Tải bản đầy đủ (.doc) (122 trang)

Giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (640.07 KB, 122 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này được thực hiện một cách nghiêm túc,
trung thực bằng nỗ lực nghiên cứu của chính tác giả, không gian lận, không
sao chép từ các tài liệu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính trung thực của toàn bộ nội dung khóa
luận tốt nghiệp
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lường Thị Oanh
i
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài này, với lòng biết ơn
chân thành và sâu sắc nhất tới giáo viên hướng dẫn TS. Lê Ngọc Hướng –
giảng viên Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, người thầy đã dành nhiều
thời gian tâm huyết, tận tình hướng dẫn chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình
nghiên cứu, thực hiện đề tài này.
Tôi xin bày tỏ tấm lòng biết ơn đến Ban Giám hiệu nhà trường, các
thầy cô giáo đặc biệt là các thầy cô trong Bộ môn Phân tích định lượng –
Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, những người đã trang bị những kiến
thức bổ ích cho tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến Ban lãnh đạo lãnh đạo UBND xã
Hải Ninh, và người dân xã Hải Ninh đã tạo mọi điều kiện về thời gian để
giúp đỡ tôi thu thập thông tin, số liệu cần thiết trong suốt quá trình thực hiện
nghiên cứu tại địa bàn.
Xin chân thành cảm ơn tất cả bạn bè và gia đình đã động viên, giúp đỡ
nhiệt tình và đóng góp nhiều ý kiến quí báu để tôi hoàn thành khó luận.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, đề tài của tôi chắc hẳn không thể tránh
khỏi những sơ suất, thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các
thầy cô giáo và cùng toàn thể bạn đọc.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nôi, ngày 5 tháng 5 năm 2014
Sinh viên


Lường Thị Oanh
ii
TÓM TẮT KHÓA LUẬN
Thu nhập luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người nghiên
cứu, cho dù đó là quốc gia giàu mạnh hay nghèo đói cho đến những địa
phương nhỏ. Bởi vì nó chính là một trong những chỉ báo quan trọng có ý
nghĩa kinh tế để đánh giá mức sống, sự phát triển nguồn nhân lực (HDI) của
mỗi khu vực địa lý cũng như khía cạnh nào đó là nguyên nhân của nhiều vấn
đề xã hội khác.
Thu nhập cao hay thấp là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất
đánh giá sự giàu nghèo. Khái niệm về tình trạng giàu nghèo dựa trên thu
nhập, mức sống đang ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong
quá trình nghiên cứu.
Hộ gia đình là tế bào của xã hội, đồng thời cũng là một thiết chế xã hội.
Hộ gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các
thành viên của mình. Vì vậy, sự phát triển của gia đình có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của xã hội. Một mặt, gia đình duy trì, tạo ra sự ổn
định về đời sống vật chất, nguồn lao động cho xã hội. Mặt khác, gia đình là
môi trường giáo dục đầu tiên nhằm xây dựng hoàn thiện và củng cố nhân cách
con người. Sỡ dĩ vậy là do gia đình đã đảm nhận những chức năng không thể
thiếu như: chức năng sinh sản, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang phát triển, hơn 70% dân số
nước ta ở nông thôn đây là nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được sử dụng
hợp lý, đây vẫn còn là một thách thức lớn về vấn đề giải quyết việc làm nâng
cao thu nhập cho người lao động. Ngày nay, người nông dân đã chủ động
trong mọi hoạt động sản xuất của mình, với điều kiện có sẵn như đất đai, lao
động, vốn… họ tiến hành sản xuất nhằm xóa đói, giảm nghèo , làm giàu chính
đáng, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
iii
Hiện nay ruộng đất có hạn mà dân số ngày càng tăng lên. Do vậy việc

duy trì thu nhập đã khó, nâng cao thu nhập cho hộ gia đình lại càng khó hơn bởi
nông thôn thì sản suất nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu. Do đó quan điểm
về CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số làm nông nghiệp thì kinh
tế hộ nông dân đã góp một phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng nền kinh
tế nước nhà, có thể thấy kinh tế nông nghiệp đã và đang làm tốt vai trò "bệ
đỡ” của nền kinh tế. Kinh tế hộ gia đình đang ngày càng được quan tâm, chú
trọng phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian qua đời sống người nông dân vẫn
còn gặp nhiều khó khăn. Thu nhập của người nông dân ngày càng đa dạng và có
xu hướng tăng nhưng mức chênh lệch về thu nhập của lao động nông nghiệp so
với lao động phi nông nghiệp thì ngày càng giãn rộng. Vì vậy vấn đề nâng cao
thu nhập cho hộ nông dân sống trong khu vực nông nghiệp, nông thôn là hết sức
cần thiết trong tiến trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, cũng như quá trình phát
triển kinh tế của đất nước.
Xã Hải Ninh huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa là một xã nông thôn
thuộc diện bãi ngang có tình hình kinh tế đặc biệt khó khăn, là một xã mang
đầy đủ những nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam nói chung và nông thôn
tỉnh thanh hóa nói riêng. Giống như những miền quê khác, người dân Hải
Ninh sống với nhau trong tình làng nghĩa xóm gắn với điều kiện tự nhiên. Với
nền kinh tế tổng hợp bao gồm nhiều ngành nghề: sản xuất nông – ngư nghiệp,
khai thác nuôi trông thủy hải sản, thương mại – dịch vụ, nhưng sản xuất chủ
yếu vẫn còn nhỏ lẻ. Phải nói trên địa bàn cũng có điều kiện khá thuận lợi để
phát triển kinh tế, vậy mà mức thu nhập và đời sống của người dân vẫn còn
rất thấp. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên và các nhà lãnh đạo
đưa ra biện pháp và chính sách gì để khắc phục tình trạng trên? Chính vì vậy
giải quyết vấn đề thu nhập cho các hộ gia đình xã Hải Ninh là yêu cầu cần
thiết và cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành, các đoàn thể.
iv
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Giải
pháp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia,

Tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Nghiên cứu đề tài này nhằm mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở đánh giá
thực trạng, đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình xã Hải
Ninh, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
 Phạm vi về nội dung
Do điều kiện về thời gian hạn hẹp, đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên
cứu những tồn tại trong kinh tế hộ nông dân, từ đó đưa ra một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình ở xã Hải Ninh, huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh hóa.
 Phạm vi về không gian
Địa bàn nghiên cứu là các hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia,
tỉnh Thanh Hóa.
 Phạm vi về thời gian:
Thời gian thực tập: từ 01/2014 đến 04/2014.
Số liệu thứ cấp: Được thu thập trong 3 năm từ 2010 đến 2013
Số liệu sơ cấp: Tổng hợp qua phiếu điều tra năm 2014
Đề xuất các giải pháp thực hiện tronggiai đoạn 2015 - 2020.
v
MC LC
Phỏt trin kinh t h gia ỡnh Vit Nam 10
Bng 2.1: Thu nhp bỡnh quõn u ngi mt thỏng theo giỏ hin hnh phõn
theo thnh th, nụng thụn v phõn theo vựng 31
3.1.2.3 Đánh giá về đời sống dân sinh 42
3.1.4 Thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp 43
3.1.4.1 Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung 43
3.1.4.2 Thực trạng sản xuất ngành trồng trọt 44
3.1.4.3 Ngành chăn nuôi 46
3.1.4.4 Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản 50
3.1.5.1 Kết quả công tác đổi điền dồn thửa 51
3.2.1.2 Cơ sở vật chất văn hóa 53

3.2.1.3 Hệ thống hạ tầng kỹ thuật 56
Hệ thống cấp nớc sạch và vệ sinh môi trờng 58
3.3 Phng phỏp nghiờn cu 60
3.3.1 Phng phỏp chn im nghiờn cu 60
TI LIU THAM KHO 105
vi
DANH MC BNG
Phỏt trin kinh t h gia ỡnh Vit Nam 10
Bng 2.1: Thu nhp bỡnh quõn u ngi mt thỏng theo giỏ hin hnh phõn
theo thnh th, nụng thụn v phõn theo vựng 31
3.1.2.3 Đánh giá về đời sống dân sinh 42
3.1.4 Thực trạng phát triển sản xuất nông nghiệp 43
3.1.4.1 Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung 43
3.1.4.2 Thực trạng sản xuất ngành trồng trọt 44
3.1.4.3 Ngành chăn nuôi 46
3.1.4.4 Thực trạng phát triển ngành thuỷ sản 50
3.1.5.1 Kết quả công tác đổi điền dồn thửa 51
3.2.1.2 Cơ sở vật chất văn hóa 53
3.2.1.3 Hệ thống hạ tầng kỹ thuật 56
Hệ thống cấp nớc sạch và vệ sinh môi trờng 58
3.3 Phng phỏp nghiờn cu 60
3.3.1 Phng phỏp chn im nghiờn cu 60
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
UBND
BQ
Uỷ ban nhân dân
Bình quân
BQC Bình quân chung
BVTV Bảo vệ thực vật

CNH – HĐH Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CC Cơ cấu
CN Công nghiệp
DT Diện tích
ĐVT Đơn vị tính
GTSX Giá trị sản xuất
HTX Hợp tác xã
NN Nông nghiệp
SL Số lượng
SX Sản xuất
SXNN Sản xuất nông nghiệp
Tr.đ Triệu đồng
TLBQ Trọng lượng bình quân
TLXC Trọng lượng xuất chuồng
TMDV Thương mại dịch vụ
TN Thu nhập
TNBQ Thu nhập bình quân
TTCN Tiểu thủ công nghiệp
UBND
NTTS
Ủy ban nhân dân
Nuôi trồng thủy sản
viii
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ
I.1 Tính cấp thiết của đề tài
Thu nhập luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều người nghiên
cứu, cho dù đó là quốc gia giàu mạnh hay nghèo đói cho đến những địa
phương nhỏ. Bởi vì nó chính là một trong những chỉ báo quan trọng có ý
nghĩa kinh tế để đánh giá mức sống, sự phát triển nguồn nhân lực (HDI) của

