Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Johan Vermeer – nghèo nhất mà xài sang nhất pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (582.53 KB, 9 trang )

Johan Vermeer – nghèo nhất mà
xài sang nhất
Hữu Khoa lược dịch từ Wikipedia

31. 10 là ngày mà Johannes, Jan hay Johan Vermeer, được rửa tội
(1632), tại thành phố Delft của Hà Lan. 43 năm sau, ông mất và được
chôn cũng tại thành phố này. Vermeer là một họa sĩ chuyên vẽ những
cảnh sinh hoạt trong gia đình, những cảnh nội rất tinh xảo, diễn ra trong
đời sống trung lưu. Trong ảnh: Những người tham dự một hội thảo
ngắm bức tranh “Người đàn bà với cái cân” của Johannes Vermeer tại
Alte Pinakothek, Munich, Đức, hồi tháng 3. 2011. Ảnh: Marc Mueller

Khi còn sống, Vermeer chỉ nổi tiếng vừa vừa. Ông chưa bao giờ giàu
có, lại đông con (11 đứa), khi chết đi đã để lại một đống nợ nần cho vợ
và con. Nguyên nhân: ông vẽ quá ít. Vermeer vẽ chậm và rất cẩn thận.
Một năm ông vẽ chừng ba bức, và vẽ theo đơn đặt hàng. Tranh
Vermeer hay dùng màu sáng, thường có thêm những màu tự nhiên cực
đắt tiền - ông thích những màu xanh và vàng của ruộng ngô, và ông đặc
biệt có tài xử lý ánh sáng.

Vermeer hầu như chỉ vẽ cảnh nội. Như Kooning từng chỉ ra: “Hầu hết
tranh Vermeer là những cảnh diễn ra trong những căn phòng nhỏ ở nhà
ông tại Delft; với cùng mấy món đồ đạc và trang trí được sắp xếp khác
đi; cùng chừng ấy nhân vật, chủ yếu là phụ nữ." Trong ảnh là bức “Cô
gái đọc thư bên cửa sổ mở”.

Khi sống đã không nổi tiếng lắm nên lúc chết rồi Vermeer cũng bị lãng
quên. Trong sách tra cứu về tranh Hà Lan, suốt hai thế kỷ sau đó, người
ta bỏ quên ông. Mãi đến thế kỷ 19, Gustav Friedrich Waagen và
Théophile Thoré-Bürger mới tái phát hiện được Vermeer; họ viết hẳn
một tiểu luận về ông, gán 66 bức tranh cho ông (mặc dầu về sau chỉ có


34 bức là của ông thật). Kể từ đó, danh tiếng Vermeer lớn dần, và nay
thì ông được coi là một trong những họa sĩ vĩ đại nhất của Thời kỳ
Hoàng kim Hà Lan. Trong ảnh là bức “Phố nhỏ”, vẽ thành phố mà
Vermeer đã sống cả đời.

Vermeer khi còn sống tuy được coi là một nghệ sĩ mà dân thành Delft
nể trọng, nhưng ngoài thành phố mình sống ra, chẳng ai biết ông.
Vermeer không có học trò nào, cho nên không có trường phái nào có
tên gọi Vermeer. Ông lại có quá nhiều con; để nuôi con, ông phải dành
thời gian vừa buôn bán tranh, vừa quản lý quán xá, lại đứng đầu Hội
Saint Luke – một hội chuyên về buôn bán tác phẩm của các họa sĩ…
Thời gian ít ỏi còn lại, khi vẽ tranh thì ông lại vẽ quá kỹ, cho nên năng
suất không cao. Vẽ được bức nào, một ông chủ trong vùng tên Pieter
van Ruijven lại mua sạch (rồi cất trong kho?); danh tiếng vì thế không
thể lan xa được. (Liên hệ Việt Nam: một số họa sĩ vẽ rất đẹp, vẽ được
bức nào, các gallery mua sạch, rồi đem bán ngay ở nước ngoài, không
tổ chức triển lãm cho người Việt được xem, họa sĩ được dịp giao lưu về
nghề cùng đồng nghiệp. Thế có gọi là “dã man” không nhỉ?). Trong
ảnh là bức “Cô hầu ngủ”.

Vermeer có khi chỉ dùng màu xám, hoặc bảng màu giới hạn với các
loại nâu và xám (“màu chết”), phủ lên đó là những màu rực hơn (các
loại đỏ, vàng, và xanh dương) như một dạng “men”. Vermeer tạo ra
những màu trong bằng cách đi sơn trên canvas thành những lớp “dạng
hạt” lỏng lẻo. Ông không vẽ phác, và tranh ông dường như là loại vẽ
thẳng lên canvas, không qua những bước sửa soạn trước. Họa sĩ và sử
gia Mỹ thuật David Hockney từng cho rằng Vermeer đã sử dụng máy
ảnh hộp (camera obscura) để có được bố cục chuẩn xác, hiệu quả ánh
sáng cao, và những hiệu ứng về phối cảnh tuyệt vời. Philip Steadman
đã tìm ra sáu bức của Vermeer có kích thước chính xác kích thước của

chúng được phóng trên tường studio của họa sĩ nếu đặt bên trong một
cái máy ảnh hộp. Tuy nhiên, thuyết này vẫn còn gây tranh cãi. Chưa
tìm thấy bằng chứng nào rõ rệt cả. Trong ảnh là bức “Buổi học nhạc”.

Vào thế kỷ 17, chưa có họa sĩ nào dám “hoang” như Vermeer: dùng
một cách xa xỉ nhất màu xanh da trời, màu nước biển tự nhiên rất đắt
tiền. Nhưng thế chưa đủ, ông còn dùng thêm phẩm nâu đen, màu đất
son (được coi là nguồn sáng ấm áp bên trong một nội thất được chiếu
sáng mạnh của một bức tranh), để phản chiếu sự đa sắc lên bức tường
(trong tranh). Bằng cách này, Vermeer đã tạo ra một thế giới trong
tranh hoàn hảo hơn thế giới mà ông được thấy ngoài đời. Và bằng cách
này, mỗi vật cùng dự phần màu sắc với vật kề bên. Có nghĩa là, trong
tranh Vermeet, không vật nào còn hoàn toàn mang màu tự nhiên của
nó. Thí dụ trong bức “Cô gái với ly rượu vang” đây, những nếp váy
satin đỏ được vẽ lót trước bằng màu xanh biếc tự nhiên, và nhờ có lớp
xanh biếc bên dưới ấy, hỗn hợp đỏ son và đỏ tiết trở nên hơi ngả tía,
hơi khô đanh, khá lạnh, và rất mạnh

Tranh của Vermeer chủ yếu là chân dung, trừ vài bức vẽ phong cảnh.
Ông vẽ đủ loại chân dung: từ người bán sữa đang lao động, tới những
quý cô giàu có trong những ngôi nhà rộng mênh mông. Và như đã nói,
ông vẽ chủ yếu là phụ nữ. Trong ảnh là bức "Người bán sữa".

Ngay cả lúc khó khăn nhất vào năm 1672 do cả Hà Lan rơi vào suy sụp
kinh tế, Vermeer vẫn dùng màu xanh biếc loại đắt tiền một cách thoải
mái (thí dụ như với bức “Người đàn bà với cái cân” trong hình). Từ đó
người ta suy ra ông đã được một nhà sưu tập, một “ông chủ” cung cấp
màu để vẽ.


×