Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Nhóm vi sinh vật gây bệnh chủ yếu doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.52 KB, 25 trang )

Bài Luận
nhóm vi sinh vật gây
bệnh chủ yếu
PHỤ LỤC
I- MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
2 .Giới thiệu về vi sinh vật.
II- NHÓM VI SINH VẬT GÂY BỆNH
1. Tác nhân gây bệnh
1.1 Vi khuẩn.
1.2 Virut
1.3 Nấm
2. Nguồn truyền bệnh
3. Cách lây truyền
4. Con đường xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh
III- CƠ CHẾ GÂY BỆNH CỦA VI SINH VẬT
1. Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn
1. Cơ chế gây bệnh của virut
3. Cơ chế gây bệnh của nấm
IV- MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
a. Bệnh do vi khuẩn gây ra
b. Bệnh do virut gây ra
c. Bệnh do nấm gây ra
V- KẾT LUẬN
I- MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết cua đề tài.
Như tình hình hiên nay, khi dân thế giới số đang tăng một cách nhanh chóng 6,76
tỷ người ( năm 2011) con số này chưa dừng lại ở đó mà sẽ tiếp tục tăng lên. Bên
cạnh tăng dân số môi trường sống cũng đang ngày một thay đổi theo hướng bất lợi
cho sự sinh tồn của nhiều loài sinh vật nói chung và con người nói riêng.Những
thay đổi của môi trường như biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, băng tan ,lũ lụt,


hạn hắn xay ra Môi trường sống thay đổi cũng là nguyên nhân của sự bùng nổ
dịch bệnh do nhiều loài vi sinh vật gây nên.Dịch bệnh lây lan với một tốc độ nhanh
chóng, mầm bệnh có thể truyền từ quốc gia nay tới quốc gia khác. Nhiều loại dịch
bệnh có khả năng lây lan rộng qua nhiều đối tượng, mức độ gây bệnh cũng rất
nguy hiểm.Nhiều căn bệnh hiện nay y học cũng chưa có thuốc điều trị. Nhiều loài
vi sinh vật có khả năng kháng thuốc , trính độ khoa học kỹ thuật chưa thể tìm ra
phương pháp để điều trị. Dịch bệnh làm ảnh hưởng đến sức khỏe và đe dọa đến
tính mạng con người bên cạnh đó cũng làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hội của con
người. Vì lý do đó mà nhóm chúng tôi đã chọn đề tài này nhằm tìm hiểu những
nhóm đối tượng gây bệnh và từ đó có những biện pháp phòng và trị bệnh. Trong
quá trình thực hiện đề tài do kinh nghiệm và phương pháp nghiên cứu còn có
những hạn chế do đó nhóm chúng tôi mong sẽ nhận được ý kiến đóng góp của thầy
cô giáo và của các bạn.
2. Giới thiệu về vi sinh vật (microorganisms)
Vi khuẩn e.coli
Vi khuẩn (Salmonella )
Vi sinh vật là tên gọi chung để chỉ tất cả các sinh vật có kích thước bé nhỏ, đo bằng
đơn vị micromet hoặc hoặc nanomet, muốn thấy rõ được, người ta phải sử dụng
tới kính hiển vi.Chúng không phải là một nhóm riêng biệt trong sinh giới. Chúng
thậm chí thuộc về nhiều giới (kingdom) sinh vật khác nhau. Giữa các nhóm có thể
không có quan hệ mật thiết với nhau nhưng chúng có một số đặc điểm chung .
2.1 Kích thước nhỏ bé
- Mắt con người khó có thể thấy được các vật nhỏ hơn 1 mm. Vậy mà vi sinh vật
lại được đo bằng micromet, virut thường được đo bằng nanomet.
- Vì vi sinh vật có kích thước nhỏ bé nên diện tích bề mặt của một tập đoàn vi sinh
vật hết sức lớn.
2.2 Hấp thu nhiều, chuyển hoá nhanh
- Vi sinh vật tuy nhỏ bé nhất trong sinh giới nhưng lại có năng lực hấp thu và
chuyển hoá vượt xa các sinh vật bậc cao. Ví dụ: Vi khuẩn lactic (lactobasillus)
trong một giờ có thể phân giải 1 lượng đường lactozơ nặng hơn 1000 - 10000 lần

khối lượng chúng.Nếu tính số microlit O2 mà mỗi mg chất khô của cơ thể sinh vật
tiêu hao trong một giờ(biểu thị là - QO2 thì ở mô lá hoặc mô rễ thực vật là 0,5 - 4,
ở tổ chức gan và thận động vật là 10 - 20, ở nấm men rượu (Sacharomyces
cerevisiae) là 110, ở vi khuẩn thuộc chi Pseudomonas là 1200, ở vi khuẩn thuộc chi
Azôtbacter là 2000.
- Năng lực chuyển hoá sinh hoá mạnh mẽ của vi sinh vật (VSV) dẫn đến những tác
dụng rất lớn lao của chúng trong thiên nhiên cũng như trong hoạt động sống của
con người.
2.3 Sinh trưởng nhanh, phát triển mạnh
So với các sinh vật khác thì VSV có tốc độ sinh trưởng và sinh sôi nảy nở cực kì
lớn. Ví dụ: Vi khuẩn Escherichiacoli trong các điều kiện thích hợp cứ khoảng 12 -
20 phút lại phân cắt một lần. Nếu lấy thời gian thế hệ (generation time) là 20 phút
thì mỗi giờ phân cắt 3 lần, 24 giờ phân cắt 72 lần, từ một tế bào ban đầu sẽ sinh ra
4.722.366.500.000.000.000.000 tế bào (nặng 4722 tấn!). Tất nhiên trong thực tế
không thể tạo ra số lượng tế bào như vậy cho nên số lượng vi khuẩn thu được trong
một ml dịch nuôi cấy thường chỉ đạt tới mức độ 10^8 - 10^9 tế bào.
2.4. Năng lực thích ứng mạnh và dễ phát sinh biến dị
- Năng lực thích ứng của VSV vượt rất xa so với thực vật và động vật. Trong quá
trình tiến hoá lâu dài, VSV đã tạo cho mình những cơ chế điều hoà trao đổi chất để
thích ứng với những điều kiện sống bất lợi. Người ta nhận thấy số lượng enzim
thích ứng chiếm tới 10% lượng chứa protein trong tế bào VSV.
+ Phần lớn VSV có thể giữ nguyên sức sống ở nhiệt độ của nitơ lỏng (-196 độ C)
thậm chí ở nhiệt độ của hiđrô lỏng (-253 độ C). Một số VSV có thể sinh trưởng ở
nhiệt độ 250 độ C, thậm chí có thể 300 độ C. Một số VSV có thể thích nghi với
nồng độ 32% NaCl. Ví dụ: vi khuẩn thiobacillus thioxidans có thể sinh trưởng ở
pH = 0,5; trong khi đó vi khuản thiobacillus denitrificans lại thích hợp phát triển ở
pH = 10,7.
+ Ở nơi sâu nhất trong đại dương (11034m), nơi có áp lực tới 1103,4 atm, vẫn thấy
có vi sinh vật sinh sống, nhiều VSV thích nghi với điều kiện sống hoàn toàn thiếu
oxi (VSV kị khí bắt buộc - obligate anaerobes), một số nấm sợi có thể phát triển

