Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón npk (3-6-1) đến sinh trưởng của lát hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA NÔNG LÂM NGƯ NGHIỆP
BÁO CÁO
THỰC TẬP CUỐI KHOÁ
Chuyên nghành: Lâm học
Đề tài: NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN NPK (3-6-1)
ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LÁT HOA (Chukrasia tabularis A.Juss)
GIAI ĐOẠN 1 - 3 THÁNG TUỔI TẠI VƯỜN ƯƠM CƠ SỞ 3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
Người thực hiện : Đào Thị Thắm
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Bùi Thị Huyền
Thanh Hoá, tháng 05 năm 2011
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
KHOA NÔNG LÂM NGƯ NGHIỆP
BÁO CÁO
THỰC TẬP CUỐI KHOÁ
Chuyên nghành: Lâm học
Đề tài: NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA PHÂN BÓN NPK (3-6-1)
ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LÁT HOA (Chukrasia tabularis A.Juss)
GIAI ĐOẠN 1 - 3 THÁNG TUỔI TẠI VƯỜN ƯƠM CƠ SỞ 3
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC
Người thực hiện : Đào Thị Thắm
Lớp : K10 Đại Học Lâm Học
Khoá học : 2007 - 2011
Giáo viên hướng dẫn : Ths. Bùi Thị Huyền
Thanh Hoá, tháng 05 năm 2011
MỤC LỤC
MỤC NỘI DUNG
TRANG
Lời lời cảm ơn…………………………………………… 4
Mở đầu…………………………………………………… 5


Chương I Tổng quan về tài liệu nghiên cứu………………………… 6
1.1 Đặc điểm về đối tượng nghiên cứu ……………………… 6
1.2 Cơ sở khoa học của việc bón phân……………………… 7
1.3 Những nghiên cứu trên thế giới………………………… 10
1.4 Những nghiên cứu ở Việt Nam………………………… 10
1.4.1 Những nghiên cứu về phân bón…………………………… 11
1.4.2 Những nghiên cứu về cây Lát hoa………………………… 12
Chương II Đối tượng, mục tiêu, nội dung và phương pháp nghiên cứu 14
2.1 Đối tượng nghiên cứu…………………………………… 14
2.2 Mục tiêu nghiên cứu………………………………………. 14
2.3 Nội dung nghiên cứu………………………………………. 14
2.4 Phương pháp nghiên cứu………………………………… 14
2.4.1 Phương pháp bố trí thí nghiêm……………………………. 14
2.4.2 Chỉ tiêu theo dõi…………………………………………… 16
2.4.3 Phương pháp theo dõi chỉ tiêu…………………………… 16
2.4.4 Phương pháp sử lý số liệu…………………………………. 18
Chương III Kết quả nghiên cứu và phân tích kết quả nghiên cứu…… 22
3.1 Đặc điểm khu vực và đối tượng nghiên cứu………………. 22
3.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên…………………………… 22
3.1.2 Đặc điểm về điều kiện sản xuất…………………………… 23
3.2 Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón NPK (3:6:1)
ở các nồng độ khác nhau đến một số chỉ tiêu sinh trưởng
của cây gieo ươm…………………………………………
23
3.2.1 Ảnh hưởng của phân bón NPK (3:6:1) đ ến chiều cao cây 25
3.2.2 Ảnh hưởng của phân bón NPK (3:6:1) đến đường kính cổ
rễ…………………………………………………………
28
3.2.3 Ảnh hưởng của phân bón NPK (3:6:1) đến chiều dài lá… 30
3.3 Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng của

cây con……………………………………………………
32
3.4 Xác định nồng độ phân bón thích hợp…………………… 34
3.5 Đề xuất các giải pháp kỹ thuật chăm sóc và bón phân cho
cây gieo ươm……………………………………………….
41
Chương IV Kết luận, tồn tại và kiến nghị……………………………… 43
4.1 Kết luận……………………………………………………. 43
4.2 Tồn tại…………………………………………………… 43
4.3 Kiến nghị………………………………………………… 44
Tài liệu tham khảo………………………………………… 46
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1) TN Thí nghiệm
2) CT Công thức
3) ĐC Đối chứng
4) H
vn
Chiều cao cây
5) D
0
Đường kính cổ rễ
6) L
l
Chiều dài lá
7) LN Lần nhắc
7) TB Trung bình
8) Giá trị trung bình
9) LSD
0.05
Ngưỡng so sánh

10) CV% Sai số thí nghiệm
11) PROB Xác xuất
X
LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của trường Đại học Hồng Đức, Khoa Nông lâm ngư
nghiệp, Bộ môn lâm nghiệp đã tiến hành kỳ thực tập cuối khoá của mình tại
vườn ươm cơ sở 3 trường ĐH Hồng Đức từ ngày 10/1 đến ngày 20/5/2010
với nội dung “Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón NPK (3-6-1) đến sinh
trưởng của L át hoa giai đoạn 1 - 3 tháng tuổi tại vườn ươm”.
Để thực hiện được báo cáo này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ của Ban
giám hiệu trường Đại học Hồng Đức, Ban chủ nhiệm khoa Khoa Nông lâm
ngư nghiệp, các thầy cô giáo trong bộ môn Lâm nghiệp và cô giáo hướng
dẫn.
Nhân dịp này tôi xin chân thành cảm ơn tới Ban giám hiệu, Ban chủ
nhiệm khoa nông lâm ngư nghiệp và các thầy cô giáo trong bộ môn Lâm
nghiệp đặc biệt là cô giáo hướng dẫn Bùi Thị Huyền đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về trình độ, thời gian và
kinh phí nên báo cáo không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Rất
mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các nhà khoa học và
các bạn đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thanh Hóa, tháng 5 năm 2010
Sinh viên : Đào Thị Thắm