mỗi khu vực địa lý cũng như khía cạnh nào đó là nguyên nhân của nhiều vấn
đề xã hội khác.
Thu nhập cao hay thấp là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất
đánh giá sự giàu nghèo. Khái niệm về tình trạng giàu nghèo dựa trên thu
nhập, mức sống đang ngày càng được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng trong
quá trình nghiên cứu.
Hộ gia đình là tế bào của xã hội, đồng thời cũng là một thiết chế xã hội.
Hộ gia đình luôn tồn tại và là nơi để đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho các
thành viên của mình. Vì vậy, sự phát triển của gia đình có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển của xã hội. Một mặt, gia đình duy trì, tạo ra sự ổn
định về đời sống vật chất, nguồn lao động cho xã hội. Mặt khác, gia đình là
môi trường giáo dục đầu tiên nhằm xây dựng hoàn thiện và củng cố nhân cách
con người. Sỡ dĩ vậy là do gia đình đã đảm nhận những chức năng không thể
thiếu như: chức năng sinh sản, chức năng giáo dục, chức năng kinh tế
Việt Nam là một nước nông nghiệp đang phát triển, hơn 70% dân số
nước ta ở nông thôn đây là nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được sử dụng
hợp lý, đây vẫn còn là một thách thức lớn về vấn đề giải quyết việc làm nâng
cao thu nhập cho người lao động. Ngày nay, người nông dân đã chủ động
trong mọi hoạt động sản xuất của mình, với điều kiện có sẵn như đất đai, lao
1
động, vốn… họ tiến hành sản xuất nhằm xóa đói, giảm nghèo , làm giàu chính
đáng, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội.
Hiện nay ruộng đất có hạn mà dân số ngày càng tăng lên. Do vậy việc
duy trì thu nhập đã khó, nâng cao thu nhập cho hộ gia đình lại càng khó hơn bởi
nông thôn thì sản suất nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu. Do đó quan điểm
về CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Là một nước nông nghiệp đang phát triển,thu nhập giữa các hộ gia
đình nông thôn và thành thị có sự chênh lệch, thậm chí ngay trong số các hộ
gia đình nông thôn với nhau có khoảng cách thu nhập chênh lệch đáng kể.
Mô tả và nghiên cứu về mức thu nhập ở Việt Nam đã và đang được

nhiều tổ chức chính phủ và tư nhân quan tâm. Đã có những tài liệu về điều tra
mức sống UNDP và SIDA Thụy Điển tài trợ điều tra của Tổng cục Thống kê,
báo cáo của Ngân hàng thế giới và nhiều ban nghiên cứu thực địa và kinh
nghiệm liên quan của chính phủ, các tổ chức Liên Hợp Quốc và các nhà tài
trợ khác
Muốn tăng tỷ trọng GDP của cả nước và dần dần giảm bớt tình trạng
nghèo đói cần phải có một sự quan tâm thích đáng đến vấn đề thu nhập, đặc
biệt là đối với người nông dân. “không phải tất cả đói nghèo đều do mất mùa
hay đau ốm gây lên. Đói nghèo cũng có thể xuất hiện do thiếu lương thực và
thu nhập ngay ở những năm bình ổn” (Liên Hợp Quốc – Xóa đói giảm nghèo
ở Việt Nam).
Trong những năm qua để đạt được mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng văn minh” Đảng và nhà nước đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ
cho nông thôn: đầu tư vốn, khuyến nông v.v Tuy nhiên sự khởi sắc diễn ra
không đáng kể, thậm chí có nhiều nghiên cứu đã kết luận: trên thực tế mức
sống của một số nhóm dân cư có thể đã có mức thu nhập dưới mức nghèo đói
bình thường. Vì thế vấn đề thu nhập của các hộ gia đình nông thôn đã và đang
2
thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, các nhà quản
lý và hoạch định chính sách.
Việt Nam sau hơn 28 năm đổi mới nền kinh tế dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đời sống kinh tế - chính trị,
văn hoá, xã hội có sự tăng trưởng vượt bậc. Đặc biệt các địa phương trong cả
nước được quan tâm hơn trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên và nguồn
lực con người để phát triển kinh tế địa phương. Nhưng từ đây lại xuất hiện
các vấn đề mới, nhiều năm qua do mọi người chỉ quan tâm đến vấn đề khai
thác và sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản như: khai thác, phá rừng làm
rẫy, thải nước thải chưa qua xử lý ra bên ngoài các kênh mương, song, suối…
mà quên đi vấn đề tái tạo, dẫn tới vấn đề tài nguyên khoáng sản bị cạn kiệt,
suy thoái nên nước ta thường xuyên gặp những cơn bão, lũ lụt, nắng hạn kéo