thành váng dày trong bể ngâm xác có nồng độ phenol rất cao.
- VSV rất dễ phát sinh biến dị bởi vì thường là đơn bào, đơn bội, sinh sản nhanh,
số lượng nhiều, tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống. Tần số biến dị ở VSV
thường là 10^-5 > 10^-10. Hình thức biến dị thường gặp là đột biến gen và dẫn
đến những thay đổi về hình thái, cấu tạo, kiểu trao đổi chất, sản phẩm trao đổi chất,
tính đề kháng Bên cạnh các biến dị có lợi, VSV cũng sinh ra những biến dị có hại
đối với nhân loại, chẳng hạn biến dị về tính kháng thuốc.
2.5 Phân bố rộng, chủng loại nhiều
- VSV phân bố ở khắp mọi nơi trên trái đất, chúng có mặt trên cơ thể người, động
vật, thực vật, trong đất, nước, không khí, trên mọi đồ dùng, vật liệu, từ biển khơi
đến núi cao, từ nước ngọt đến nước biển
- Về chủng loại: Trong khi toàn bộ giới Động vật có khoảng 1,5 triệu loài, thực vật
có khoảng 0,5 triệu loài thì VSV cũng có tới trên 100 nghìn loài.
Đúng nhà VSV học người Nga nổi tiếng A.A.Imsenhetskii đã nói : "Các loài VSV
mà ta đã biết đến hiện nay nhiều lắm cũng không quá đuợc 10% tổng số loài VSV
có sẵn trong thiên nhiên".
II- NHÓM VI SINH VẬT GÂY BỆNH
1. Tác nhân gây bệnh. Các vi sinh vật thường là các tác nhân gây bệnh. Gồm
nhũng nhóm chủ yếu như:
1.1 Vi khuẩn: Vi khuẩn (bacterium) đôi khi còn được gọi là vi trùng, nó thuộc
loại ký sinh trùng. Vi khuẩn là một nhóm sinh vật đơn bào, có kích thước nhỏ (kích
thước hiển vi) thường chỉ khoảng 0.2 -2.0 μm
Vi khuẩn có nhiều hình thái khác nhau như hình cầu, hình que… chúng gồm
nhiều loài khác nhau .một số loài có khả năng gây bệnh cho con người.
Vi khuẩn lao: ( Mycobacterium tuberculosis )
1.2 virut: còn gọi là siêu vi khuẩn hay siêu vi trùng, là một vật thể nhỏ xâm nhiễm
vào cơ thể sống, thuộc loại ký sinh trùng. Virus có tính kí sinh nội bào bắt buộc;
chúng chỉ có thể sinh sản bằng cách xâm chiếm tế bào khác vì chúng thiếu bộ máy
ở mức tế bào để tự sinh sản. Thuật ngữ virus thường chỉ các vật thể xâm
nhiễm sinh vật nhân chuẩn (sinh vật đa bào hay đơn bào), trong khi thuật ngữ thực

khuẩn thể (bacteriophagehay phage) được dùng để chỉ các vật thể xâm nhiễm sinh
vật nhân sơ (vi khuẩn hoặc vi khuẩn cổ).
Virus điển hình mang một lượng nhỏ axit nucleic (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi
lớp áo bảo vệ (vỏ capsid) cấu tạo bằng protein, glicoprotein.
Điều quan trọng là bộ gen của virus không chỉ mã hoá cho các protein cần để bao
bọc vật liệu di truyền của nó mà còn mã hoá cho các protein cần cho virus sinh sản
trong chu kỳ xâm nhiễm của nó.
Virut HIV
1.3 Nấm: bao gồm những sinh vật nhân chuẩn tự dưỡng có thành tế
bào bằng kitin (chitin). Phần lớn nấm phát triển dưới dang các sợi đa bào được gọi
là sợi nấm (hyphae) tạo nên hệ sợi (mycelium), một số nấm khác lại phát triển dưới
dạng đơn bào. Quá trình sinh sản (hữu tính hoặc vô tính) của nấm thường qua bào
tử, được tạo ra trên những cấu trúc đặc biệt hay thể quả. Một số loài lại mất khả
năng tạo nên những cấu trúc sinh sản đặc biêt và nhân lên qua hình thức sinh sản
sinh dưỡng.
Nấm mốc: (Fungus )
2. Nguồn truyền bệnh: Là nơi tồn tại của các tác nhân gây bệnh.
- Người là nơi chứa các tác nhân gây bệnh : người bệnh, người bình thường mang
mầm bệnh
- Nguồn truyền bệnh là động vật: động vật bị bệnh, động vật mang mần bệnh, động
vật còn là vật chủ trung gian lây truyền bệnh cho con người.
- Vật thể ở môi trường: đất, nước, không khí cũng chứa các tác nhân gây bệnh cho
con người.
3. Cách lây truyền bệnh
Cách lây truyền của mầm bệnh là nền tảng để phòng ngừa bệnh dịch.
* Trực tiếp: đây là những bệnh không qua một khâu trung gian nào cả.
- Người lây qua người : ví dụ như bệnh hoa liễu, bệnh lao, cúm…
- Động vật qua người : thường gặp trong quá trình chăm sóc tiếp xúc với động vật
hoặc bị động vật cắn.
- Tiếp xúc với các sản phẩm bệnh lý: phân, nước tiểu, máu, vết thương hoặc nước

bọt.
* Gián tiếp
Tác nhân gây bệnh cho con người qua trung gian như côn trùng (gián, kiến…)
động vật ( ruồi, chuột, lợn, gà…) hoặc qua một yếu tố vật thể như nước, thực
phẩm, không khí…
4. Con đường xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh.
Vi sinh vật gây bện xâm nhập qua rất nhiều con đường vào cơ thở vật chủ để
gây bệnh. Có thể kể đến những con đường sau: đường tiêu hóa, đường hô hấp,
đường máu, đường tình dục, và lây qua da.
III- CƠ CHẾ GÂY BỆNH CỦA VI SINH VẬT
Tác nhân gây bệnh có khả năng sinh bệnh tùy vào bản chất của chúng và cơ chế
miễn dịch của cơ thể.
1. Cơ chế gây bệnh của vi khuẩn.
Gồm ba tính chất: độc tính, tạo độc tố và tạo ra các enzyme.
1.1 Độc tính ( sự dính dính- khả năng phát triển và nhân lên- kháng lại thực bào )
- Kết dính: Bước quan trọng đầu tiên trong quá trình tương tác giữa tác nhân gây
bệnh và vật chủ là sự bám dính (adherence) của chúng vào các bề mặt của vật chủ.
Các bề mặt này bao gồm da, niêm mạc (khoang miệng, mũi hầu, đường tiết niệu)
và các tổ chức sâu hơn (tổ chức lympho, biểu mô dạ dày ruột, bề mặt phế nang, tổ
chức nội mô). Cơ thể tạo ra nhiều lực cơ học khác nhau nhằm loại bỏ các vi sinh
vật khỏi các bề mặt này như bài tiết nước bọt, ho, hắt hơi, dịch tiết niêm mạc, nước
tiểu, nhu động ruột và dòng máu chảy…. Một đặc điểm chung của các tác nhân
gây bệnh là khả năng biểu hiện các yếu tố giúp chúng bám vào các phân tử trên
nhiều loại tế bào khác nhau của vật chủ và giúp chúng chống chịu được các lực cơ
học này. Một khi đã bám dính vào bề mặt tế bào vật chủ, tác nhân gây bệnh có khả
năng khởi động các quá trình hóa sinh đặc hiệu gây bệnh như tăng sinh, bài tiết độc
tố, xâm nhập và hoạt hóa các chuỗi tín hiệu của tế bào vật chủ.
Các yếu tố bám dính của vi sinh vật được gọi là các adhesin. Chúng có thể có bản
chất polypeptide hoặc polysaccharide.
Các adhesin có bản chất polypeptide được chia thành hai nhóm: nhóm