MỞ ĐẦU

Lát hoa (Chukrasia tabularis A.Juss) là cây gỗ lớn thuộc họ Xoan
(Meliaceae Juss), là cây gỗ lớn mọc khá nhanh. Gỗ có màu hồng nhạt, có

ánh vân đẹp, cứng và nặng trung bình, dễ làm, ít co giãn, không bị mối mọt,
thường dung để đóng đồ đạc, làm gỗ dán lạng hoặc trang sức bề mặt. Dễ gây
trồng và có thể phát triển trên diện rộng của các tỉnh Bắc Trung Bộ [2].
Chất lượng cây con đem trồng rừng đóng một vai trò quan trọng
trong sản xuất lâm nghiệp. Chất lượng cây con đem trồng rừng phụ thuộc
vào chất lượng hạt giống và kỹ thuật chăm sóc cây con, trong đó bón phân
và phân loại phân bón là một trong những nhân tố quyết định. Bón đủ phân
và bón phân hợp lý sẽ phát huy hết tiềm năng của cây, cây con sẽ đủ tiêu
chuẩn trồng rừng.
Thực tế cho thấy bón phân có tác động rất lớn đến sinh trưởng và chất
lượng cây con. Một nguyên tắc quan trọng trong việc bón phân cho cây
trồng là phải cân đối NPK. Đây là các nguyên tố đa lượng cây cần nhiều
nhất, nếu thiếu một chất nào cũng đều ảnh hưởng không tốt đến sinh trưởng
và năng suất của cây. Ngược lại nếu bị thừa cũng không có lợi cho cây, lại
tốn thêm chi phí. Nhu cầu các chất NPK khác nhau tùy theo loại cây và giai
đoạn sinh trưởng của cây.
Phân bón NPK (3-6-1) là loại phân bón tổng hợp. Trong đó thành
phần gồm các nguyên tố N, P, K, là 3 trong các nguyên tố có ý nghĩa quan
trọng trong đời sống thực vật.
Để nâng cao sự hiểu biết của mình về công tác vườn ươm và góp phần
nâng cao chất lượng cây con đem trồng rừng tôi thực hiện chuyên đề:
“Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón NPK (3-6-1) đến sinh trưởng của Lát
hoa ở giai đoạn 1- 3 tháng tuổi tại vườn ươm cơ sở 3 trường Đại học Hồng
Đức". Kết quả của đề tài sẽ góp phần xây dựng quy trình kỹ thuật sản xuất
cây con lát hoa.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm về đối tượng nghiên cứu
Lát hoa là cây gỗ lớn, cao 25 – 30m, đường kính 120 – 130cm. Thân
thẳng, lá kép lông chim một lần chẵn. Lá chét 7 – 10 đôi mọc cách, dài 10 –

12cm, rộng 5 – 6cm, hình trái xoan hoặc mũi mác, đầu có mũi nhọn. Hoa nở
vào tháng 4 – 5, quả hình bầu dục có đầu nhọn dài 4 – 5cm, rộng 2 – 3cm,
mỗi ô có nhiều hạt chất ngang thành 2 hàng, quả chín váo tháng 11 [2].
Lát hoa sống ở những vùng đá vôi hoặc thung lũng núi đá hoặc núi
đất, mọc tới độ cao 800mưa sáng, mọc chậm, sống lâu, khi nhỏ ưa bóng,
sinh trưởng nhanh. Cây 10 tuổi trở lên có tốc độ sinh trưởng chậm hơn [2].
Ở Việt Nam Lát hoa phân bố nhiều ở các tỉnh phía bắc từ Hà Tĩnh trở ra
Thanh Hoá, Lạng Sơn [2] .
Gỗ nặng, màu hồng nhạt, lõi màu đỏ, có ánh đồng, vân đẹp, thớ mịn,
ít co giãn, cong vênh, không bị mối mọt, thường được dùng đóng đồ gỗ cao
cấp. Lát hoa được dùng để cải tạo, phục hồi rừng hoặc trồng rừng phân tán
[2].
Kỹ thuật hạt giống: Quả chín từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau. Khi
chín chuyển từ màu xanh sang màu nâu sẫm. Hạt lúc chín có màu cánh dán.
Quả thu về rải đều phơi trong nắng nhẹ, rồi đập lấy hạt. Hạt phơi trong nắng
nhẹ sau 2 ngày kiểm tra hạt khô đem cất trữ băng cách cho hạt vào lọ sành,
trên rắc một lớp tro mỏng, để nơi thoáng mát hoặc bảo quản lạnh bằng cách
giữ nhiệt độ thường xuyên 0
0
C, sau 10 tháng tỷ lệ nảy mầm giảm 5% so với
khi mới thu hái [3] .
Kỹ thuật nhân giống bằng hạt. Hạt tốt trước khi gieo phải xử lý bằng
cách ngâm nước ấm 35 -40
0
C trong 3 – 5 giờ, vớt ra rửa chua rồi ngâm.
Hàng ngày rửa chua. Khi hạt nứt nanh đem gieo. Gieo vãi hạt sau đó lấp một
lớp đất mỏng 0.3 – 0,5cm, trên phủ rơm rạ đã tẩy trừ sâu nấm để giữ ẩm. [3].
Kỹ thuật chăm sóc cây con trong vườn ươm [3] bao gồm:
- Tưới nước đủ ẩm để giữ ẩm cho đất sau khi cấy, tưới thường xuyên
và liên tục 2lần/ngày vào buổi sáng sớm và buổi chiều mát trong 20 ngày