dài gây mất mùa, khí hậu thay đổi nhiều nên cây trồng, vật nuôi không kịp
thích hợp ngay với điều kiện sống nên sinh ra nhiều dịch bệnh như: cúm ở gia
cầm, lỡ mồm long móng ở trâu bò, cây trồng bị sâu bệnh hại chỉ đạt năng suất
thấp… Những điều ấy không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà còn
làm cho thu nhập của nông dân vốn dĩ đã thấp bây giờ lại thấp hơn.
Hiện nay mức thu nhập bình quân của người dân nước ta còn thấp so
với một số nước trên thế giới. Về nông nghiệp nước ta có nhiều tiềm năng và
điều kiện thuận lợi để phát triển cây lúa nước, cây cà phê, hải sản như tôm,
cá… Nhưng về sản lượng và chất lượng sản phẩm không bằng so với một số
nước trong khu vực. Kéo theo đó mức thu nhập và chất lượng cuộc sống của
người dân chưa cao đặc biệt các khu vực diện bãi ngang, đây là những khu
vực đặc biệt khó khăn luôn phải gánh chịu những ảnh hưởng nặng nề do thiên
tai mang tới, nên đời sống của người dân đặc biệt khó khăn.
Từ thực tế trên, tôi chọn xã Hải Ninh huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa
là một xã nông thôn thuộc diện bãi ngang có tình hình kinh tế đặc biệt khó
khăn, là một xã mang đầy đủ những nét đặc trưng của nông thôn Việt Nam
3
nói chung và nông thôn tỉnh thanh hóa nói riêng. Giống như những miền quê
khác, người dân Hải Ninh sống với nhau trong tình làng nghĩa xóm gắn với
điều kiện tự nhiên. Với nền kinh tế tổng hợp bao gồm nhiều ngành nghề: sản
xuất nông – ngư nghiệp, khai thác nuôi trông thủy hải sản, thương mại – dịch
vụ, nhưng sản xuất chủ yếu vẫn còn nhỏ lẻ. Phải nói trên địa bàn cũng có điều
kiện khá thuận lợi để phát triển kinh tế, vậy mà mức thu nhập và đời sống của
người dân vẫn còn rất thấp. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên
và các nhà lãnh đạo đưa ra biện pháp và chính sách gì để khắc phục tình trạng
trên? Chính vì vậy giải quyết vấn đề thu nhập cho các hộ gia đình xã Hải
Ninh là yêu cầu cần thiết và cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp, các
ngành, các đoàn thể.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, tôi quyết định chọn đề tài “ Giải
pháp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia,

Tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập
cho hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thu nhập của hộ
gia đình.
- Đánh giá thực trạng thu nhập và các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập
của hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao thu nhập cho hộ gia đình xã Hải Ninh,
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
4
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề lý luận và thực tiễn liên
quan đến hộ gia đình, thu nhập và nâng cao thu nhập cho hộ gia đình thông
qua điều tra, phỏng vấn để thấy được thực trạng về thu nhập từ các hộ gia
đình trong xã từ đó đặt ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập
cho các hộ gia đình trong toàn xã Hải Ninh, Huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa
trong điều kiện hiện nay.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi về nội dung
Do điều kiện về thời gian hạn hẹp, đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên
cứu những tồn tại trong kinh tế hộ nông dân, từ đó đưa ra một số giải pháp
chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình ở xã Hải Ninh, huyện
Tĩnh Gia, tỉnh Thanh hóa.
 Phạm vi về không gian
Địa bàn nghiên cứu là các hộ gia đình xã Hải Ninh, huyện Tĩnh Gia,
tỉnh Thanh Hóa.

 Phạm vi về thời gian:
Thời gian thực tập: từ 01/2014 đến 04/2014.
Số liệu thứ cấp: Được thu thập trong 3 năm từ 2010 đến 2013
Số liệu sơ cấp: Tổng hợp qua phiếu điều tra năm 2014
Đề xuất các giải pháp thực hiện tronggiai đoạn 2015 - 2020.
1.4 Giả thiết nghiên cứu
Có sự khác biệt về mức thu nhập giữa các hộ gia đình, mức thu nhập
của các hộ gia đình ở đây chịu sự ảnh hưởng bởi một số nhân tố sau:
- Ngh nghip và vic làm: nhng h gia ình có nhiu ngh ph, nhiu
ngun thu nhp có thu nhp cao hn nhng h gia ình có ngun thu nhp t
làm rung và chn nuôi hay ánh bt cá trên bin.
- Gii tính: mc thu nhp  ây    c tính chung cho h gia ình. Do ó
vic phân bit nam – n rt khó  nh v, tuy nhiên thc t n gii ch có ngun
thu nhp t làm rung và chn nuôi. Bi vy có óng góp thu nhp gia ình
so vi nam gii. Nhim v ca h là   m bo l  ng thc   n.
5
– Hc vn: do mt bng dân trí  ây nhìn chung là thp và ngang
nhau, do ó mc chênh lch không cao, nhng mt quy lut chung là nhng
ng i có trình   hc vn cao thì mc thu nhp cng cao hn nhng ng  i
trình   hc vn thp, và nhn thc kém hn.
- Tui tác: tui tác cng óng vai trò quan trng trong vic to thu
nhp. Thanh niên tui t 18   n 25 có óng góp nhiu. Tuy nhiên h không
phi là hng ng  i giàu có. Ng c li nhng ng  i    tui ≥50 lại có mức
thu nhập cao nhất.
- Ngoài ra một số nhân tố khác như ruộng đất, vốn kỹ thuật cũng
góp phần là những nguyên nhân ảnh hưởng đến mức thu nhập của hộ gia
đình xã Hải Ninh mà trong khuôn khổ hạn hẹp báo cáo chỉ đề cập đến một
cách sơ lược.
6
PHẦN II