có fimbriae và nhóm không có fimbriae. Các fimbriae, hay còn gọi là các pili, là
những cấu trúc phụ của vi sinh vật có dạng như sợi lông trên bề mặt vi khuẩn. Các
fimbriae được cấu tạo bởi nhiều protein xếp chặt với nhau tạo nên hình dạng giống
như trụ xoắn ốc. Thường thì chỉ có một loại protein là cấu trúc chính của một phân
nhóm fimbriae tuy nhiên các protein phụ trợ khác cũng có thể tham gia vào cấu
trúc của đỉnh hoặc gốc fimbriae. Đỉnh của các fimbriae có chức năng gắn với tế
bào vật chủ. Các vi khuẩn Gram âm thường bám dính nhờ các fimbriae này như E
coli (gây viêm dạ dày ruột và nhiễm khuẩn tiết niệu), V cholera, P aeruginosa và
các loại Neisseria.
Thuật ngữ yếu tố bám dính không phải fimbriae (afimbrial adherin) dùng để
chỉ các protein có chức năng bám dính nhưng không tạo thành cấu trúc dài, đa
phân như fimbriae. Các yếu tố bám dính không phải fimbriae thường điều khiển
quá trình tiếp xúc mật thiết với tế bào vật chủ tuy nhiên quá trình này chỉ xảy ra ở
một nhóm nhỏ các loại tế bào nhất định nếu so với khả năng gắn được với rất nhiều
loại tế bào khác nhau của fimbriae.
Các vi khuẩn Gram âm (Yersiniapseudotuberculosis, E coli gây bệnh lý ruột,
các Neisseria), các vi khuẩn Gram dương (Staphylococcus, Streptococcus) và
các Mycobacteria là những tác nhân gây bệnh có yếu tố bám dính không phải
fimbriae.
Các yếu tố bám dính bản chất polysaccharide thường là thành phần cấu tạo của
màng tế bào, vách tế bào và vỏ vi khuẩn. Teichoic acid trong vách của vi khuẩn có
tác dụng như là các yếu tố bám dính của Staphylococcus và của Streptococcus. Các
polysaccharide (glucan và mannan) trong lớp vỏ của Mycobacteria cũng được các
thụ thể của vật chủ nhận diện (receptor bổ thể 3 và mannose receptor) nhờ đó làm
tăng tính bám dính của các tác nhân này. Mặc dù các tương tác receptor-ligand
nhằm tăng cường khả năng bám dính có thể chia thành hai nhóm chính: tương tác
protein-protein và protein-carbonhydrate, một điều quan trọng cần nhớ là các vi
sinh vật thường sử dụng rất nhiều thụ thể khác nhau của tế bào vật chủ.
- Nhân lên và phát triển: sau khi xâm nhâp vào vật chủ chúng có thể sống ký
sinh nội bào ( ký sinh nội bào bắt buộc hoặc ký sinh nội bào tùy ý ), hoặc ký sinh

ngoại bào ( ký sinh ngoại bào bắt buộc và ký sinh ngoại bao tùy ý ).chúng sử dụng
dinh dưỡng có trong cơ thể vật chủ để lấy năng lượng, phục vụ cho các hoạt động
sống .Vi khuẩn nhân lên bằng hình thức sinh sản vô tính chủ yếu là phân đôi tế
bào. Tùy vào loài và điều kiện môi trường mà thời gian nhân lên của chúng khác
nhau. Có loài nhân lên rất nhanh ví dụ vi khuẩn e.coli cứ 20 phút chúng lại phân
chia một lần.Số lượng của chúng cũng tùy thuộc vào hệ thống miễn dịch của cơ
thể.
- Kháng lại sự thực bào: tùy thuộc vào đặc tính của từng chủng , độc tố của
chúng và số lượng của chúng mà chúng có thể kháng lại sự thực bào của hệ thống
miễn dịch của cơ thể vật chủ như các loại bạch cầu, tế bào limphô
1.2. Tạo ra độc tố: độc tố là những chất độc đối với cơ thể con người khả năng
sinh độc tố của vi khuẩn được chia lam hai loại:
- Nội độc tố:( lipo polysacharide ) là những loại độc tố do vi khuẩn sinh ra nằm
trong tế bào của no mà không được tiết ra ngoài chi khi nào tế bào tan ra thì nó
mới được giải phóng ra môi trường xung quanh.
- Ngoại độc tố: là những độc tố do vi khuẩn tiết ra, khuếch tán ra môi trường xunh
quanh gây hậu quả khác nhau tùy từng loài.
Mỗi loài vi khuẩn khác nhau xâm nhập theo các con đường khác nhau, tiết ra
các loại độc tố khác nhau và gây bệnh ở các cơ quan khác nhau trong cơ thể.
1.3. Tạo ra các enzym: vi khuẩn có thể tạo ra một số enzym ví dụ như:
- Hemolysine: làm tan tế bào
- strepotokinase: làm tan fibrin
- Hyluronidase: gây tan mô liên kết làm cho tác nhân gây bệnh lan tỏa trong mô cơ
thể.
- Streptolysin: làm vỡ màng bạch cầu để chống lại sự miễn dịch của cơ thể.
Ngoài ra vi khuẩn còn có thể tạo ra một số enzym đề kháng kháng sinh như
beta- lactamase, acetylase tùy loại vi khuẩn có được hay mất đi các gen tổng
hợp các enzym đề kháng kháng sinh do các yếu tố truyền gen plasmit, tranposon.
2. Cơ chế gây bệnh của virut
Virut gây bệnh sau khi xâm nhập vào cơ thể chúng vào đường máu chúng tồn tạ

một thời gian dài hay ngắn tùy thuộc vào từng loài virut sau đó chúng tấn công các
tế bào đích, các tế bào ấy có receptor ( thụ cảm thể đặc hiệu đối với từng chủng
virut ) gắn trên bề mặt tế bào, đây chính là quá trình hấp phụ. Virut giải phóng vật
chất di truyền của nó vào tế bào ký chủ, thời gian này rất ngắn.Vật chất di truyền
của chúng sẽ gắn kết với vật chất di truayền của tế bào ký chủ sau đó chúng sử
dụng bộ máy di truyền của tế bào chủ để nhân lên. Sau đó chúng giải phóng phóng
những tiêu thể virut mới, những tiêu thể virut mới này lại tiếp tục tấn công các tế
bào đích khác.
Một số virut thì tồn tại trong bộ máy di truyền của tế bào chủ trong một thời
gian dài, không gây bệnh nguy hại, đến khi hệ miễn dịch của cơ thể bị biến đổi
hoặc bị rối loạn hay do một nguyên nhân nào đó thì chúng mới làm tan tế bào chủ
và gây biểu hiện bệnh.Một số loài gây nguy hại đến hệ miễn dịch của cơ thể cho
nên cơ thể không đủ khả năng chống đỡ các loại tác nhân gây bệnh, đó là các
nhiễm khuẩn cơ hội trong HIV/AIDS.
3. Cơ chế gây bệnh của nấm.
Nấm gây bệnh nhờ hai tính chất cơ bản :
- Xâm nhập, nhân lên và phát triển trong mô dưới dạng sợi nấm, làm ảnh cuả cơ
quan bị xâm nhập.
- Mặt khác trong quá trình xâm nhập nó có thể sinh ra các độc tố gây bệnh cho cơ
thể.
IV- MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
a. Bệnh do vi khuẩn gây ra.
1. Bệnh tả
Bệnh tả là một bệnh truyền nhiễm cấp tính ở ruột non và lây lan qua nước hay
thức ăn bị nhiễm vi khuẩn.
1.1 Tác nhân gây bệnh tả: là do một loại vi khuẩn có tên là Vibrio Cholerae, ổ
chứa vi khuẩn tả quan trọng nhất là người bệnh bao gồm cả người mắc bệnh điển
hình, các thể bệnh nhẹ và người mang mầm bệnh không có triệu chứng (còn gọi là
người lành mang trùng).
1.2 Con đường truyền bệnh: Bệnh tả lây theo đường tiêu hoá, chủ yếu qua đường