đầu sau khi cấy, sau đó có thể giảm xuống 1lần/ngày hoặc chỉ tưới khi đất
khô.
- Che bóng cho cây sau khi cấy
- Nhổ cỏ phá váng định kỳ 10-15 ngày 1 lần, cỏ trên mặt luống phải
luôn sạch, kết hợp với dung que vót nhọn xới nhẹ lớp váng tạo trên mặt bầu.
- Bón thúc định kỳ để thúc đẩy sinh trưởng của cây con. Sau khi tưới
phân phải tưới rửa bằng nước lã. Không được tưới nước vào những ngày
nắng gắt, vào lúc buổi trưa. tốt nhất là nên bón vào những ngày râm mát
hoặc mưa phùn.
1.2. Cơ sở khoa học của việc bón phân.
Phân bón có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của thực vật nói
chung và Lát hoa nói riêng. Nó không những có tác dụng làm cho cây sinh
trưởng nhanh mà còn là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát
triển cơ thể thực vật.
Theo nhiều tài liệu trên thế giới, chí sử dụng phân bón chiếm 30%.
Việc kết hợp cân đối các nguồn phân, khả năng cung cấp của đất, thế thống
canh tác, giống cây trồng, điều kiện thời tiết thích hợp sẽ nâng cao hiệu quả
sư dụng phân bón, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất, bảo vệ môi
trường sinh thái bền vững.
Phân bón là các chất hữu cơ hoặc vô cơ chứa các nguyên tố dinh
dưỡng cần thiết cho cây trồng đươc bón trực tiếp vào đất hoặc hoà lẫn vào
nược phun, xử lý hạt giống, rễ và cây con.
Cây trồng cần cung cấp các chất dinh dưỡng để sinh trưởng và phát
triển. Các chất dinh dưỡng này bao gồm các nguyên tố đa lượng, trung
lượng, vi lượng và các nguyên tố khoáng cần thiết cho cây, chúng đều có
trong đất và được cây tròng hấp thụ qua hệ thống rễ. Tuy nhiên số lượng các
nguyên tố này đất không có khả năng cung cấp đủ cho cây trồng trong quá
trình sinh trưởng, do đó phải bón phân bổ sung. Hiện tượng cây thiếu các
nguyên tố vi lượng vẫn xảy ra do trong đất quá nghèo hoặc bón không đủ
phân hữu cơ, nhu cầu dinh dưỡng của cây cao mà đất không cung cấp đủ.

Viêc bón phân cho cây trồng phải tiến hành thường xuyên và được chú trọng
để tạo điều kiện cho cây sinh trưởng tốt và nâng cao sức sống cho cây trồng.
Bón phân cũng như những biện pháp kỹ thuật canh tác khác nhau,
thường không chỉ gây ra một tác động trực tiếp dẫn đến một kết quả nào đó
mà thường có nhiều tác động lên các thành tố trong hệ sinh thái và có thể
dẫn đến những kết quả khác nhau. Do đặc điểm của quá trình phản ứng dây
chuyền và quá trình tiếp nhận các tác động từ bên ngoài vào các hệ sinh thái
mà có thể có những tác động rất mạnh nhưng không gây ra hiệu quả gì đáng
kể, trong khi đó, có những tác động nhẹ nhàng, nhưng được nhân lên trong
phản ứng dây chuyền và tạo nên những hiệu quả rất lớn. Bón phân hợp lý có
thể không cần sử dụng những lượng phân bón mà có thể đạt được hiệu quả
rất cao [16].
Theo Nguyễn Xuân Quát (1985)[6], để giúp cây con
sinh trưởng và phát triển tốt, vấn đề bổ sung thêm chất
khoáng và cải thiện tính chất của ruột bầu bằng cách bón
phân là rất cần thiết. Trong giai đoạn vườn ươm, những yếu
tố được đặc biệt quan tâm là đạm, lân, kali và các chất phụ
gia.
Đạm (N) là chất dinh dưỡng cần cho sinh trưởng và phát
triển của cây
trồng. Mặc dù hàm lượng trong cây không cao, nhưng nitơ lại
có vai trò quan trọng bậc nhất. Thiếu nitơ cây không thể tồn
tại. Nitơ là thành phần quan trọng cấu tạo nên tất cả các axit
amin và từ các axit amin tổng hợp nên tất cả các loại protein
trong cơ thể thực vật. Vai trò của protein đối với sự sống của
cơ thể thực vật là không thể thay thế được. Nitơ có mặt trong
axit nucleic, tham gia vào cấu trúc của vòng porphyril, là
những chất đóng vai trò quan trọng trong quang hợp và hô
hấp của thực vật. Nói chung, nitơ là dưỡng chất cơ bản nhất
tham gia vào thành phần chính của protein, vào quá trình