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO
THU NHẬP CHO HỘ GIA ĐÌNH
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm hộ
Xoay quanh vấn đề về hộ vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác
nhau như:
- Tại Hội thảo về quản lý nông trại tại Hà Lan năm 1980 trên quan
điểm sản xuất đến các đại biểu thống nhất cho rằng:
“Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan tới sản xuất, tái sản xuất,
đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác”.
- Về phương diện thống kê Liên Hợp Quốc cho rằng:
“Hộ là những người sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và
có chung ngân quỹ”.
Khi nghiên cứu quá trình đô thị hoá Châu Á, GS. MC. GEE (1989)
nguyên giám đốc học viện Châu Á thuộc đại học Colombia - Hoa Kỳ có quan
điểm thiên về thu nhập. Theo ông, thành viên của hộ không nhất thiết phải là
sống chung dưới một mái nhà miễn là họ có đóng góp vào ngân quỹ chung.
Dưới góc độ nhân chủng học RAUL(1989) khẳng định: “Hộ là tập hợp
những người chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình
sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính mình”.
Mét số học giả khác như: MEGE (1989); Nguyễn Văn Huân; Mai Văn
Vò (1990). . . Qua nghiên cứu thực tế đã khẳng định các thành viên của hộ
không nhất thiết có chung huyết tộc.
Trên thực tế, cũng có sự thống nhất về khái niệm hộ, khái niệm hộ được
khái quát như sau: “Hộ là nhóm người chung huyết tộc hoặc không chung
7
huyết tộc, họ không nhất thiết cùng sống chung dưới một mái nhà nhưng có
chung nguồn thu nhập và ăn chung. Các thành viên của hộ cùng tiến hành các
hoạt động sản xuất và có cùng chung ngân quỹ”.

“Ăn chung” được hiểu theo nghĩa là các thành viên trong hộ được phân
phối bởi nguồn thu nhập chung, cái mà họ đã cùng sáng tạo ra trong một
khoảng thời gian nhất định.
Theo GS. Đào Thế Tuấn (1996): “Hộ là một nhóm người cùng chung
huyết tộc sống chung hay không sống chung với những người khác huyết tộc
trong cùng một mái nhà. Ăn chung và có chung ngân quỹ, có phân phối chung
nguồn thu nhập mà các thành viên của họ sáng tạo ra”.
2.1.1.2 Khái niệm hộ gia đình
Gia đình và hộ là hai khái niệm khác biệt. Một hộ có thể chỉ bao gồm một
cá nhân hay nhiều thành viên có hoặc không có quan hệ huyết thống với nhau.
Hộ có thể là một gia đình hạt nhân, một gia đình mở rộng hay một đại gia đình.
Tóm lại, một hộ có thể có nhiều gia đình hoặc không có một gia đình
nào cả, ngược lại, một gia đình có thể trải rộng thành nhiều hộ. Thông
thường, gia đình và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi "Hộ gia đình". Mỗi
hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu, trong đó ghi rõ
số nhân khẩu, chủ hộ và quan hệ giữa các thành viên với chủ hộ.
 Kinh tế hộ gia đình
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 của Việt Nam xác định
kinh tế hộ gia đình là một đơn vị sản xuất cơ sở, cần thiết cho quyền chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh tế gia đình nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nông nghiệp ở nông
thôn được thực hiện quyền tự chủ và được quan tâm, khuyến khích phát triển
dưới hình thức hợp tác xã và các hình thức liên kết khác. Ngoài các chính
sách bảo hộ quyền và nghĩa vụ, Nhà nước còn có các chính sách khác hướng
8
tới việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ
kỹ thuật; phổ biến, ứng dụng công nghệ mới cho sản xuất chế biến; cung cấp
dịch vụ vật tư; hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho
kinh tế hộ gia đình và trang trại.

Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia
đình được hình thành. Ngày nay hình thức sản xuất này đang chịu nhiều tác
động và cũng đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của
xã hội phát triển - xã hội công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp. Vì lẽ đó, cần
tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Gắn liền với các thời kỳ phát
triển là các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Hai phương thức sản xuất cơ
bản tồn tại trong quyền phát triển, đó là sản xuất tự cung tự cấp (sản xuất tự
nhiên) và sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế nào cũng phải tham gia giải quyết
các yếu tố cơ bản trong quyền sản xuất: - Sản xuất cái gì? - Sản xuất bao
nhiêu? - Sản xuất như thế nào? - Phân phối sản phẩm ra sao?
Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thoả mãn
nhu cầu thiết yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết
định về loại hình sản phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó
hẹp trong phạm vi những người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất.
Của cải vật chất có dư thừa đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng
đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau của mỗi chế độ. Tính thị trường
của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn mang
tính trao đổi giản đơn. Phân công lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự
nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh.
9
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, sản phẩm được sản xuất ra không
chỉ để đáp ứng nhu cầu cho người sản xuất, mà còn để trao đổi nhằm thỏa
mãn nhu cầu không ngừng gia tăng của người tiêu dùng, của xã hội. Sự trao
đổi sản phẩm dần dần được tách ra, độc lập với quá trình sản xuất và được thực
hiện thông qua thị trường. Vì lẽ đó, việc sản xuất cái gì? Sản xuất phục vụ ai?
Sản xuất bao nhiêu và như thế nào? đều do cơ chế thị trường quyết định với sự

