Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Phân tích tổng hợp Chiếc thuyền ngoài xa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.46 KB, 46 trang )

Hình tượng người đàn bà hàng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa
Dàn ý:
I. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm” Chiếc thuyền ngoài xa” (HCST, ND, NT)
- Giới thiệu về nhân vật người đàn bà.
II. Thân bài
1.Ngoại hình
- Cao lớn, thô kệch. Mặt rỗ, tái mét vì mệt mỏi.Dáng đi chậm chạp như bà
già.
- Tấm lưng áo bạc phếch, rách rưởi …1. Ngoại hình:
Từ những nét ngoại hình được khắc hoạ, hình ảnh người đàn hiện lên với ấn
tượng của sự vất vả, lam lũ và nghèo khổ.
2.Hành động và thái độ:
a. Khi bị chồng đánh đập tàn nhẫn: chị vẫn cam chịu, nhẫn nhục, không có
một phản kháng nào:không kêu, không chống trả, không chạy trốn.
b.Khi đứa con trai xuất hiện:
- Chị cảm thấy xấu hổ nhục nhã, đau đớn vì con mình chứng kiến cảnh ấy.
- Ôm chầm lấy con,chị thương con vì bị bố đánh.
- Chắp tay vái lấy vái để nó, tức là xin nó đừng làm gì đó trái với đạo lí.
Người đàn bà ấy là người bất hạnh nhưng ở chị toát lên vẻ đẹp của lòng vị
tha giàu đức hi sinh. Hình ảnh người đàn bà vùng chài này đáng được thương
và đáng được trân trọng.
c.Khi gặp Chánh Án Đẩu:
- Thái độ:
+ Lúc đầu khi đến sợ sệt run rẩy tìm một góc để ngồi, Đó là cái run rẩy
thường dân cả đời mới tiếp xúc với quan toà, công đường.
+ Xưng hô: quý toà-con tự nhận mình là thân phận thấp hèn.
+ Khi Đẩu khuyên chị “cả nước này không có người đàn ông nào vũ phu như
hắn, chị không sống được với lão ta đâu”, ý của Đẩu khuyên chị ta hãy từ bỏ
người chồng vũ phu ấy. Nhưng người đàn bà phản ứng mãnh liệt: “con lạy
quý toà nhưng xin đừng bắt con bỏ nó”.


=> Thái độ của người đàn bà trái với lẽ thường, điều mà Đẩu khuyên người
đàn bà rất hợp lí và có lẽ ai cũng nghĩ rằng đó là giải pháp tốt nhất giải thoát
cho người đàn bà trong hoàn cảnh ấy, giải thoát khỏi người chồng vũ phu. Vì
thế sau câu nói của người đàn bà Phùng cảm thấy căn phòng lồng lộng gió
biển bỗng nhiên bị hút hết không khí ngột ngạt quá chừng.
* Sau đó thay đổi cách xưng hô: chị và các chú , dường như chị đã thoát ra
được nỗi lo lắng sợ hãi, lúc này thái độ không còn run rẩy nữa mà tự tin hơn.
Chị cảm ơn Phùng, Đẩu về lời khuyên ấy và khẳng định “ Lòng các chú tốt,
nhưng các chú đâu có phải là ngưòi làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu
được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”-> người phụ nữ rất
hiểu lẽ đời.
* Chị kể về cuộc đời mình: là cuộc đời bất hạnh, là một người đàn bà xấu
(căn bệnh đậu mùa đã để lại những di chứng không bao giờ xoá được trên
khuôn mặt của người đàn bà ấy)
- Lấy chồng người hàng chài, sinh nhiều con, nghèo lại càng nghèo hơn.
- Bị chồng đánh đâp hành hạ tàn nhẫn. Mỗi khi lão ấy buồn hay bực tức là
đem chị ra đánh.
- Chị hiểu và cảm thông cho hành động vũ phu ấy của chồng. Chị nghĩ rằng
tẩt cả chỉ vì đói nghèo mà ra. Và nguyên nhân cũng do chính mình tạo ra.
- Là một người phụ nữ rất yêu thương chồng con vì thế chị xin chồng đưa
mình lên bờ để đánh nhằm tránh làm tổn thương các con.
- Chị đưa thằng Phác lên bờ vì không muốn nó chứng kiến cảnh bạo lực và
hơn hết chị không muốn nó vì thương mình mà trở thành đứa con bất hiếu
với cha, làm trái với luân thường đạo lí.
- Chị quan niệm: người đàn bà sống trên thuyền là sống vì con chứ không vì
mình và điều hạnh phúc nhất của chị là khi nhìn thấy đàn con ăn no.
Nguyên nhân của sự chịu đựng và nhẫn nhục ấy là bởi vì chị cần phải có
chồng, trên thuyền cần phải có người đàn ông mạnh khoẻ và biết nghề. Hơn
nữa các con chị cần phải có bố để nuôi và dạy chúng nó. Cần có chỗ dựa
vững chắc trong cuộc sống mưu sinh vất vả, chị hiểu nỗi khốn khổ bế tắc của