hình thành các chất quan trọng như amino axit, men, nhiều
loại vitamin trong cây như B1, B2, B6…Nitơ thúc đẩy cây
tăng trưởng, đâm nhiều chồi, lá to và xanh, quang hợp
mạnh. Nếu thiếu đạm, cây sinh trưởng chậm, còi cọc, lá ít và
có kích thước nhỏ và hơi vàng. Nhưng nếu bón thừa đạm
cũng gây tác hại cho cây. Biểu hiện của triệu chứng thừa
đạm là cây sinh trưởng quá mức, cây dễ đổ ngã, nhiều sâu
bệnh, lá có màu xanh đậm vì diệp lục được tổng hợp nhiều
(Trịnh Xuân Vũ, 1975 [10]; Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998
[11]; Ekta Khurana and J.S. Singh, 2000[12]; Thomas D.
Landis, 1985[7]).
Lân (P) là yếu tố quan trọng trong quá trình trao đổi
năng lượng. Lân có tác dụng làm tăng tính chịu lạnh cho cây
trồng, thúc đẩy sự phát triển của hệ rễ. Lân cần thiết cho sự
phân chia tế bào, mô phân sinh, kích thích sự phát triển của
rễ, ra hoa, sự phát triển của hạt và quả. Cây được cung cấp
đầy đủ lân sẽ tăng khả năng chống chịu với điều kiện bất lợi
như lạnh, nóng, đất chua và kiềm.
Nếu thiếu lân, kích thước cây nhỏ hơn bình thường, lá
cây phồng cứng, lá màu xanh đậm, sau chuyển dần sang
vàng; thân cây mềm, thấp; năng xuất chất khô giảm. Ngoài
ra, thiếu lân sẽ hạn chế hiệu quả sử dụng đạm. Một vài loại
lá kim khi thiếu lân lá sẽ đổi màu xanh thẫm, tím, tím nâu
hay đỏ. Ở những loài cây lá rộng, thiếu lân sẽ dẫn đến lá có
màu xanh đậm, xen kẽ với các vết nâu, cây tăng trưởng
chậm. Khi thừa lân không thấy tác hại nghiêm trọng như
thừa nitơ (Trịnh Xuân Vũ, 1975 [10]; Viện thổ nhưỡng nông
hóa, 1998 [11]; Ekta Khurana and J.S. Singh, 2000[12];
Thomas D. Landis, 1985[7]).
Kali (K) đóng vai trò chủ yếu trong việc chuyển hóa

năng lượng, quá trình đồng hóa của cây, điều khiển quá trình
sử dụng nước, thúc đẩy quá trình sử dụng đạm ở dạng
NH4+, giúp cây tăng sức đề kháng, cứng chắc, ít đổ ngã,
chống sâu bệnh, chịu hạn và rét . Do vậy, nếu thiếu kali, thì
cây có biểu hiện về hình thái rất rõ như lá hơi ngắn, phiến lá
hẹp và có màu lục tối, sau chuyển sang vàng, xuất hiện
những chấm đỏ, lá bị khô (cháy) rồi rủ xuống (Trịnh Xuân Vũ,
1975 [13]; Viện thổ nhưỡng nông hóa, 1998 [9]). Các chất
phụ gia thường được sử dụng là xơ dừa, tro trấu…Chúng có
tác dụng làm xốp đất, giữ ẩm, thoáng khí…
Phân bón là 1 trong các biện pháp kỹ thuật được sử dụng phổ biến
thường xuyên đem lại hiệu quả lớn. Tuy nhiên bón phân cần phải cân đối để
cung cấp cho cây trồng các chất dinh dưỡng thiết yếu, đủ liều lượng, tỷ lệ
thích hợp, thời gian bón hợp lý theo từng đối tượng cây trồng, từng loại đất
và mùa vụ cụ thể sẽ đảm bảo năng xuất cao, chất lượng tốt [17].
1.3. Những nghiên cứu trên thế giới
Dinh dưỡng khoáng và Nitơ đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống
thực vật, điều kiện dinh dưỡng khoáng và Nitơ là một trong những nhân tố
chi phối có hiệu quả nhất đến quá trình sinh trưởng và phát triển ở thực vật.
Mở đầu là nhà thực vật học Hà Lan – Van Helmont (1629), ông đã
trồng cây liễu nặng 2.25kg vào thùng chứa 80kg đất. Một năm sau cây liễu
nặng 66kg trong khi đất chi giảm 66g. Tác giả kết luận: cây chỉ cần nước để
sống.
Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX thuyết Mùn do Thaer (1873)
đề xuất cho từng cây hấp thụ mùn để sống. Đến thế kỷ XIX nhà hoá học
người Đức Liibig (1840) đã xây dựng thuyết chất khoáng. Liibig cho rằng
độ màu mỡ của đất là do muối khoáng trong đất. Ông nhấn mạnh rằng việc
bón phân hoá học cho cây sẽ làm tămg năng suất cây trồng. Năm 1963,
Kinur và Chiber khẳng định việc bón phân vào đất cho từng thời kỳ khác
nhau là khác nhau.