can thiệp của các qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị và giá cả thị trường.
 Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam
Việt Nam thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp hàng thế kỷ nay, nhưng tiến trình
diễn ra rất chậm chạp và sự chuyển tiếp là việc thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung theo cơ chế bao cấp
kéo dài suốt mấy chục năm qua. Cách mạng giải phóng dân tộc với hai cuộc kháng chiến trường kỳ tiến tới
thống nhất tổ quốc cũng là một nguyên nhân góp phần làm giảm phát triển kinh tế đất nước. Chỉ tới thập niên
cuối thế kỷ XX, khi bắt tay vào thực hiện công cuộc Đổi mới, chúng ta mới thực sự tiến hành từng bước
chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Do những đặc điểm địa lý tự nhiên và thiếu trình độ, kiến thức, kinh
nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường nên mặc dù trong những năm qua kinh
tế đất nước tuy có tăng trưởng, nhưng phát triển không đồng đều giữa các
vùng. Bên cạnh sự phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá đang diễn ra ở các đô
thị và các tỉnh đồng bằng, vẫn tồn tại các hình thức sản xuất còn biểu hiện của
nền kinh tế tự cung tự cấp (kinh tế tự nhiên) ở các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa.
Thực chất sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không chỉ là sự
thay đổi hình thức kinh tế vĩ mô mà còn thay đổi cả hệ thống kinh tế vi mô.
Đó là sự thay đổi phương thức hoạt động, thay đổi hình thức tổ chức của các
đơn vị kinh tế, trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất của xã hội.
Trước đây, các tổ chức kinh tế mang các tên gọi khác nhau: nhà máy, xí
nghiệp, công ty, cửa hàng, hợp tác xã, cá thể, tư nhân, v.v… Ngày nay trong
cơ chế thị trường, các đơn vị tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đều
được thống nhất chung với tên gọi là Việt Nam. Hiện nay ở nước ta có các
10
loại hình doanh nghiệp với các thành phần chủ sở hữu như sau: cá nhân,
nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty (công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phẩn), hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ gia đình.
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được
phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc

phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp Việt Nam, kinh tế hộ gia đình lại
càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số
đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành
công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất
nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ gia đình
là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một
trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt
động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất
và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh
và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ
gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình
nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay, tại một
số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mô sản xuất và
kinh doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng phát triển và
mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng khu vực, từng địa bàn, cần phân
loại các hộ gia đình theo trình độ sản xuất hàng hoá, khả năng tự chủ trong
kinh doanh, mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh tế để có những biện pháp hỗ trợ
thích hợp. Hộ gia đình có nhiều ưu thế, nhưng cũng có nhiều khó khăn, hạn chế
11
về nhiều mặt. Việc tác động của Nhà nước, kết hợp với sự liên kết hỗ trợ hướng
dẫn của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã… là rất cần thiết.
Xem xét đến vấn đề kinh tế nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nói riêng
không thể không đề cập đến vấn đề tiêu dùng. Tiêu dùng là hành vi tất yếu và
thường xuyên của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần
của cá nhân, cộng đồng, của toàn xã hội. Tiêu dùng vừa là mục tiêu vừa là tiền
đề của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Mức độ tiêu dùng có thước đo và được chi
phối bởi yếu tố thu nhập thực tế tính theo đầu người. Các nước phương Tây có

