè năm trong khu vực đ• nêu trên. Thêm vào đó, nhân
lực của các doanh nghiệp cũng như người công nhân, nông dân trồng chè phần nhiều
thiếu hiểu biết, không được đào tạo, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm thế hệ trước truyền


nguyễn thu thuỷ - nn 42a


li, mai mt nhiu, li rt thiu thụng tin. Nhng tỡnh trng trờn õy rt ph bin cỏc
doanh nghip mi, doanh nghip va v nh, nguyờn nhõn trc tip gõy ra cỏch sn
xut phi quy trỡnh, khụng m bo k thut cn thit nờn cht lng chố xu.
2. Kt qu xut khu chố theo chng loi sn phm:
Trong k hoch 5 nm t 1995-1999, Tng cụng ty v Hip hi chố tng bc t
khng nh mỡnh trờn th trng vi cỏc loi chố xut khu sau:

Biu 2: C cu v chng loi chố xut khu nm 1996 - 1999.
Năm
Sản phẩm
1996 1997 1998 1999
Chè đen

72,5%

74%

73%


75%

Chè xanh

11,65%

10,11%

9,13%

6,2%

Chè ctc

1,98%

2,2
9%

4,30%

4%

Chè thành phẩm

6,155%

5,42%

7,11%


3,1%

Chè sơ chế

0,22%

2,52%

0,76%

3,42%

Các loại chè

7,5%

5,64%

5,74%

8,2%

Tổng

100%

100%

100%


100%

Nguồn: Tổng công ty chè Việt Nam
Chỳ thớch:
- Chố CTC l chố cht lng cao, c sn xut theo dõy chuyn cụng ngh
ca n .
- Chố thnh phm l loi chố c sn xut v ch bin hon chnh cú
hng v, bao gúi bỏn cho ngi tiờu dựng cui cựng nh chố tỳi, chố hp, chố
nhỳng cú p hng hoa nh cỏc loi chố hp ụng ụ, chố hp Phỳ Quc, chố gúi
Thanh Tõm
Trong c cu chố xut khu ca Vina Tea qua cỏc nm, chố en u chim t
trng ln nht, tuy cng cú nhiu bin ng. iu ny chng t chố en l mt hng


nguyÔn thu thuû - nn 42a


chủ lực của Tổng công ty. Chè xanh đứng thứ hai nhưng có xu hướng giảm dần và
giảm mạnh vào năm 1999.
Chè CTC có biến động mạnh: Năm 1996 có giảm so với năm 1995 nhưng
không đáng kể, và từ năm 1997 trở lại đây, chè CTC lại tăng nhanh. Điều đó cho thấy
rằng thế giới ngày càng tiêu dùng nhiều loại chè có chất lượng cao.
Tỷ lệ xuất khẩu chè sơ chế qua các năm rất bấp bênh. Năm 1995 chỉ chiếm
0,3% nhưng đến năm 1997 lại chiếm 2,54% và đến năm 1998 chỉ chiếm 0,76%. Sang
đến năm 1999 lại tăng cao chiếm khoảng 3,42% trong tổng số hàng xuất khẩu trong
năm.
Chè “thành phẩm” trong suốt những năm 1996 - 1999 tỷ trọng xuất khẩu
tăng lên rất cao so với các loại chè khác. Nhưng đến năm 1999 lại giảm xuống chỉ còn
3,10% tỷ trọng xuất khẩu.

Các loại chè khác cũng chiếm một lượng không nhỏ trong các loại chè xuất
khẩu, chỉ đứng sau chè đen và chè xanh.
Tuy chủng loại chè xuất khẩu của các doanh nghiệp và của Tông công ty chè
Việt Nam có đa dạng hơn trước nhưng vẫn còn có những hạn chế về chất lượng và
mẫu m•, các loại chè cấp thấp vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể. Do đó chưa đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng các loại chè cao cấp tăng lên trên thị trường thế giới. Xu
hướng tăng tỷ trọng chè “thành phẩm” là rất tốt, phù hợp nhu cầu người tiêu dùng.
Trước đây, sản phẩm chè xuất khẩu của Tổng công ty chè và các doanh nghiệp
chỉ được đóng thùng gỗ dán hoặc bao tải là chủ yếu, thời gian vận chuyển thì dài nên
không bảo đảm chất lượng. Nhưng những năm gần đây đ• được đóng vào các thùng
cáctông, nilông với trọng lượng chè thành phẩm các loại, kích cỡ bao bì từ 20g,
50g, 1000g. Việc đầu tư cải tiến bao bì tuy phức tạp nhưng giá bán cao hơn, lợi
nhuận cũng tăng cao.
Tóm lại, cơ cấu và chủng loại chè của Tổng công ty chè Việt Nam và các
doanh nghiệp nằm ngoài liên tục thay đổi qua các năm, xu hướng tăng và chiếm tỷ
trọng lớn vẫn là chè đen. Những năm gần đây, Tổng công ty tiến hành nhiều hình thức
như: cổ phần hoá, liên doanh với các nước như Bỉ, Đài Loan bao tiêu sản phẩm. Đối
với mặt hàng chè xanh CTC đ• và đang được tiến hành song song xuất khẩu với mở
rộng thị trường trong nước, định hướng người tiêu dùng trong nước sử dụng các loại