Cũng năm đó, Turbittki đã đưa ra quan điểm: “Các biện pháp bón
phân sẽ được hoàn thiện một cách đúng đắn theo sự hiểu biết sâu sắc về nhu
cầu dinh dưỡng của cây, loại đất và phân bón”.
Vào năm 1964 ông Prianitnikov đưa ra quan điểm: phân bón là nguồn
dinh dưỡng bổ xung cho cây sinh trưởng và phát triển tốt, đối với từng loài
cây, từng tuổi cây cần có những nghiên cứu cụ thể tránh lãng phí phân bón
không cần thiết. Việc bón phân thiếu hoặc thừa đều dẫn đến biểu hiện về
chất lượng cây kém đi ,sinh trưởng chậm.
Năm 1974, Polster, Fidler và Lir cũng đã kết luận: sinh trưởng của cây
thân gỗ phụ thuộc vào sự hút các nhân tố khoáng từ trong đất trong suốt quá
trình sinh trưởng. Nhu cầu dinh dưỡng của mỗi cây thân gỗ qua các thời kỳ
khác nhau là khác nhau…
Theo Thomas (1985)[5], chất lượng cây con có mối quan hệ logic với
tình trạng chất khoáng. Nitơ và phốt pho cung cấp nguyên liệu cho sự sinh
trưởng và phát triển của cây con. Tình trạng dinh dưỡng của cây con thể hiện
rõ qua màu sắc của lá. Phân tích thành phần hóa học của mô là một cách duy
nhất để đo lường mức độ thiếu hụt dinh dưỡng của cây con.
Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Anh,
Nhật, Trung Quốc… đã sử dụng nhiều chế phẩm phân bón qua lá có tác
dụng làm tăng năng suất phẩm chất nông sản, không làm ô nhiễm môi
trường như: Atonik, Yogen…(Nhật Bản), Cheer, Organic…(Thái Lan),
Bloom Plus, Solu Spray, Spray – NGrow…(Hoa Kỳ), Đặc đa thu, Đặc
Phong, Diệp lục tố… (Trung Quốc). Nhiều chế phẩm đã được khảo nghiệm
và cho phép sử dụng trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
1.4. Những nghiên cứu ở Việt Nam
1.4.1. Những nghiên cứu về phân bón
Đi đầu trong lĩnh vực này có thể kể đến nguyễn Hữu Thước (1963),
Nguyễn Ngọc Tân (1985), Nguyễn Xuân Quát (1985), Trần Gia Biển (1985) các
tác giả đều đi đến kết luận chung rằng mỗi loại cây trồng có yêu câu về loại phân,
nồng độ, phương thức bón, tỷ lệ hỗn hợp phân bón hoàn toàn khác nhau [4].

Để thăm dò phản ứng của cây con với phân bón, Nguyễn Xuân Quát
(1985)[4] và Hoàng Công Đãng (2000) [2] đã bón lót super lân, clorua kali,
sulphat amôn với tỷ lệ từ 0- 6% so với trọng lượng ruột bầu. Đối với phân
hữu cơ, các tác giả thường sử dụng phân chuồng hoai (phân trâu, phân bò và
phân heo) với liều lượng từ 0 – 25% so với trọng lượng bầu. Một số nghiên
cứu cũng hướng vào xem xét phản ứng của cây gỗ non với nước. Tuy vậy,
đây là một vấn đề khó, bởi vì hiện nay còn thiếu những điều kiện nghiên cứu
cần thiết (Nguyễn Xuân Quát, 1985)[4].
Năm 1989, Trương Thị Thảo đã nghiên cứu về dinh dưỡng NPK đối
với Thông nhựa đã cho thấy dinh dưỡng không những ảnh hưởng đến sinh
trưởng của cây Thông nhựa mà còn ảnh hưởng đến khả năng nhiễm bệnh
của cây. Bón phân hợp lý làm tăng sức đề kháng của cây đối với bệnh phấn
trắng
[ ].
Năm 2000, Hoàng Công Đãng trong luận văn tiến sỹ đã đề cập đến
ảnh hưỏng của một số nhân tố sinh thái đến sinh trưởng và sinh khối của loài
cây bần chua, trong đó tác giả đã nghiên cứu tác động riêng lẽ của từng loại
phân NPK đến sinh trưởng và chất lượng cây con bần chua… [2]
Từ kết quả nghiên cứu của nhà bác học của nhiều nhà khoa học trong
nước cho thấy đối với từng loài, từng giai đoạn phát triển khác nhau thì yêu
cầu về phân bón cũng khác nhau. Các tác giả đã xác định chính xác định
lượng phân bón phù hợp để cây con của các loài cây đó sinh trưởng nhanh,
chất lượng tốt.
1.4.2. Những nghiên cứu về Lát hoa
Ở nước ta theo ông Lê Xuân Ái, ở VN lát hoa được phân bố cực ít tại
các tỉnh từ miền Trung trở ra. Riêng miền Đông Nam bộ chỉ duy nhất vườn
quốc gia Côn Đảo có lát hoa [14].
Theo nghiên cứu của Lê Đình Khả, năm 2003 chỉ có một loài lát hoa
duy nhất là C. tabularis, bị khai thác kiệt quệ và hiện đã có tên trong Sách
Đỏ, cần được bảo tồn. Cách đây 35 năm, cây lát hoa, với nguồn giống lấy tại