chồng. Vì vậy chị luôn nhẫn nhục cam chịu sẵn sàng hi sinh bản thân mình vì
chồng con. Nhưng dù sao trong cuộc sống triền mien khổ đau ấy , người đàn
bà vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi. Có lẽ đó cũng là một lí
do để chị sống.
Câu chuyện của người đàn bà khiến cho Phùng và Đẩu ngạc nhiên sững sờ
không hiểu tại sao người phụ nữ ấy lại có sức cam chịu đến như thế. Và rồi
khi đã hiểu ra họ cảm phục và trân trọng tấm lòng vị tha đức hi sinh cao cả
của người phụ nữ hàng chài.
Tóm lại: Qua câu chuyện của người phụ nữ hàng chài nhà văn thể hiện cái
nhìn nhân hậu của mình. Ông phát hiện ra rằng đằng sau câu chuyện buồn
của gia đình người lao động vùng biển là vẻ đẹp của tình mẫu tử, lòng bao
dung và đức hi sinh của người phụ nữ. Đó là hạt ngọc ẩn dấu trong những cái
lấm ắp đời thường mà ông nâng niu trân trọng.
Và qua đó ta hiểu được hơn giá trị tốt đẹp của người phụ nữ vùng biển nói
riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.
III. Kết bài
- Nhận xét về nhân vật , nêu những suy nghĩ về ý nghĩa hình tượng nhân
vật.
- Đánh giá cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh Châu.
(Sưu tầm)
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài
I . Mở bài
Nguyễn Minh Châu là nhà văn mở đường tài năng và tinh anh nhất của văn
học ta hiện nay . Ông đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo
đức thế sự. Tâm điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người
trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và
hoàn thiện nhân cách. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những sáng tác
tiêu biểu của ông . Truyện đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật
người đàn bà hàng chài , một người lao động lam lũ , bất hạnh , trải đời và

sáng đẹp tình yêu thương , đức hi sinh , vị tha .
II. Thân bài .
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn
Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của
nhà văn ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước
ta đang dần đổi mới , cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái , nhiều tồn tại
khiến người ta phải băn khoăn . Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến
quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện
ngắn (in năm 1987).
Mọi diễn biến của tác phẩm đều được soi chiếu qua lời kể và suy nghĩ của
nhân vật Phùng . Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và
biển thật ưng ý, Phùng đi tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh
thời chống Mĩ. Phùng đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và toàn bích.
Nhưng chính từ chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ
chồng hàng chài , lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức,
buồn khổ của mình. Thằng Phác, con lão che chở người mẹ đáng thương.
Phùng xông ra buộc lão phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh
trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây,
anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao cảm thông và
ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu :không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn
nhận mọi hiện tượng của cuộc đời.
Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức
ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn
về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều
chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
Trong tác phẩm nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong
câu chuyện của Phùng . Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ
hai của Phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện
cuộc đời chị kể ở toà án huyện . Cuộc đời , số phận , tính cách , cảnh ngộ của
chị gây xúc động , trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người