ăn uống. Vi khuẩn tả xâm nhập vào đường tiêu hoá chủ yếu từ hai nguồn chính là
thức ăn, nước uống có nhiễm vi khuẩn tả và thức ăn có nguồn gốc thuỷ hải sản
vùng cửa sông, ven biển có chứa các thể tiềm sinh lâu dài của vi khuẩn tả. Vi
khuẩn tả có thể tồn tại lâu dài, thậm chí vĩnh viễn ở các vùng nước lợ, vùng cửa
sông hay ven biển có độ PH trung tính hoặc kiềm nhẹ. Vi khuẩn tả sống tập trung ở
các loài thực vật phù du như: Tảo; các loại động vật giáp xác như : Tôm, cua,
nghêu, sò… đây là ổ chứa thiên nhiên của vi khuẩn tả ngoài ổ chứa quan trọng là
người, mà một số vùng có thói quen ăn hải sản sống thì rất dễ bị nhiễm bệnh.
Bệnh tả lây mạnh nhất ở giai đoạn toàn phát, thời gian thải vi khuẩn thường
kéo dài sau khi hết tiêu chảy cấp. Sau vụ dịch tả có một tỷ lệ nhỏ khoảng 3-5% số
bệnh nhân có thể mang vi khuẩn tả kéo dài một vài tháng, có thể hàng năm nếu
không được điều trị đúng quy trì
1.3 Nguyên nhân: do tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân tả (ăn, uống, sinh hoạt) và
dân cư trong các vùng có tập quán ăn, uống không hợp vệ sinh, sử dụng thức ăn
đường phố, ăn hải sản chưa chín, uống nước chưa được đun sôi, chưa qua khử
trùng, dùng phân tươi trong trồng trọt mà không xử lý phân đúng quy trình, khu
vực sau lũ lụt.
1.4 Triệu chứng: Bệnh tả thường diễn biến qua các thời kỳ:
+ Thời kỳ ủ bệnh: Từ vài giờ đến vài ngày.
+ Thời kỳ khởi phát: thường rất ngắn, bệnh nhân thấy đau bụng, sôi bụng, sau đó
tiêu chảy, lúc đầu có phân, sau tiêu chảy toàn nước, kiệt sức rất nhanh do mất
nước.
+ Thời kỳ toàn phát: Bệnh có các triệu chứng sau:
* Bệnh nhân tiêu chảy liên tục, phân toàn nước lờ đờ như nước vo gạo trong đó
có những vẩy màng màu trắng là những mảnh tế bào thượng bì niêm mạc ruột, lẫn
với vi khuẩn tả, không có nhầy, máu, mũi kèm theo, số lần tiêu chảy và lượng nước
mất tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của bệnh.
* Nôn: Bệnh nhân nôn nhiều, lúc đầu có lẫn thức ăn, sau nôn toàn nước trong hoặc
vàng nhạt.
* Bệnh nhân mệt lả, chân tay lạnh, có thể bị chuột rút, mất nước nặng: Da khô,

nhăn nheo, hốc hác, mắt trũng, mạch nhanh, huyết áp tụt hoặc không đo được, tiểu
tiện rất ít, có khi vô niệu.
1.5 Cách phòng bệnh
1.5.1 Vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường:
- Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.
- Mỗi gia đình có một nhà tiêu hợp vệ sinh, cấm đi tiêu bừa bãi.
- Đối với gia đình có bệnh nhân tiêu chảy cấp cần rắc vôi bột hoặc cloramin B sau
mỗi lần đi tiêu.
- Phân và chất thải của người bệnh phải đổ vào nhà tiêu, cho vôi bột, CloraminB…
vào sau mỗi lần đi để sát khuẩn.
- Tránh tập trung ăn uống đông người như: Ma chay, cưới xin, cúng giỗ.
- Hạn chế người ra, vào vùng đang có dịch.
1.5.2 An toàn vệ sinh thực phẩm:
- Mọi người, mọi nhà đều thực hiện ăn chín, uống sôi.
- Không ăn rau sống, không uống nước lã.
- Không ăn thức ăn dễ bị nhiễm khuẩn đặc biệt là hải sản sống, gỏi cá, tiết canh,
nem chua…
1.5.3 Bảo vệ nguồn nước và dùng nước sạch:
- Nguồn nước ăn, uống phải được bảo vệ sạch sẽ.
- Tất cả nước ăn, uống đều phải được sát khuẩn bằng hoá chất CloraminB.
- Cấm đổ chất thải, nước giặt, rửa và đồ dùng của người bệnh xuống ao, hồ, sông,
giếng. Cấm vứt xác súc vật chết và rác xuống ao, hồ, giếng.
1.5.4 Khi gia đình có người bị tiêu chảy cấp:
Phải nhanh chóng báo ngay cho cơ sở y tế nơi gần nhất để được tư vấn, điều
trị kịp thời.
b. Một số bệnh do vi khuẩn gây ra.
- Bệnh than: là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính diễn ra ở gia súc (bò, cừu, dê ) do vi
khuẩn Bacillus anthracis gây ra, có thể truyền sang người, ở một vài dạng nó có
độc tính rất cao. Vi khuẩn than là một trong số ít những vi khuẩn có thể tồn tại rất
lâu ở môi trường trong dạng bào tử. Khi vòng đời của vi khuẩn gặp nhân tố bất lợi