chỗ đã được trồng ở vùng núi Mộc Châu (Sơn La), Lang Chánh (Thanh
Hóa), Quỳ Hợp (Nghệ An). Đến năm 1999, Trung tâm nghiên cứu giống cây
rừng (Viện khoa học Lâm nghiệp) thực hiện một đề tài thuần hóa lát hoa,
hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa học Ô-xtrây-li-a và các nước khác
trong vùng, đã tập hợp được bộ giống 28 lô hạt của 28 xuất xứ (thuộc 9 nước
trong khu vực) [15].
Đưa trồng khảo nghiệm ở Việt Nam và Thái Lan cho thấy, khi trồng
tập trung trên đất trống và đồi trọc lát hoa bị loài sâu đục nõn (Hypsipyla)
phá hại rất nặng nề. Chẳng hạn (theo tài liệu nghiên cứu Lê Đình Khả, Hà
Huy Thịnh, Phan Thanh Hương, Mai Trung Kiên), lát hoa trồng tại Ba Vì
(Hà Tây), tỷ lệ cây (ở giai đoạn hai tuổi) có giống xuất xứ ở Thanh Hóa bị
sâu 77,3%; giống xuất xứ tại Hải Nam, Trung Quốc bị sâu 87,3%; giống
xuất xứ tại Ma-lai-xi-a bị sâu tới 95,7% Điều tra tỷ lệ cây bị sâu đục nõn ở
các điều kiện lập địa khác nhau cho thấy: Lát hoa (một năm tuổi) trồng trên
đồi trọc (ở Ba Vì), nơi có độ cao 50 mét (so với mặt biển) bị sâu phá hại
nhiều nhất (47%-88%); còn tại Tú Sơn (Hòa Bình) và Ya Jun (Gia Lai)
trồng ở độ cao 100-400 mét, đất còn tính chất rừng thì ít bị sâu (chỉ 2%-59%
và 1%-20%) [15].
Thực tế đó, chứng tỏ không thể trồng lát hoa lấy gỗ theo phương thức
trồng tập trung trên đất trống đồi núi trọc (đặc biệt là vùng đồi thấp) mà
không có cây che bóng. Vì thế, đã có một số lát hoa (kể trên) được thử
nghiệm trồng xen đồng thời với Keo lá tràm tại khu vực Đá Chông (Hà
Tây), nhằm hạn chế sự phá hại của sâu đục nõn. Với biện pháp lâm sinh này,
tỷ lệ cây bị sâu có giảm (với trồng tập trung thuần loài) nhưng vẫn còn cao,
khoảng 70-85% [15].
Quyết định số 16/2005/QĐ-BNN ngày 15/3/2005. V/v: Ban hành
Danh mục các loài cây chủ yếu cho trồng rừng sản xuất theo 9 vùng sinh
thái lâm nghiệp [18]. Lát hoa là 1 trong số cây được bổ sung vào Danh mục
các loài cây chủ yếu cho trồng rừng sản xuất nhằm đáp ứng phát triển kinh tế
lâm nghiệp và nhu cầu sản xuất, kinh doanh. Và được trồng chủ yếu ở 3

vùng trong các tỉnh sau:
Vùng Tây Bắc (TB): Gồm 4 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà
Bình
Vùng đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) gồm 10 tỉnh: Hải phòng, Hải
Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà
Nam, Ninh Bình.
Vùng Bắc Trung bộ (BTB) gồm 6 tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế.
Hiện nay có nhiều tài liệu hướng dẫn kỹ thuật gieo ươm loài lát hoa như:
Hướng dẫn kỹ thuật trồng Lát hoa của Dự án trồng rừng KFW4 tại các tỉnh Thanh
Hóa và Nghệ An [1], hướng dẫn kỹ thuật gieo ươm Lát hoa trong cuốn Sổ tay kỹ
thuật gieo ươm một số giống cây rừng, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội, 2007
của tác giả Phạm Văn Điển và Triệu Minh Đức [1]. Những tài liệu này đã cung
cấp tương đối đầy đủ kỹ thuật cho công tác gieo ươm loài cây này nhưng trong
chăm sóc việc bón thúc không xác định rõ hàm lượng. Vì vậy, để xác định một
cách chính xác hàm lượng phân bón thúc ở giai đoạn 1-3 tháng tuổi là cần thiết.
CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG, MỤC TIÊU, NỘI DUNG
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Lát hoa giai đoạn 1 - 3 tháng tuổi tại vườn ươm cơ sở 3, trường Đại
học Hồng Đức.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định ảnh hưởng của phân bón NPK (3-6-1) ở các nồng độ khác
nhau đến sinh trưởng của cây Lát hoa ở độ tuổi 1 - 3 tháng, trên cơ sở đó đề
xuất biện pháp kĩ thuật chăm sóc hợp lý giai đoạn vườn ươm.
2.3. Nội dung nghiên cứu
-Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón NPK (3:6:1) ở các nồng độ
khác nhau đến một số chỉ tiêu sinh trưởng của cây gieo ươm.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng của cây con.

- Xác định nồng độ phân bón thích hợp.
- Đề xuất các giải pháp kỹ thuật chăm sóc và bón phân cho cây Lát
hoa gieo ươm .
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm:
- Loại thí nghiệm: ngoài thực địa.
- Thành phần ruột bầu gồm: 88% đất mặt dưới tán rừng, 10% phân,
2% sufelân Lâm thao [1]. Đất được xử lý bằng thuốc Penaec P (Pflanzen)
+ Số cây TN: 30cây/công thức/1lần lặp.
+ Tổng số cây TN: 360 cây.
Công thức gồm: 4 công thức với 3 lần lặp/1 công thức TN : Được tưới thúc
phân với các nồng độ khác nhau.
∗ CT I: Nồng độ 0,1% (cứ 0,1kg phân bón hoà tan trong 100 lít nước
sạch) thì lượng phân sử dụng được tính cho 30 bầu (30 cây) cho 1 công
thức/1 lần lặp là 2.04(g) hoà tan với 2,04 lít nước.
∗ CT II: Nồng độ 0,3% (cứ 0,3kg phân bón hoà tan trong 100 lít nước
sạch) thì lượng phân sử dụng được tính là 6.12(g) hoà tan với 2,04 lít nước.
∗ CT III: Nồng độ 0,5% (cứ 0,5kg phân bón hoà tan trong 100 lít nước
sạch) thì lượng phân sử dụng được tính là 10,2(g) hoà tan với 2,04 lít nước.
∗ CT IV: Đối chứng (không tưới phân).
- Phương pháp bố trí: Phương pháp ô thí nghiệm ngẫu nhiên đầy đủ (RCB).
Các CT ( I, II, III, IV) được bốc thăm ngẫu nhiên trong mỗi lần lặp (1, 2, 3).
Sơ đồ: Phương pháp bố trí thí nghiệm
Số lần lặp Ô công thức TN
Số cây thí
nghiệm
Tổng số cây TN
Lần lặp 1
I
1