nguyÔn thu thuû - nn 42a


chè truyền thống như: chè xanh Thái nguyên, chè Tùng hạc, chè Thanh long, chè Tân
cương với mẫu m• và chất lượng phù hợp với người tiêu dùng, đồng thời nhanh
chóng hoàn thiện và đưa ra thị trường các sản phẩm mới có chất lượng cao để cạnh
tranh trong chính thị trường trong nước như các loại chè hoà tan, chè đen, chè nhúng
có ướp hương của các h•ng như Lipton, Dilmah
Vì vậy, Tổng công ty và các doanh nghiệp cần phải đẩy mạnh đa dạng

hoá sản phẩm hơn nữa, không chỉ dừng lại ở con số 6 chủng loại chè xuất khẩu và
nâng cao chất lượng chè xuất khẩu nhằm đưa lại giá trị xuất khẩu cao đúng với vị thế
kinh doanh trên thị trường của Tổng công ty chè Việt Nam
3. Kết quả xuất khẩu chè theo thị trường:
Trong những năm qua, Việt Nam tích cực mở rộng các mối quan hệ, tham gia
tích cực vào các tổ chức kinh tế quốc tế nên thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam đ• có những thay đổi rõ rệt theo chiều hướng đa dạng hơn. Trước kia, hàng hoá
của Việt Nam chủ yếu xuất sang Liên xô và các nước XHCN. Nhưng từ những năm
90 trở lại đây do sự sụp đổ của hệ thống này, hàng hoá của ta xuất sang những thị
trường mới ở nhiều châu lục khác nhau. Thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở
rộng như vậy là nhờ vào chính sách đa dạng hoá mặt hàng và đa phương hoá các quan
hệ kinh tế thương mại. Mỗi mặt hàng khác nhau đ• xuất đi nhiều nơi trên thế giới để
vùa khai thác được lợi thế của thị trường vừa phân tán được rủi ro. Hiện nay, Việt
Nam đ• có quan hệ buôn bán với 120 nước và vùng l•nh thổ.
Hàng năm, doanh số xuất khẩu chè chiếm trên 90% trong tổng số doanh thu
của Tổng công ty cho nên vấn đề chính là thị trường nước ngoài. Đây là triển vọng để
Tổng công ty có thể mở rộng thị trường, khuếch trương uy tín của Tổng công ty trên
thị trường thế giới. Để thực hiện những mục tiêu trên thì vấn đề cốt yếu đầu tiên phải
giải quyết là thị trường tiêu thụ, vì đó là mục tiêu lớn nhất để cho một ngành hàng
kinh tế kỹ thuật phát triển, nó quyết định toàn bộ quá trình kinh doanh và sự phát triển
trong tương lai. Để giữ vững được thị trường đ• có và ngày càng mở rộng nhiều hơn
điều quan trọng là phải tạo ra được sản phẩm chè có chất lượng cao, bao bì đẹp thu
hút được người tiêu dùng, giá thành hợp lý, sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường
mà trong đó chất lượng là nhân tố quyết định hàng đầu. (Xem biểu3)