ví dụ như vật chủ nó ký sinh chết hoặc là nhiệt độ môi trường thay đổi bất lợi, vi
khuẩn chuyển thành dạng bào tử có tính ngủ đông để chờ các vật chủ mới, tiếp tục
vòng đời của mình.
Vi khuẩn than ( Bacillus anthracis )
- Bệnh Lao: là bệnh do nhiễm vi khuẩn Mycobacterium tuberculosis, thường gặp
nhất ở phổi nhưng cũng có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương(lao màng
não), hệ bạch huyết, hệ tuần hoàn (lao kê), hệ niệu dục, xương và khớp.
Hiện nay lao là bệnh nhiễm khuẩn chính và thường gặp nhất, ảnh hưởng đến 2
tỉ người tức 1/3 dân số, với 9 triệu ca mới mỗi năm, gây 2 triệu người tử vong, hầu
hết ở các nước đang phát triển.
Hầu hết (90%) các trường hợp nhiễm khuẩn lao là tiềm ẩn không triệu chứng.
10% những người này trong cuộc đời họ sẽ tiến triển thành bệnh lao có triệu
chứng, và nếu không điều trị, nó sẽ giết 50% số nạn nhân. Lao là một trong 3 bệnh
truyền nhiễm gây tử vong cao nhất trên thế giới:HIV/AIDS giết 3 triệu người mỗi
năm, lao giết 2 triệu, và sốt rét giết 1 triệu.
-Thương hàn : là chứng bệnh đường tiêu hóa do nhiễm vi trùng Salmonella
enterica serovar Typhi. Bệnh hiểm nghèo này lây lan khi vi trùng trong phân người
bị bệnh nhiễm vào thức ăn hay thức uống và truyền sang người khác. Khi theo thức
ăn vào ruột, vi trùng xuyên vào thành ruột và bị thực bào bởi đại thực bào.
Salmonella typhi lúc đó thay đổi cấu trúc của nó để chống lại sự phá hủy và cho
phép chúng tồn tại bên trong đại thực bào. Điều này giúp chúng chống lại sự gây
hại của bạch cầu hạt, bổ thể và đáp ứng miễn dịch. Vi trùng sau đó theo lan tỏa
theo hệ thống bạch huyết trong khi vẫn nằm trong đại thực bào. Từ đó chúng xâm
nhập hệ thống lưới nội mô và sau đó là hầu khắp các cơ quan trong cơ
thể. Salmonella enterica là vi trùng trực khuẩn Gram âm, di chuyển nhờ tiêm mao,
tăng trưởng nhanh nhất ở nhiệt độ 37 °C, nhiệt độ cơ thể.
Hàng năm khoảng 16-33 triệu người mắc bệnh thương hàn, 5-6 trăm nghìn
người chết. Tổ chức Y tế Thế giới đặt thương hàn vào loại bệnh truyền nhiễm công
cộng quan trọng. Bệnh lây lan nhiều nhất ở trẻ em tuổi 5 - 19.
[2]

Salmonella
Salmonella là trực khuẩn Gram âm. Nhiễm salmonella có thể đưa tới sốt thương
hàn, nhiễm khuẩn máu, viêm ruột. Salmonella typhi, Salmonella paratyphi gây nên
sốt thương hàn. Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể bằng đường miệng đến niêm
mạc ruột rồi đến hạch lympho và phát triển ở đó. Đây là thời ủ bệnh. Sau khi tăng
sinh, một số tự ly giải, phóng thích nội độc tố, số khác theo hệ lympho vào máu
gây nhiễm trùng máu. Triệu chứng ban đầu là sốt kèm theo lạnh run, sốt tăng dần
kéo dài trong 2 tuần. Tình trạng này làm bệnh nhân suy nhược, biếng ăn, mệt mỏi,
gan lách to, xuất huyết ngoài da, lượng bạch cầu giảm. Sau 3 tuần bệnh sẽ giảm.
Trước khi có kháng sinh biến chứng chủ yếu là xuất huyết tiêu hóa và lủng ruột, tử
vong 10 – 15%. Các biến chứng khác là viêm màng não, viêm tủy xương.
Campylobacter
Đây là vi sinh vật gây nên bệnh viêm nhiễm đường ruột và đã được chứng minh là
có mặt ở khắp nơi. Campylobacter là một trong những hệ vi sinh vật của nhiều loài
động vật và chim. Nhưng các dòng có khả năng gây độc thì không thể phát triển
khi nhiệt độ thấp hơn 30oC, đây là vi sinh vật ưa nhiệt bắt buộc. Sản phẩm sửa và
thịt gia cầm là những nguồn có thể gây nên ngộ độc do vi sinh vật này. Nước cũng
là một trong những nguồn mang bệnh này. Là nhóm vi sinh vật nhạy nhiệt, dễ bị
tiêu diệt bằng phương pháp thanh trùng Pasteur. Chúng cũng không thể sống trong
môi trường acid, hay môi trường hiếu khí, chỉ có thể sống trong các loại thực phẩm
hút chân không. Thời gian ủ bệnh thường từ 2 – 11 ngày từ khi bị nhiễm. Các triệu
chứng do vi sinh vật này gây nên như đau nhức, tiêu chảy, sốt, đau đầu, khó chịu,
chuột rút, lạnh cóng, mê sản. Thỉnh thoảng có những biểu hiện bệnh giống cảm
cúm.
Clostridium perfringens
Bào tử của loài vi khuẩn này có khả năng kháng nhiệt, tuy nhiên khả năng này còn
phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc với nhiệt. Nguồn lây nhiễm: thịt gia cầm, đất,
phân người. Các triệu chứng do vi sinh vật này gây ra thường là đau thắt vùng
bụng, tiêu chảy. Thời gian bệnh từ 12 – 24 giời.
Clostridium botulinum

Đây là vi sinh vật phân bố khắp nơi trong đất, nước, gia súc và động vật thủy sản.
Loại vi khuẩn này gây ngộ độc cho người với các biểu hiện rất nghiêm trọng như:
ói mửa, buồn nôn, choáng váng, rối loạn thị giác, rối loạn các cơ ở cổ và miệng,
đau vùng ngực, khó thở và tê liệt, có thể dẫn đến tử vong. Các triệu chứng trên
biểu hiện sau 36 giờ sau khi nhiễm C.botulinum. Các triệu chứng thường kéo dài 2
– 6 ngày theo tình trạng nhiễm độc và sức khỏe của từng bệnh nhân. Độc tố do
C.botulinum tiết ra là botuline gồm nhiều loại như A, B, C1, C2, E các độc tố
này có trọng lượng phân tử lớn khoảng 1 triệu danton. Những dạng có tác động
mạnh đến con người là A và E, đây cũng là một trong các độc tố sinh học có cường
độ mạnh nhất
Staphylococcus aureus
Staphylococcus aureus là vi khuẩn có khả năng sản sinh một số loại độc tố đường
ruột bền nhiệt. Khi con người nhiễm bệnh, sau 4 – 6 giờ ủ bệnh sẽ bộc phát các
triệu chứng lâm sàng như tiêu chảy, nôn mữa, các triệu chứng này kéo dài từ 6 – 8
giờ. Trong tự nhiên thường được tìm thấy trên da, mũi, tóc hay lông của các loài
động vật máu nóng.
Vibrio spp
Chúng có nguồn gốc từ biển và cần ion Na+ để phát triển. Một số loài có khả năng
gây bệnh cho người như V.cholerae, V.parahaemolyticus, V. Vulnificus, trong
đó V. Cholerae là tác nhân gây nên các vụ dịch tả trên toàn thế giới. Vi sinh vật
này sản sinh độc tố cholaratoxin, đây là loại độc tố đường ruột có cường độ mạnh,
chỉ cần 5µg gây nhiễm qua đường ruột có thể gây tiêu chảy cho người trưởng
thành. Một số độc tố khác cũng được vi sinh vật này tiết ra như hemolysine có độc
tính tương tự tetrodotoxin (độc tố cá nóc)
Shigella
Trực khuẩn Gram âm, không di động. Đây là giống vi khuẩn có tế bào chủ đặc
biệt, chúng chỉ thích nghi và phát triển trong tế bào chủ là người và các loài linh
trưởng. Sự hiện diện của chúng trong môi trường là do sư nhiễm phân của người
và các loài linh trưởng. Chúng có thể tồn tại 6 tháng trong môi trường nước. Các
vụ ngộ độc shigella chủ yếu xảy ra ở những nơi điều kiện vệ sinh kém. Shigella