nền kinh tế phát triển, tích lũy tư bản, phúc lợi xã hội và thu nhập cá nhân cho
phép đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội phát triển cao.
Do kết quả của sự chi phối, giao lưu kinh tế quốc tế trong việc thực
hiện chính sách mở cửa, những năm qua nền kinh tế thị trường đa thành phần
ở nước ta có những bước tăng trưởng đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo theo
sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng cả về vật chất lẫn tinh thần. Sự gia tăng về nhu
cầu tiêu dùng là quy luật tự nhiên và đáng khuyến khích. Tuy nhiên, trong
trường hợp kinh tế kém phát triển như ở nước ta, chưa thể có mức tiêu dùng
bình quân cao được.
Hiện nay, có hiện tượng một bộ phận hộ gia đình thu nhập cao, tập
trung ở thành thị, mức sống và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều
lần so với những hộ dân sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan tâm
giải quyết để thực hiện tính công bằng trong phát triển kinh tế - xã hội theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Xóa đói giảm nghèo, tình trạng thất nghiệp,
phân công lao động và giải quyết việc làm, thực tế hộ gia đình cũng là những
vấn đề cần được đề cập trong nghiên cứu về các chính sách liên quan tới lĩnh
vực Gia đình.
2.1.1.3 Thu Nhập
Khái niệm thu nhập được từ điển tiếng việt định nghĩa như sau:
Thu nhập là việc nhận được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động
12
nào đó, hay là các khoản thu nhập được trong một khoảng thời gian nhất định
thường tính theo tháng, năm… (trang 925 – từ điển Tiếng Việt).
Từ định nghĩa trên cho ta thấy khi nói đến thu nhập thường người ta
nói đến hai khía cạnh:
+ Phương thức thu nhập: thu nhập bằng gì, tiền hay sản phẩm…
+ Mức thu nhập: cao hay thấp, so sánh chung trong xã hội hoặc cụ thể
trên mỗi địa bàn.
Mỗi người lao động đều mong ước có được thu nhập cao, để đáp ứng
cho các khoản chi phí trong cuộc sống, đáp ứng cho nhu cầu cá nhân của con

người. Tuy vậy chúng ta chỉ có thể đạt được thu nhập cho bản thân sau khi lao
động trong một giới hạn, do đó con người luôn tìm cách để nâng cao năng
suất lao động từ đó nâng cao thu nhập.
•Mức thu nhập.
Mức là cái xác định về mặt nhiều ít, làm căn cứ để nhằm đạt tới trong hoạt
động, để làm chuẩn đánh giá, so sánh ( từ điển Tiếng Việt – Trang 163).
Vậy có thể hiểu mức thu nhập là các khoản thu nhập được định mức
quy đổi ra tiền tệ hoặc sản phẩm nhằm so sánh lẫn nhau, mức thu nhập
thường được đánh giá là cao hoặc thấp.

•Cơ cấu thu nhập.
Cơ cấu là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện chức năng của
chỉnh thể.
Như vậy có thể hiểu cơ cấu thu nhập trên bình diện theo các loại tổ
chức thành phần. Tuy nhiên ở đây xét chủ thể của thu nhập là các hộ gia đình,
các nhóm xã hội tạo nên thu nhập. Vậy cơ cấu của nhóm xã hội đó là các yếu
tố xã hội như nghề nghiệp giới tính, tuổi tác, học vấn,…
•Thu nhập của lao động nông thôn
13
Thu nhập biểu thị bằng một lượng giá trị hoặc hiện vật mà người lao
động nhận được bằng hoạt động lao động của mình.
Như vậy, với nền kinh tế quốc dân, thu nhập là tổng giá trị sản lượng
hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được tạo ra trong một đơn vị thời gian. Với
chủ doanh nghiệp tư nhân, thu nhập là lợi nhuận ròng mà họ có được sau mỗi
chu kỳ sản xuất kinh doanh. Với người công nhân, thu nhập của họ chính là
tiền lương mà họ nhận được.
Với người lao động nông thôn, thu nhập có hai phần cơ bản:
- Thu nhập tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tiền công
do làm thuê.
- Các khoản hỗ trợ từ người thân, họ hàng, các khoản trợ cấp

Trong cơ cấu thu nhập của lao động nông thôn, phần thu nhập từ hoạt
động sản xuất kinh doanh, làm thuê chiếm tỷ lệ tuyệt đối lớn và có vai trò
quyết định đến sự phát triển của kinh tế nông thôn. Phần được hỗ trợ chiếm tỷ
lệ nhỏ bé và không thường xuyên, nó chỉ có vai trò giúp cho lao động nông
thôn giảm phần nào gánh nặng của cuộc sống trong thời kỳ khó khăn.
 Trong thời kỳ hiện nay, thu nhập của lao động nông thôn nước ta có
hai biểu hiện rất rõ nét:
- Thứ nhất : thu nhập của lao động nông thôn là rất thấp và có khoảng
cách khá xa so với thành thị. Sự chênh lệch thu nhập giữa nông thôn và thành
thị là do cơ hội việc làm ở thành thị lớn hơn, năng suất lao động hay hiệu quả
công việc ở thành thị cao hơn. Đây là lý do hình thành luồng di dân từ nông
thôn ra thành thị với mức độ ngày càng tăng. Điều đó tạo ra yêu cầu khách
quan là phải có giải pháp hợp lý nhằm tạo việc làm cho lao động nông thôn
và nâng cao hiệu quả của lao động nông thôn, hạn chế sự chênh lệch quá lớn
về thu nhập giữa nông thôn và thành thị từ đó khắc phục những ảnh hưởng
tiêu cực do sự chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị gây ra.
14
- Thu nhập của lao động nông thôn không ổn định. Nông nghiệp nước
ta cơ bản vẫn là nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, trình độ canh tác cũng như cơ
sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu do đó chứa đựng những rủi ro lớn.
Những năm qua, các hiện tượng thiên tai như lũ lụt, hạn hán, sâu
bệnh… làm cuộc sống của cư dân một số vùng nông thôn thêm khó khăn. Một
số năm gần đây, dịch bệnh như cúm gia cầm, bệnh lở mồm long móng xuất
hiện nhiều hơn làm nhiều nông dân mất đi tài sản có giá trị lớn, nhiều người
trở thành mắc nợ. Ngoài sự rủi ro vì những yếu tố bất thường của tự nhiên,
người nông dân cũng phải đối mặt với những rủi ro về thị trường do giá cả
nông sản không ổn định.
Trong nông thôn, thị trường lao động cũng thiếu tính ổn định do tính
thời vụ của sản xuất nông nghiệp. Trong kỳ thời vụ, nhu cầu thuê lao động
tăng nhưng thuê nhân công vừa khó vừa phải trả tiền công cao. Ngược lại,