nguyễn thu thuỷ - nn 42a



Biu3: Doanh thu xut khu chố ca Tng cụng ty chố Vit Nam.
n v tớnh: USD/Nm
Năm
N-ớc
1996 1997 1998 1999 2000
Nga 173.165 226.437 1.017.450 800.258 1008.000
Singapor 106.372 584.473 149.492 198.000
Đài Loan 675.702 670.499 419.426 378.502 141.480
Nhật 1.033.076 1.318.539 957.520 1.382.500
Nguồn: Tổng công ty chè
Mc dự t c mt s thnh tu ỏng k song th trng xut khu chố
ca chỳng ta cũn nhiu yu kộm, cha thõm nhp c vo cỏc th trng ln nhiu
tim nng, c bit khi gp cỏc i th nng ký Tng cụng ty tr nờn quỏ nh bộ
v chu nhiu thua thit. Vỡ vy, trc mt chỳng ta c bit l Tng cụng ty chố cn
ch ng hn na trong vic tỡm kim v khai thỏc th trng mi, duy trỡ v cng c
nhng th trng truyn thng vi s h tr ca nh nc trong vic khai thỏc cỏc
mi quan h kinh t - chớnh tr, ký kt cỏc hip nh thng mi hoc cỏc vn bn
tho thun hp tỏc vi cỏc nc. Nhỡn chung, vn th trng vn l vn ln cũn
nhiu bc xỳc ũi hi nhiu n lc khụng ch v phớa doanh nghip m cũn t phớa
Nh nc
II. ỏnh giỏ chung
1. Nhng mt tớch cc
Trc ht ta phi thy rng trong c nc cú rt nhiu cỏc doanh nghip
cng nh cỏc n v sn xut v ch bin chố vi vai trũ quan trng ca Tng cụng ty
chố Vit Nam. Tng cụng ty to c mi liờn kt cht ch vi cỏc n v thnh
viờn, m rng ra c cỏc vựng chố ca ngi dõn. Tuy cú s lng n v khỏ ln
nhiu vựng khỏc nhau nhng Tng cụng ty thng nht c s qun lý t trờn
xung di th hin ch: cỏc thnh viờn tuõn th nghiờm ngt k hoch v nhim v
c giao, khi cú khú khn v ngun hng Tng cụng ty vn cú th m bo c
lng hng xut khu bng cỏch yờu cu cỏc n v dng vic bỏn hng ra ngoi

tp trung ton b lng hng giao cho Tng cụng ty. õy khụng xy ra tỡnh trng


nguyÔn thu thuû - nn 42a


"Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" như vẫn thường thấy ở một số Tổng công ty Việt
Nam hiện nay. Sở dĩ tạo ra được mối liên hệ này là nhờ Tổng công ty đ• gắn được lợi
ích của mình với lợi ích của các thành viên. Và thực tế đ• chứng minh không có mối
quan hệ kinh tế nào bền chặt bằng mối quan hệ kinh tế hai bên cùng có lợi. Do làm tốt
công tác này mà tránh được tình trang trạng mua tranh tranh bán ở nhiều nơi, làm
thiệt hại cho các công ty và bà con trồng chè, xuất khẩu chè đ• làm cho mức sống ở
các vùng trồng chè được cải thiện đáng kể, môi trường cũng phần nào được cải thiện
vì hiện nay diện tích trồng chè của chúng ta đ• tăng lên gấp nhiều lần làm đ• phủ xanh
đất trống đòi núi trọc, khi xuất khẩu chè thì hiện nay chúng ta đ• xâm nhập được vào
các thị trường mới đầy tiềm năng như: Nhật Bản, Mỹ không còn phụ thuộc vào thị
trường Liên Bang Nga và các nước Đông Âu như trước kia, và hiện nay chúng ta có
rất nhiều mối quan hệ với các nước bạn hàng. Điều này làm cho các doanh nghiệp của
nước ta học hỏi được rất nhiều điều và nắm bắt được những thông tin quan trọng, làm
cho các doanh nghiệp chủ động trước những sự biến động của thị trường, chúng ta đ•
tạo ra nhiều giống tốt để phục vụ cho qúa trình xuất khẩu trình độ quản lý cũng được
cải thiện, trình độ thâm canh cây chè cũng được từng bước nâng cao
2. Những hạn chế còn tồn tại
*Trong sản xuất nguyên liệu: Năng suất bình quân thấp do tổ chức sản xuất sai
lầm trong nhiều năm.
- Một thời gian dài trước đây, chè được phát triển tràn lan theo kiểu rải mành
mành, tập trung vào quảng canh.
- Bộ giống chè nghèo, không có giống tốt, giống đặc sản.
- Việc quản lý chăm sóc kém, quy trình kỹ thuật chưa được tuân thủ một cách
nghiêm túc, không thâm canh ngay từ đầu. Cộng với việc khai thác quá mạnh làm cây

chè chóng cạn kiệt, rút ngắn chu kỳ kinh doanh, sớm phải thanh lý.
- Dùng nhiều phân vô cơ làm đất bị nghèo dinh dưỡng, độ pH tăng cao.
- Vườn chè thiếu hay không có cây bóng mát do nhận thức sai lầm rằng đây là
nơi trú ngụ của sâu bệnh nên đ• cho chặt. Thiếu cây bóng mát làm cho đất bị xói mòn,
mực nước ngầm xuống thấp, chè bị héo vào những tháng nóng.
- Vườn chè không được quan tâm đồng đều. Thậm chí ngay trong một xí
nghiệp có vườn chè tốt có vườn lại rất xấu. Có vườn được đầu tư đúng mức, canh tác