chủ yếu gây nên bệnh lị trực trùng. Thời gian ủ bệnh từ 1 – 7 ngày. Các biểu hiện
nghiêm trọng khi nhiễm Shigella là: tiêu ra máu, mất nước, sốt cao, bị co rút thành
bụng. Những triệu chứng này có thể kéo dài 12 – 14 ngày hoặc lâu hơn. Bệnh biểu
hiện rất nghiêm trọng đối với trẻ em và người già. Độc tố của vi khuẩn gồm 2
dạng: nội độc tố là lipopolysaccharide của vách tế bào vi khuẩn được phóng thích
khi tế bào ly giải, gốp phần kích thích thành ruột; ngoại độc tố có tên là Shiga,
không bền nhiệt, tác động lên thành ruột lẫn hệ thần kinh trung ương, ở ruột gây
tiêu chảy và ức chế hấp thụ đường và các acid amin ở ruột non, trên hệ thần kinh
gây ra những biểu hiện lâm sàng trần trọng có thể gây tử vong. Hàng năm trên thế
giới có khoảng nữa triệu người chết vì Shigella. Đường lây nhiễm chủ yếu là
đường miệng và nước là môi trường truyền bệnh quan trọng.
Staphylococci
Là nhóm vi khuẩn thường trú ở vùng da và niêm mạc của người. Chúng có khả
năng lên men nhiều loại đường và tiết sắc tố thay đổi từ trắng đến vàng. Ngày nay
staphylococci đã đề kháng với nhiều loại kháng sinh và trở thành một vấn đề khó
khăn trong điều trị. Nhóm vi khuẩn này có khản năng tiết ra một số enzyme như
coagulase (làm đông huyết) được xem như một yếu tố gây độc của vi khuẩn. Ngoài
ra chúng còn tiết ra các độc tố khác như: ngoại độc tố α-toxin và β-toxin có khả
năng li giải hồng cầu, gây tổn hại tiểu cầu, Exfoliative toxin làm bong biểu bì, tạo
nốt phỏng ngoài da, toxic shock syndrome toxin (độc tố gây sốc), và các loại độc
tố đường ruột gây tiêu chảy, nôn mửa (tác dụng gây nôn là kết quả của sự kích
thích trung tâm nôn mửa của hệ thần kinh trung ương sau khi độc tố tác động lên
thụ thể thần kinh trong ruột.
Streptococcus pneumoniae (Pneumococci)
Pneumococci là cầu khuẩn Gram dương, xếp thành từng đôi hay thành chuỗi, có võ
bằng polysaccharide. Chúng dễ bị ly giải bởi những chất hoạt động bề mặt như
muối mật. Thường trú ở đường hô hấp trên của người và có thể gây viêm phổi,
viêm xoang, viêm phế quản, nhiễm khuẩn máu, viêm màng não, Ở người lớn,
hơn 75% trường hợp viêm phổi do pneumococci thuộc các type 1 – 8. Trong số
bệnh nhân tử vong, hơn 1 nữa là do nhiễm khuẩn máu. Ở trẻ em các type gây bệnh

thường gặp là 6, 14, 19 và 23. Khả năng gây bệnh là do sự tăng trưởng tràn lan của
pneumococci vào các mô. Vi khuẩn không sản xuất độc tố. Độc tố vi khuẩn một
phần do nang, vì nang có tác dụng ngăn chặn sự thực bào. Khoảng 40 – 70% người
khỏe mạnh có mang pneumococci có độc lực, nhưng cơ thể không bị bệnh là do
màng nhày của đường hô hấp có sức đề kháng lớn với pneumococci.
Neisseriae
Neisseiae là những cầu khuẩn Gram âm xếp thành đôi còn gọi là song cầu. Hai loại
gây bệnh cho người là Neisseria gonorrhoeae (gonococcus) và Neisseria
meningitidis (meningococcus) thường tìm thấy bên trong tế bào bạch cầu đa nhân.
Neisseria gonorrhoeae là vi khuẩn gây bệnh lậu. Kháng nguyên lipopolysaccharide
ở màng ngoài của vi khuẩn này là thành phần gây độc chính. Một số neisseria khác
là vi khuẩn thường trú ở đường hô hấp trên của người nhưng hiếm khi gây bệnh.
Corynebacterium diphtheriae
C.diphtheriae là vi khuẩn gây bệnh bạch hầu, có dang hình que, Gram dương, 1
đầu hoặc 2 đầu phình ra, xếp song song thành góc nhọn, hiếu khí. Độc tố của vi
khuẩn bạch hầu là 1 polypeptide có trọng lượng 62.000 daltons, dễ bị phân hủy bởi
nhiệt (60oC trong 15 phút). Độc tố gồm 2 phần: phần B gắn vào thụ thể chuyên
biệt trên tế bào nhạy cảm và giúp phân giải protein, phần A là phần hoạt động khi
vào bào tương sẽ xúc tác một phản ứng làm cho quá trình tổng hợp protein ngừng
lại. Độc tố tác động lên tất cả tế bào cơ thể hữu nhũ, nhưng tác động mãnh liệt trên
tìm (viêm cơ tim), thần kinh (hủy hoại myelin) và thận (hoại tử ống thận).
Yersinia pestis
Y.pestis được nhà vi khuẩn học Alexander Yersin phân lập đầu tiên từ mẫu bệnh
phẩm dịch hạch. Vi khuẩn hình que, ngắn, dạng trực cầu khuẩn, Gram âm, có
khuynh hướng bắt màu đậm ở hai đầu hơn phần giữa thân. Lipopolysaccharide
cũng là nội độc tố của vi khuẩn, gây sốt, gây chết, gây phản ứng Shwartzman tại
chỗ và toàn thân. Nội độc tố chính gây bệnh dịch hạch là thành phần protein ở vách
tế bào, được tiết ra khi vi khuẩn ly giải, gồm 2 protein có trọng lượng phân tử khác
nhau, có tác dụng phong bế β, gây cô máu và sốc trên chuột thực nghiệm. Độc tố
dịch hạch tạo antitoxin đặc hiệu.

Bacillus anthracis
Đây là loại vi khuẩn gây bệnh than. Là trực khuẩn Gram dương, sinh nha bào, có
khả năng gây bệnh nhiễm trùng cấp tính ở cả động vật và người. Ở người nhiễm vi
khuẩn bệnh than ở 2 dạng: thể hô hấp khi các bào tử nảy mầm thành trực khuẩn
chúng gây ra các tổn thương xuất huyết hoại tử, phù, gây đau nhiều vùng trung thất
và sau xương ức. Khi xuất huyết và hoại tử lan rộng đến màng phổi, xảy ra tràn
máu và phổi. Thể tiêu hóa, do ăn phải thực phẩm nhiễm vi khuẩn than. Cũng xuất
hiện các tình trang xuất huyết và hoại tử như thể hô hấp.
Escherichia coli
E.coli là trực khuẩn Gram âm, sống bình thường ở ruột người và loài vật, nhiều
nhất trong ruột già. Vi khuẩn theo phân ra ngoài thiên nhiên, do đó thường thấy
trong nước, đất, không khí. E.coli có khoảng 150 yếu tố O, 100 yếu tố K và 50 yếu
tố H, được chia thành rất nhiều type huyết thanh. Chúng có khả năng gây nhiễm
trùng đường máu, đường tiểu, viêm màng não và tiêu chảy. E.coli gây tiêu chảy
tiết ra 2 loại độc tố ruột LT và ST. Độc tố LT không bền nhiệt, gây hoạt hóa
adenylcyclase trong tế bào biểu mô ruột làm tăng lượng AMP vòng, do đó kích
thích bài tiết ion Cl- và bicarbonate, đồng thời ức chế tái hấp thu Na+. Hậu quả
cuối cùng là tiêu chảy mất nước. Độc tố ST bền nhiệt, hoạt hóa guanylcyclase làm
tăng GMP vòng, dẫn đến kích thích bài tiết nước và muối gây tiêu chảy.
b. Bệnh do virut gây ra.
1. HIV/AIDS:
1.1 NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH HIV- AIDS:
HIV được lây truyền qua các dịch cơthể, nhưmáu, tinh dịch, dịch tiết âm đạo và
sữa mẹ. Nó gây bệnh bằng cách gắn vào các tế bào T giúp đỡ CD4+ (còn gọi là
limpho bào T4), một loại bạch cầu tham gia quá trình đáp ứng miễn dịch chống lại
nhiễm trùng và ung thư. Khi số lượng tế bào T CD4+ giảm, người đó dễ mắc một
số bệnh mà cơthể người khoẻ mạnh bình thường đủ sức chống lại. Các bệnh nhiễm
trùng cơhội này là nguyên nhân tử vong chính ở người mắc AIDS. HIV cũng
nhiễm vào các tế bào não, gây một số rối loạn thần kinh.
Trước đây việc một người đã chuyển sang giai đoạn AIDS hay chưa được xác định