thời kỳ nhàn rỗi nhu cầu thuê lao động thấp, người nông dân không có việc
làm nên họ sẵn sàng làm thuê với mức tiền công thấp, thu nhập của lao động
nông thôn không ổn định thể hiện rõ ở những vùng sản xuất thuần nông.
Một thực tế hiện nay là năng suất lao động của người dân nông thôn nói
chung và thanh niên nông thôn nói riêng vẫn còn thấp nên dẫn đến thu nhập của
người dân thường thấp, đời sống gặp nhiều khó khăn, thu nhập chưa đáp ứng được
nhu cầu của cuộc sống hiện tại khi giá cả các mặt hàng ngày càng đắt đỏ hơn.
Trên thế giới có nhiều nhà khoa học quan tâm đến vấn đề thu nhập, có
nhiều công trình nghiên cứu khoa học, thảo luận về vấn đề này. Các đề tài
nghiên cứu hay các cuộc hội thảo, thảo luận đều mục đích tìm ra những giải
pháp nâng cao thu nhập cho người lao động nói chung và thanh niên nói riêng.
Biện pháp chủ yếu đều đưa ra là nhằm nâng cao năng suất của lao động.
2.1.1.4 Một số khái niệm liên quan khác
+ Lao động: lao động là khái niệm chung dùng để chỉ con người khi
15
tham gia vào các hình thức sản xuất nào đó trong xã hội, là hoạt động quan
trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã
hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định
sự phát triển của đất nước. Người lao động có thể qua đào tạo và không qua
đào tạo hoặc chưa qua đào tạo; có thể là những lao động giản đơn hoặc lao
động phức tạp.
Lực lượng lao động bao gồm toàn bộ những người từ 15 tuổi trở lên
đang có việc làm hoặc không có việc làm, nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn
sàng làm việc
Nguồn lao động là toàn bộ dân số trong độ tuổi trừ đi những người
trong độ tuổi này hoàn toàn mất khả năng lao động. Theo quy định của Tổng
cục Thống kê khi tính toán cân đối nguồn lao động xã hội, nguồn lao động
gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những
người ngoài tuổi lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân.
Số lượng lao động: là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có

khả năng lao động. ở nước ta theo quy định của Bộ Luật lao động người trong
độ tuổi lao động là: nam từ 15 - 60 tuổi; nữ từ 15 - 55 tuổi.
Chất lượng lao động: thể hiện qua trình độ lành nghề, hiểu biết, vận
dụng khoa học - kỹ thuật, sức khoẻ
+ Năng suất lao động:
Năng suất lao động là "Sức sản xuất của lao động cụ thể có ích", nói
lên kết quả hoạt động sản xuất có mục đích của con người trong một đơn vị
thời gian nhất định. Năng suất lao động đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất
ra trong một đơn vị thời gian, hoặc bằng lượng thời gian hao phí để sản xuất
ra một đơn vị sản phẩm.
Theo C. Mác "Năng suất lao động thường được dùng đồng nghĩa với
hiệu quả của sức lao động" và "Khả năng của sức lao động". Từ định nghĩa
16
năng suất lao động của C. Mác, mức năng suất lao động được xác định bằng
số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một thời gian lao động.
+ Việc làm: mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị
pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Nếu không có việc làm sẽ sinh
ra rất nhiều vấn đề ảnh hưởng đến đời sống của người dân.
+ Nghề nghiệp
Trong đời sống sản xuất của xã hội cũng như trong đào tạo cán bộ kỹ
thuật, đào tạo công nhân chúng ta thường nói đến một khái niệm nghề.
Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết
tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định.
Trình độ lành nghề của lao động thể hiện chất lượng của lao động. Nó
thể hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật sản xuất và kỹ năng lao động
để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một
nghề, một chuyên môn nào đó.
Trình độ lành nghề liên quan chặt chẽ tới lao động phức tạp. Lao động
có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp
hơn. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một

giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn.
Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo nghề cho
nguồn nhân lực, tức là trang bị kỹ thuật sản xuất cho người lao động, để họ
nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có
chuyên môn rồi hay học để làm nghề, chuyên môn khác.
Ở một khía cạnh khác: nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà
trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng
để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, tạo ra nguồn thu
nhập đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
2.1.2 C¸c chØ tiªu ®¸nh gi¸ kinh tÕ hé
2.1.2.1 C¸c chØ tiªu ®Þnh tÝnh
17

×