nguyÔn thu thuû - nn 42a


đúng quy trình có thể đạt năng suất 15 - 20 tấn/ha. Có vườn bị buông lỏng, khoán
trắng chỉ khai thác, không đầu tư làm năng suất chỉ còn 1,6 tấn/ha. Đặc biệt, nhiều
vườn chè dân xung quanh cơ sở chế biến chưa được quan tâm một cách đầy đủ, có trợ
giá nhưng nông dân vẫn không đủ vốn đầu tư.
- Chè trồng trên dốc nhiều, lại không có hệ thống tưới nước đầy đủ.
*Chất lượng sản phẩm kém: Nhiều đánh giá cho rằng chất lượng của ta chỉ đạt
mức trung bình so với thế giới. Chất lượng thấp làm giảm năng lực cạnh tranh, kéo
giá chè XK xuống thấp hơn hẳn giá chè thế giới. Trong các yếu tố ảnh hưởng xấu tới
chất lượng, nổi lên những yếu tố sau:
- Công nghệ: Chỉ một số ít nhà máy mới xây dựng bằng thiết bị công
nghệ của ấn Độ là tương đối hoàn chỉnh. Còn phần lớn là các nhà máy công nghệ
Liên Xô (cũ) đến nay đ• xuống cấp hay nâng cấp chắp vá bằng các phụ tùng trong
nước nên không đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất chè đen theo tiêu
chuẩn. Một số đơn vị đ• đầu tư bổ sung thêm máy héo, máy vò, máy sấy để nâng công
suất nhà máy nhưng khâu bảo quản chè búp tươi, phòng lên men, phòng sàng chưa
được nâng cấp tương xứng nên công suất các công đoạn mất cân đối, chè bị ùn tắc cục
bộ dẫn đến chè bị ôi ngay trước khi đưa vào máy héo hoặc chua thiu trong quá trình
lên men. Sự không đồng bộ của dây chuyền

dễ dẫn đến cắt xén quy trình từng công đoạn trong quá trình sản xuất và chất
lượng sản phẩm cũng giảm theo.
- Con người: Cùng với sự yếu kém về công nghệ, thiếu cán bộ kỹ thuật và công
nhân lành nghề cũng như nguyên nhân làm chất lượng chè thấp. Đội ngũ cán bộ kỹ
thuật có trình độ đại học và trên đại học ngày càng thưa thớt, nhiều đơn vị chè lớn
không có kỹ sư chế biến, thậm chí thiếu cả cán bộ chế biến có trình độ trung cấp.
Công nhân lành nghề được đào tạo những năm 60 - 70 nay dần đ• về hưu, thay thế là
thế hệ công nhân trẻ thiếu kinh nghiệm và tay nghề thấp. Do thiếu cán bộ có trình độ
đại học nên việc bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho công nhân cũng hạn chế.
- Quản lý: Vẫn còn nhiều đơn vị vì lợi ích cục bộ, chỉ chạy theo số lượng cốt
hoàn thành kế hoạch mà không có trách nhiệm với người tiêu dùng, không quan tâm
duy trì và cải tiên, làm cho chất lượng sa sút ảnh hưởng tới chất lượng chung của
Tổng công ty. Đây là hậu quả của cơ chế cũ. Ngành chè ra đời và phát triển trong thời


nguyÔn thu thuû - nn 42a


kỳ hệ thống XHCN còn vững mạnh. Ta đ• nhận được thiết bị chế biến qua con đường
viện trợ không hoàn lại hay trên cơ sở hợp tác ưu đ•i. Phần lớn chè được xuất dưới
dạng bán thành phẩm. Sản phẩm sản xuất ra dù có chất lượng hay không đều có thị
trường tiêu thụ ổn định. Sản xuất đến đâu bán hết đến đó do được bao cấp cả đầu ra.
Chính cơ chế này đ• gây ra sự trì trệ và thói quen coi thường chất lượng ở một số cán
bộ. Điều này đ• thực sự làm cho tiêu thụ chè nói riêng và hàng hoá Việt Nam nói
chung bị "sốc" khi khối XHCN sụp đổ, thị trường cũ đột ngột co hẹp, buộc phải vươn
ra các thị trường mới mà chất lượng mới chính là yếu tố cạnh tranh để sống còn.
*Tuy Tổng công ty đ• mở rộng nhiều thị trường mới nhưng chưa có bạn hàng
thực sự lâu dài: thậm chí còn bị mất thị trường chè vàng ở Hồng Kông. Nguyên nhân
là do:
- Sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại, mẫu m•, bao bì, ta chủ yếu xuất chè có