dựa trên các bệnh cơhội và các biểu hiện của chúng ở người nhiễm HIV. Ngày nay,
chẩn đoán dựa vào việc đếm số lượng tế bào CD4+, điều này cho phép đưa ra chẩn
đoán sớm hơn.
1.2 Đường lây truyền HIV/AIDS:
HIV lây truyền qua 3 đường:
+ Đường tình dục.
+ Máu và các chế phẩm máu.
+ Đường mẹ truyền sang con trong thời kỳ mang thai và cho con bú.
* HIV không lây truyền qua:
Giao tiếp thông thường: ôm, hôn, bắt tay, nói chuyện, ho, hắt hơi,…
Dùng chung nhà tắm, bể bơi, bồn tắm, mặc chung quần áo, ngồi chung ghế,…
Ăn uống chung bát đũa, cốc chén,…
Côn trùng và súc vật không lây truyền HIV: ruồi, muỗi, chấy, rận, chó, mèo, gà,
chim,
1.3 TRIỆU CHỨNG CỦA BỆNH HIV/ AIDS:
1.3.1. Nhóm triệu chứng chính:
- Sụt cân trên 10% cân nặng.
- Tiêu chảy kéo dài trên 1 tháng.
- Sốt kéo dài trên 1 tháng.
1.3.2. Nhóm triệu chứng phụ:
- Ho dai dẳng trên 1 tháng.
- Ban đỏ, ngứa da toàn thân.
- Nổi mụn rộp toàn thân (bệnh Herpes).
- Bệnh Zona (giời leo) tái đi tái lại.
- Nhiễm nấm (tưa) ở hầu, họng, kéo dài hay tái phát.
- Nổi hạch ít nhất là 2 nơi trên cơ thể (không kể hạch bẹn) kéo dài trên 3 tháng.
* Chẩn đoán AIDS: Khi có ít nhất 2 triệu chứng chính + 1 triệu chứng phụ, mà
không do các nguyên nhân ngoài HIV như: ung thư, suy dinh dưỡng, thuốc ức chế
miễn dịch,…
Khi có ít nhất 2 triệu chứng chính + 1 triệu chứng phụ, mà không do các nguyên

nhân ngoài HIV như: ung thư, suy dinh dưỡng, thuốc ức chế miễn dịch,…
1.4 Xét nghiệm chẩn đoán HIV/ AIDS
1.4.1 Xét nghiệm kháng thể. Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến nhất,
gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng HIV.
Qui trình gồm sàng lọc ban đầu bằng sét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết enzym
(ELISA). Nếu kết quả (+), xét nghiệm ELISA được làm lại, nếu vẫn dương tính,
kết quả được xác nhận bằng một phương pháp khác, thường là Western blot hoặc
xét nghiệm miễn dịchhuỳnh quang.Là loại xét nghiệm được tiến hành phổ biến
nhất, gián tiếp chỉ ra sự có mặt của HIV thông qua việc phát hiện kháng thể kháng
HIV. Qui trình gồm sàng lọc ban đầu bằng sét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết
enzym (ELISA). Nếu kết quả (+), xét nghiệm ELISA được làm lại, nếu vẫn dương
tính, kết quả được xác nhận bằng một phương pháp khác, thường là Western blot
hoặc xét nghiệm miễn dịchhuỳnh quang.
1.4.2. Xét nghiệm trực tiếp: Phát hiện chính bản thân HIV, bao gồm các xét
nghiệm kháng nguyên (kháng nguyên p24), nuôi cấy HIV, xét nghiệm acid nucleic
của tế bào lympho máu ngoại ci, và phản ứng chuỗi polymerase
Phát hiện chính bản thân HIV, bao gồm các xét nghiệm kháng nguyên (kháng
nguyên p24), nuôi cấy HIV, xét nghiệm acid nucleic của tế bào lympho máu ngoại
ci, và phản ứng chuỗi polymerase
1.4.3 Các xét nghiệm máu hỗ trợ chẩn đoán và giúp đánh giá mức độ suy giảm
miễn dịch, gồm đếm tế bào T CD4+ và CD8+, tốc độ máu lắng, đếm tế bào máu
toàn phần, mỉcoglobulin beta huyết thanh , kháng nguyên p24…
hỗ trợ chẩn đoán và giúp đánh giá mức độ suy giảm miễn dịch, gồm đếm tế bào T
CD4+ và CD8+, tốc độ máu lắng, đếm tế bào máu toàn phần, mỉcoglobulin beta
huyết thanh , kháng nguyên p2…
1.5 ĐIỀU TRỊ HIV/ AIDS:
Việc điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS khá phức tạp và tốn kém nhưng chỉ giúp
kéo dài sự sống chứ không chữa khỏi được bệnh. Gồm:
iệc điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS khá phức tạp và tốn kém nhưng chỉ giúp
kéo dài sự sống chứ không chữa khỏi được bệnh. Gồm:

1.5.1 Điều trị bằng thuốc:
- Thuốc chống virus: CÁc thuốc chống virus ức chế sự phát triển và nhân lên của
HIV ở những giai đoạn khác nhau trong vòng đời của virus. Hiện có một số nhóm
như:
+ Các chất ức chế men phiên mã ngược tương tự nucleosid (NRTI): đây là nhóm
thuốc chống retrovirus đầu tiên được triển khai. Chúng ức chế sự sao chép của một
enzym HIV là men phiên mã ngược. Nhóm thuốc này gồm zidovudine,
lamivudine, didanosin, zalcitabine, stavudine và abacavir. Một thuốc mới hơn là
emtricitabine phải được dùng phối hợp với ít nhất là 2 thuốc AIDS khác, điều trị cả
HIV và viêm gan B.
+ Các chất ức chế protease (PI): Nhóm thuốc này cản trở sự nhân lên của HIV ở
giai đoạn muộn hơn trong vòng đời của nó bằng cách tác động vào enzym protease
của virus, khiến cho HIV bị rối loạn cấu trúc và không gây nhiễm. Các thuốc trong
nhóm gồm saquinavir, ritonavir, indinavir, nelfinavir, amprenavir, lopinavir và
atazanavir.
+ Các chất ức chế men phiên mã ngược phi nucleosid (NNRTI). Những thuốc này
gắn trực tiếp với men phiên mã ngược, gồm các thuốc nevirapine, delavirdine và
efavirenz.
+ Các chất ức chế men phiên mã ngược nucleotid (NtRTI). Những thuốc này hoạt
động rất giống chất ức chế men phiên mã ngược tương tự nucleotid nhưng tác dụng
nhanh hơn. Thuốc duy nhất trong nhóm này là tenofovir ức chế cả HIV và viêm
gan B, tỏ ra có hiệu quả ở bệnh nhân kháng NRTI.
+ Các chất ức chế hoà nhập: không cho virus nhân lên bằng cách ngăn không cho
màng virus hoà nhập với màng của tế bào khỏe mạnh. Thuốc đầu tiên trong nhóm
này là enfuvirtide tỏ ra ức chế được ngay cả những chủng HIV kháng thuốc mạnh
nhất.
- Thuốc điều hoà miễn dịch: Giúp tăng cường hệ miễn dịch, như: Alpha-interferon,
interleukin 2, Ioprinasine,…
- Thuốc phòng ngừa và điều trị bệnh cơ hội: Nhiều thuốc được sử dụng có hiệu quả
để phòng ngừa và điều trị một số bệnh cơ hội xuất hiện ở người nhiễm HIV/AIDS.