đọc .
Ấn tượng đầu tiên về người đàn bà là khi chị bước ra từ chiếc thuyền đánh cá
đẹp như mơ . Nhưng đối lập với vẻ đẹp mờ ảo được nhìn từ xa , khi lại gần ,
những nét khắc khổ trong số phận của chi hiện rõ trên dáng vẻ khuôn mặt .
Nhà văn không đặt tên cho nhân vật mà chỉ dùng danh từ chung “ người đàn
bà hàng chài” như một mẫu số khái quát nên số phận bất hạnh , cực khổ của
bao người phụ nữ hàng chài khác trong xã hội . Chị bước ra từ con thuyền ,
xuất hiện ngay trước mắt nghệ sĩ Phùng với dáng người to lớn , thô kệch ,
mặt rỗ , khuôn mặt tái nhợt sau một đem thức trắng kéo lưới , dáng vẻ mệt
mỏi . Chị lặng lẽ để cho chồng đánh : lão rút trong người ra một chiếc thắt
lưng của lính nguỵ ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa
cháy, dùng cái thắt lưng quật tới tấp lên lưng người đàn bà , lão vừa đánh
vừa thở hồng hộc, hai hàm răng ngiến vào nhau ken két .Cứ mỗi nhát quất
xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn “ Mày chết đi cho ông
nhờ .Chúng mày chết đi cho ông nhờ” . “ Người đàn bà có vẻ cam chịu nhẫn
nhục không hề kêu một tiếng ,không chống trả ,cũng không tìm cách trốn
chạy . Bạo lực trong gia đình thuyền chài ấy diễn ra thường xuyên “ Ba ngày
một trận nhẹ ,năm ngày một trận nặng”. Rồi thằng Phác , thằng con trai mà
chị yêu quý nhất lao vào bố khiến tim chị đau nhói , xấu hổ , thương con , lo
lắng , sợ hãi con trai có thể làm điều gì dại dột với bố . Nước mắt chị tràn ra ,
thấm vào những nốt rỗ chằng chịt trên mặt . Chỉ bằng vài chi tiết chọn lọc ,
nhà văn đã gợi ra bao điều đau xót về bi kịch cuộc đời của một người phụ nữ
cực khổ , lam lũ , bất hạnh .
Số phận , cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện theo
yêu cầu của chánh án Đẩu , bạn chiến đấu cũ của nghệ sĩ Phùng sau khi anh
can ngăn bạo lực trong gia đình chị và bị lão chồng vũ phu của chị đánh bị
thương . Ban đầu khi đến toà án , chị rất sợ sệt , khép nép , một điều quý
toà , hai điều quý toà , xưng con , chỉ dám ngồi mon men ở mép ghế . Khi
nhận được lời khuyên “ chị không sống nổi với người chồng vũ phu ấy đâu”
của chánh án , người đàn bà ra sức van xin “ quý toà bắt tội con cũng được ,