30
120
III
1
30
IV
1
30
II
1
30
Lần lặp 2
IV
2
30
120
III
2
30
II
2
30
I
2
30
Lần lặp 3 IV
3
30 120
I
3

30
II
3
30
III
3
30
360
Ảnh 01: Phương pháp bố trí thí nghiệm
2.3.2. Chỉ tiêu theo dõi:
+ Chiều cao cây. + Chiều dài của lá.
+ Đường kính cổ rễ. + Chất lượng cây con.
+ Số lá của cây.
2.3.3. Phương pháp theo dõi các chỉ tiêu:
Tiến hành thu thập số liệu đo đ ịnh k ỳ 20 ngày/1 lần.
- Chất lượng được đánh giá qua các cấp chất lượng: tốt, trung bình, xấu
dựa trên quan sát đặc điểm hình thái kích thước, mức độ sinh trưởng:
+ Cây tốt: là những cây có các chỉ tiêu sinh trưởng vượt so với các chỉ tiêu
trung bình, không bị sâu bệnh, lá xanh thẫm.
+ Cây trung bình: là những cây có chỉ tiêu sinh trưởng ở mức trung bình,
không sâu bệnh, phát triển bình thường.
+ Cây xấu: là những cây sinh trưởng kém, cụt ngọn, 2 thân, bị sâu bệnh
hại.
- Đếm số lá: (N
l
) đếm toàn bộ số lá trên cây.
- Đo chiều H
vn
là chiều dài từ gốc cây sát mặt đất đến đỉnh sinh trưởng
của cây. Dụng cụ đo: thước thẳng vạch đến mm. Cách đo: dựng thước thẳng

đứng song song với thân cây và đọc số (ảnh 02).
Ảnh 02: Phương pháp thu thập
số liệu về chỉ tiêu chiều cao H
vn
Ảnh 03: Phương pháp thu thập
số liệu về chỉ tiêu chiều dài lá L
l
- Đo kích thước lá kép (L
l
): đo từ đầu cuống lá đến cuối lá (ảnh 03).
+ Dụng cụ đo: thước thẳng vạch đến mm.
- Đo đường kính cổ rễ (D
0
):
+ Dụng cụ đo: thước Palmer đọc đến 0,1 mm.
+ Cách đo: đặt thước vuông góc với thân cây tại vị trí gốc cây sát mặt
đất. Thân cây được kẹp giữa chân thước cố định và chân thước di động(ảnh
04).
Ảnh 04: Phương pháp thu thập số liệu về chỉ tiêu đường kính cổ rễ
- Chuẩn bị thí nghiệm :
+ Chuẩn bị giống cây con trong giai đoạn nghiên cứu.
+ Chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ để thực hiện TN từ khâu làm đất, đóng
bầu, cấy cây, chăm sóc cây như bình tưới nước,bình tưới phân cho đến các
dụng cụ đo đếm các chỉ tiêu sinh trưởng.
+ Cây thí nghiệm phải được chăm sóc đúng kỹ thuật của cây gieo
ươm đối với cây con Lát hoa ở giai đoạn 1-3 tháng tuổi như:
∗ Kỹ thuật cấy cây vào bầu ( cây con nhổ đến đâu cấy đó, không để
cây con đã nhổ sang ngày mai, cây con nhổ phải được nhúng rễ trong bát
nước để tránh rễ bị khô, héo ảnh hưởng đến cây thí nghiệm và kết quả thí
nghiệm).

∗ Cây con sau khi cấy phải theo dõi chăm sóc như: tưới nước đủ ẩm,
làm giàn che nếu trời nắng và dở bỏ khi hết nắng.
Nếu trời nắng nên phá váng buổi chiều tránh ánh nắng làm khô rễ cây
khi cây đang còn non yếu, đất quá khô thì phải tưới nước đủ ẩm để phá váng
nếu không sẽ ảnh hưởng tới rễ cây con (không nên tưới quá ướt).
Các chỉ tiêu trên đo đếm trong mỗi lần thu thập số liệu. Kết quả điều
tra được ghi vào biểu số liệu gốc. Từ đó tổng hợp, lấy giá trị trung bình cho
mỗi lần lặp và phân cấp chất lượng cây theo các cấp chất lượng cây.
3.3.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu thu thập được xử lý theo phương pháp thống kê và sử dụng
phần mềm Exel để tính toán, cụ thể như sau:
♦ Dùng phương pháp phân tích phương sai 1 nhân tố [19] để đánh giá ảnh
hưởng của các công thức phân bón khác nhau ở mỗi lần lặp đến sinh trưởng
của cây con Lát hoa ở giai đoạn từ 1 - 3 tháng tuổi.
+ Trong thí nghiệm: nhân tố thí nghiệm phân bón (nhân tố A) được
lặp lại 3 lần 4 công thức.
Nhân tố A là nhân tố thí nghiệm được chia làm các cấp một cách xác
định.
Các đại lượng quan sát X
ij
là tuân theo luật chuẩn và các phương pháp
phương sai bằng nhau. Để phân tích phương sai của các thí nghiệm cần tính
các biến động sau:
- Biến động toàn bộ:
V
T
=