1.5.2 Trị liệu bổ sung:
- Chế độ dinh dưỡng tốt, làm việc nghỉ ngơi điều độ.
- Liệu pháp vitamin, liệu pháp vi lượng và châm cứu,…
1.6 Các biện pháp phòng ngừa HIV/AIDS:
Dựa vào đường lây nhiễm HIV, có các biện pháp phòng sau:
1.6.1 Phòng nhiễm HIV/AIDS lây qua đường tình dục:
- Sống lành mạnh, chung thuỷ một vợ một chồng và cả hai người đều chưa bị
nhiễm HIV. Không quan hệ tình dục bừa bãi.
- Trong trường hợp quan hệ tình dục với một đối tượng chưa rõ có bị nhiễm HIV
không, cần phải thực hiện tình dục an toàn để bảo vệ cho bản thân bằng cách sử
dụng bao cao su mới (condom, áo mưa, bao kế hoạch) đúng cách.
- Dùng thuốc diệt tinh trùng và HIV: phổ biến là Nonoxynol-9 (Menfagol) được
làm dưới dạng kem bôi, viên đặt, hoặc tẩm vào màng xốp, bao cao su.
1.6.2 Phòng nhiễm HIV/AIDS lây qua đường máu:
- Không tiêm chích ma túy.
- Chỉ truyền máu và các chế phẩm máu khi thật cần thiết, và chỉ nhận máu và các
chế phẩm máu đã xét nghiệm HIV.
- Hạn chế tiêm chích. Chỉ sử dụng bơm kim tiêm vô trùng. Không dùng chung bơm
kim tiêm. Sử dụng dụng cụ đã tiệt trùng khi phẫu thuật, xăm, xỏ lỗ, châm cứu…
- Tránh tiếp xúc trực tiếp với các dịch cơ thể của người nhiễm HIV
- Dùng riêng đồ dùng cá nhân: dao cạo, bàn chải răng, bấm móng tay,…
1.6.3 Phòng nhiễm HIV/AIDS lây truyền từ mẹ sang con:
- Phụ nữ nhiễm HIV không nên mang thai, vì tỷ lệ lây truyền HIV sang con là
30%. Nếu có thai thì uống thuốc dự phòng theo hướng dẫn của bác sĩ.
c. Bệnh do nấm gây ra.
1 .bệnh Hắc Lào: còn gọi là bệnh lác, là bệnh do vi nấm thuộc
nhóm dermatophytes cạn gây nên. Hay gặp nhất là hai loại trychophyton và
epidermophyton.
- Nguyên nhân: gây ra bệnh hắc lào là do sống trong môi trường không vệ sinh,
người ra nhiều mồ hôi mà ít tắm giặt, bơi lội trong vùng nước bẩn.

-Triệu chứng: Dấu hiệu nổi bật nhất của bệnh là ngứa, nổi mẩn đỏ, có mụn nước,
vùng có nấm thường tròn như đồng tiền. Cảm giác ngứa ngáy rất khó chịu ở vùng
da bị tổn thương, cả ngày lẫn đêm, ngứa nhiều hơn khi về đêm, đổ mồ hôi, thời tiết
nóng bức Nổi mẩn đỏ một vùng có giới hạn rõ, trên bề mặt xuất hiện những mụn
nước, tập trung ở phần rìa vùng nổi mẩn. Bệnh có thể gặp ở bẹn, chân tay, mặt,
bụng, ngực
Nếu không điều trị kịp thời bệnh sẽ lây sang những vị trí khác của cơ thể, tăng mức
độ tổn thương trên da, chàm hóa hoặc dễ dàng lây sang người khác do tiếp xúc trực
tiếp hoặc lây qua quần áo
- Phòng và chữa bệnh:Bệnh hắc lào tuy gây nhiều khó chịu cho người bệnh
nhưng chữa trị không khó. Nhưng nếu dùng thuốc không đúng thuốc quá mạnh,
bôi sang cả vùng da lành, da non thì sẽ gây ra tình trạng phỏng, chảy nước vùng
bôi thuốc, thậm chí nếu dùng theo lời mách bảo không đúng còn gây nhiễm khuẩn,
sưng đau.
Thuốc bôi như etoconazol, miconazol, clotrimazol Những thuốc này có ưu điểm
là không có màu, mùi thơm, không gây lột da, không sưng đau nhưng cũng có thể
gây ra những dị ứng nhẹ. Những dị ứng này sẽ hết khi ngừng dùng thuốc.
Trong trường hợp bệnh tái phát nhiều lần có thể phải dùng thuốc chống nấm dạng
uống. Tuy nhiên việc dùng thuốc gì và liều lượng như thế nào cần phải được thầy
thuốc chuyên về da liễu khám và chỉ định, nếu tự ý dùng có thể sẽ xảy ra những tác
dụng phụ nguy hiểm.
Chính vì vậy việc phòng bệnh phải bắt đầu bằng lối sống vệ sinh sạch sẽ, tắm gội
và giặt giũ quần áo, chăn màn thường xuyên. Những người đang bị bệnh, bên cạnh
việc dùng thuốc tại chỗ phải diệt nấm ở những vật dụng cá nhân như quần áo, chăn
màn bằng cách luộc ở nước sôi 100oC trong vòng 15 phút.
Đối với người lành không mang bệnh không nên mặc quần áo chung với người
khác, tránh làm việc nơi ẩm ướt, nếu ra mồ hôi nhiều cần phải thường xuyên tắm
giặt và giữ khô những vùng nếp như háng, nách, bẹn. Khi mắc bệnh phải đi khám
để được hướng dẫn chữa trị đúng
V- KẾT LUẬN

Qua tìm hiểu chuyên đề chúng ta thấy được tác hại của những nhóm vi sinh vật
gây ra. Đó là những bệnh gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và có thể ảnh
hưởng đến tính mạng con người.Những mầm bệnh đang tiềm tàng đe dọa đến con
người,với trình độ hiểu biết va trình độ khoa học kỹ thuật như hiên nay chưa thể
tìm ra phương pháp điều trị như căn bệnh thế kỷ HIV/ AIDS, nhiều loại dịch bệnh
đang bùng phát với một tốc độ nhanh chóng, mức nguy hại cao.Do đó nhiệm vụ
của chúng ta hiện nay là phải đẩy mạnh nghiên cứu tìm ra nguyên nhân và các
phòng và chữa những căn bệnh được gọi là hiểm họa đó.

×