kích thước và kiểu dáng tự nhiên. Trong khi người tiêu dùng đặc biệt người tiêu dùng
ở các nước tư bản lại ưa thích sản phẩm tiện dụng và cho phép tiết kiệm thời gian.
- Chưa hình thành hệ thống phân phối trực tiếp ở nước ngoài. Ngay cả ở các thị
trường truyền thống, các thị trường lớn như Nga, I rắc cũng vẫn phải bán qua các
nhà nhập khẩu của họ. XK phải qua nhiều khâu trung gian vòng vèo.Với vai trò nhỏ
bé trên thị trường thế giới và tình hình chất lượng như hiện nay, chúng ta chưa có khả
năng áp dụng nhiều chính sách giá như giá tấn công, giá hớt váng, chiến tranh giá cả
XK vẫn kiểu cầm chừng, gặp khách thoả thuận được giá bán, nên yêu cầu chủ yếu
với giá xuất khẩu là đủ bù đắp chi phí và có l•i chứ chưa sử dụng được giá như một
công cụ cạnh tranh.
- Chi phí dành cho các hoạt động xúc tiến, yểm trợ còn thấp. Các hình thức
quảng cáo còn nghèo nàn - đây là nhược điểm chung của các doanh nghiệp Việt Nam.
Công tác tiếp thị yếu, chưa có một đội ngũ tiếp thị chuyên môn. Vẫn theo quan điểm
marketing truyền thống, coi trọng khâu tiêu thụ. Đ• có các dây chuyền công nghệ như
vậy, đ• sản xuất ra các sản phẩm như vậy, vấn đề phải quan tâm là tìm đầu ra. Chính
vì vậy chưa thực sự có được vị trí trên thị trường thế giới.
*Tất cả những hạn chế trên còn có chung một nguyên nhân là tổ chức quản lý
của ngành chè chưa được hợp lý. Các đơn vị sản xuất chè còn manh mún, phân tán,
còn phân biệt năng nề giữa trung ương và địa phương. Tổng công ty mới được thành


nguyÔn thu thuû - nn 42a


lập trong thời gian ngắn nhưng đang có sự xáo trộn do việc chuyển đổi một số đơn vị
từ Trung ương sang địa phương. Nhìn chung, các nhà sản xuất và kinh doanh chè
trong cả nước chưa tập trung về một mối để tạo nên sức mạnh tổng hợp, để cạnh tranh
được trên thị trường quốc tế.






Chương 3: phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu chè của việt
nam trong thời gian tới

I.phương hướng của ngành chè việt nam trong thời gian tới
1. Về sản xuất chè.
Quy hoạch vùng nguyên liệu, tập trung phát triển chè tại 8 tỉnh phía Bắc: Sơn
La, Lai Châu, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lài Cai, Thái Nguyên, Phú Thọ,
Lâm Đồng. Viện nghiên cứu chè hỗ trợ các đơn vị nhân giống và đưa nhanh các giống
có năng suất cao, chất lượng tốt vào các vườn chè để cải tiến chất lượng chè xuất
khẩu. Tăng tỷ lệ giống mới có chất lượng cao trong cơ cấu nguyên liệu. Cải tạo đất
bằng cách bón phân hữu cơ tổng hợp phù hợp với loại đất. Đưa công cụ vào canh tác
nông nghiệp tại các đơn vị của Tổng công ty rồi phổ biến rộng ra. Trong 2 năm 1999 -
2000 đầu tư 34,41 tỷ đồng tưới cho các vườn chè tập trung có điều kiện về nguồn
nước ở 9 tỉnh.
Biểu 4: Các chỉ tiêu phát triển chè cả nước.
N¨m
DiÖn tÝch
1999 2000 2005 2010
DiÖn tÝch chÌ c¶ n-íc (ha) 77.142 81.692 104.000 104.000
DiÖn tÝch chÌ kinh doanh (ha) 70.192 70.192 92.500 104.000
DiÖn tÝch chÌ trång míi( ha) 4.350 4.550 2.800 -
NS b×nh qu©n (tÊn t-¬i/ha) 3,82 4,23 6,1 7,5

×