=
a

i 1

=
ni
j 1
(
X
ij
-
X
)
2
(1)
Công thức có thể viết:
V
T
=

=
a
i 1

=
ni
j 1
X
ij
2
- C
Với C =


=
a
i 1

=
ni
j 1
X
ij
2
/n
- Biến động nhân tố A gây nên:
V
A
=

=
a
i 1
n
i
.
X
2
i
- C (2)
X
i
là trung bình của mỗi cấp nhân tố A

Biến động này có thể ngẫu nhiên hoặc không ngẫu nhiên. Nó ngẫu
nhiên nếu nhân tố A tác động một cách đồng đều lên kết quả thí nghiệm và
nó không ngẫu nhiên nếu nó tác động một cách khác nhau lên kết quả thí
nghiệm.
Biến động thí nghiệm có thể tìm được bằng công thức sau:
V
N
= V
T
– V
A
=

=
a
i 1

=
ni
j 1
X
ij
2
-

=
a
i 1
n
i

.
X
2
i
(3)
Tính giá trị F theo công thức: F
A
=
2
2
N
a
S
S
(4)
So sánh F và F
05
, nếu F tính lớn hơn F
05
thì

phân bón có ảnh hưởng tới sinh
trưởng của cây con.
• Dùng Trình lệnh (T - D – A) để tính F
A
bằng Excel qua các bước
sau:
-B
1
: Click Tools trên thanh thực đơn. Trong hộp thoại Tools chọn

Data Analysis.
- B
2
: Trong hộp thoại Data Analysis chọn ANOVA: Single Factor.
- B
3
: Trong hộp thoại ANOVA: Single Factor kê khai vùng dữ liệu
đầu vào (Input Range). Nếu số liệu các cấp của nhân tố A nạp vào bảng tính
theo cột thì chọn COLUMNS, theo hang thì chọn ROW.
- B
4
: kê khai vùng xuất kết quả (Output Range), chỉ cần 1 ô phía dưới
vùng dữ liệu đầu vào.
- B
5
: click OK
♦ Phương pháp đánh giá sự ảnh hưởng của phân bón đến chất lượng (Dùng
phương pháp so sánh các mẫu về chất) [19] cây ươm.
Giả thuyết H
A
là nhân tố phân bón (nhân tố A) không ảnh hưởng đến
chất lượng cây gieo ươm.
Nếu giả sử H
A
đúng thì:
f
l
=
TS
TT

bjai

(5)
Tính tiêu chuẩn χ
2
n
được theo công thức:
χ
2
n
=

f
l
ff
lt
2)( −
(6)
+ Nếu χ
2
n
< χ
2
05
tra bảng với bậc tự do k = (a-1)(b-1) thì giả thuyết
H
A
được chấp nhận, nghĩa là công thức khác nhau không ảnh hưởng đến số
cây tốt, cây trung bình, cây xấu.
+ Nếu χ

2
n
> χ
2
05
tra bảng với bậc tự do k = (a-1)(b-1) thì giả thuyết
H
A
bị bác bỏ, nghĩa là công thức khác nhau ảnh hưởng đến số cây tốt, cây
trung bình, cây xấu.
• Kiểm tra H
A
bằng chương trình Excel qua các bước sau:
- B
1
: chọn bảng tính điện tử 1 cột bất kỳ và ghi lần lượt T
a1
, T
a2
, T
abl
lặp

lại
đủ a lần với việc dùng lệnh copy.
- B
2
: Chọn 1 cột tiếp theo (cột 2) ghi liiên tiếp a lần T
b1
, a lần T

b2
,…và a
lần T
ba
cũng dùng trình lệnh copy.
- B
3
: ( Cột 3) ghi lần lượt các số liệu quan sát f
t
của mỗi cấp chất lượng
dung lệnh copy.
- B
4
: (Cột 4) để tính f
l
bằng lập công thức (1.4)
- B
5
: (Cột 5) tính
f
l
ff
lt
2)( −
bằng lập công thức và cột cuối là χ
2
n
bằng hàm
tổng.
♦ Phương pháp xác định nồng độ thích hợp nhất: Dựa vào giá trị trung

bình của các chi tiêu sinh trưởng trong 3 lần lặp giữa các công thức.
• Được xác định bằng ứng dụng IRRISTAT [20] và ứng dụng được
thực hiện qua các bước sau:
B
1
: Mở cửa sổ IRRISTAT kích chuột vào window chọn Data Editor.
B
2
: Vào file chọn new,cửa sổ mở được mở và ta nhập số liệu trực tiếp
vào bảng(cột 1 LN gồm 3 lần nhắc lại, cột 2 CT$ gồm 4 công thức, cột 3
chiều cao cây hoặc đường kính cổ rễ hoặc chiều dài lá, khi nhập xong vào
file chọn save as để lưu bảng số liệu đó, sau khi lưu xong ta tắt cửa sổ bảng
số liệu đó.
B
3
: Vào Analysis chọn ANOVA sau đó click vào Balanced Anysis,
cửa sổ hiện thì ghi tên file name đã lưu sau đó click open,ghi tên file name 1
lần nữa và click open cửa sổ mới mở
B
4
: Kích vào add dưới hộp Analysis variable. Chọn CT$ (công thức),
LN (nhắc lại) và kích vào add ở dưới factor, xong lại chọn CT$ ở trong hộp
factor và kích vào add ở dưới ANOVA Model Specìy ở dưới chuyển sang
bước 5.
B
5
: Chọn option để hộp thoại Heading mở, ghi dòng chữ “thiết kế thí
nghiệm ngẫu nhiên hoàn toàn RCB” để sang bước 6.
B
6

: Từ đấy kích chuột vào OK để chạy chương trình, và cho kết quả.
So sánh các giá trị trung bình các chỉ tiêu sinh trưởng của 3 lần lặp
của các công thức: công thức nào có
X
của các chỉ tiêu sinh trưởng lớn
nhất thì nồng độ bón phân của công thức đó là thích hợp nhất.
CHƯƠNG III

×