bỏ tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó” . Lời van xin ấy chứa đựng
bao éo le mà người ngoài cuộc đều ngạc nhiên , không hiểu được . Khi chánh
án Đẩu nghiêm giọng , nói rõ chủ trương của toà , chị bỗng thay đổi hẳn thái
độ ,xưng chị với Phùng và Đẩu . Chị kể lại câu chuyện cuộc đời mình như lời
giải thích cho việc chị phải chấp nhận một người chồng vũ phu mà không thể
bỏ .
Câu chuyện bắt đầu từ việc chị lấy chồng. Chị vốn mặt rỗ , xấu gái , may
được người thanh niên đánh cá thương và lấy làm vợ . Khi ấy hắn là anh con
trai cục tính nhưng hiền lành lắm , không bao giờ đánh đập chị . Cuộc sống
trở nên khó khăn trong những ngày biển động . Vợ chồng con cái cả tháng
liền toàn ăn xương rồng luộc chấm muối . Thuyền thì nhỏ mà con thì nhiều ,
nhà nào cũng cũng gần chục đứa . Đàn ông trên thuyền nếu không uống
rượu thì đánh vợ mỗi khi khổ quá . Chị khẳng định bao nỗi vất vả , cực khổ
nếu trên thuyền không có đàn ông , đặc biẹt là khi biển nổi giông bão . Trên
thuyền bắt buộc phải có người đàn ông chèo lái , làm chỗ dựa và cùng nuôi
nấng một đàn con đông đúc . Chị tâm sự rằng trên thuyền cũng có nhiều lúc
vui, vui nhất là vợ chồng sống hoà thuận , nhìn đàn con được ăn no . Chị
khẳng định , đàn bà trên thuyền phải sống cho con chứ không sống cho mình
.
Những lời giãi bày chân thực trên là câu chuyện xúc động, éo le về cuộc đời
người đàn bà hàng chài. Câu chuyện đó đã đưa ra những lí do sâu sắc mà chị
không thể nghe theo lời khuyên giản đơn của chánh án Đẩu mà bỏ chồng .
Cách xử sự của chị là không thể khác . Bởi , nếu bỏ chồng , chị không thể
một mình nuôi nấng đàn con chị vô cùng thương yêu. Một mình người đàn bà
không thể chèo lái con thuyền trên biển khơi rộng lớn . Giọng văn sâu lắng
của tác phẩm bộc lộ xót thương trước hoàn cảnh thân phận của người đàn bà
và thái độ trân trọng của nhà văn trước tình yêu thương , đức hi sinh , lòng vị
tha cao cả của chị . ở chị , dù cái nghèo khổ có lấn át đến đâu , chị vẫn toả
sáng vẻ đẹp cao thượng của người phụ nữ Việt Nam .
Đồng thời, qua câu chuyện , nguyên nhân của nạn bạo hành gia đình được

bộc lộ rõ . Nạn bạo hành gia đình có nguồn gốc từ chính sự nghèo khổ , từ
nhận thức hạn hẹp của người dân về xã hội . Câu chuyện ấy đưa ra bài học
nhân sinh sâu sắc : không nên nhìn đời và giải quyết mội việc một cách đơn
giản phiến diện mà cần phải có cái nhìn đa chiều , thấu hiểu mọi góc khuất
của cuộc sống . Qua đó ta hiểu được cái nhìn đầy trăn trở của nhà văn về đời
sống nhân dân sau chién tranh. Kẻ thù của nhân dân là sự đói nghèo, tối
tăm, lạc hậu về văn hoá, sự tha hoá về nhân cách .
III . Kết bài
Truyện Chiếc thuyền ngoài xa qua những phát hiện của Phùng thân phận cay
đắng , đầy bi kịch , nghèo khổ của người đàn bà hàng chài, đã bộc lộ những
lo lắng , trăn trở của nhà văn về nhân cách đời sống con người, bộc lộ lòng
thương cảm, trắc ẩn, trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn người dân lao
động. Truyện đậm chất tự sự, triết lý, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Minh Châu .
(Sưu tầm)
Phân tích nhân vật Phùng trong truyện "Chiếc thuyền ngoài xa"
Dàn ý:
I. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm - Giới thiệu nhân vật :
- Phùng trước kia là một người lính, đã từng vào sinh ra tử.
- Phùng đựơc trưởng phòng giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh để làm lịch.
Và Phùng quyết định về vùng biển cách Hà Nội 600 km.
II. Thân bài
1. Phùng - một trái tim nghệ sĩ thăng hoa trước cái đẹp.
- Anh đã săn tìm ảnh nghệ thuật về cảnh biển. Anh rất công phu trong việc
chọn một tấm ảnh có hồn. Anh đã “phục kích” mất mấy buổi sang và cả tuần
lễ suy nghĩ và tìm kiếm. Và cuối anh mới tìm được một cảnh ưng ý.
- Một khoảnh khắc khám phá phát hiện ra cái đẹp của thiên nhiên tạo vật-
con người: xúc động, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của chiếc thuyền lúc
bình minh. một khám phá chân lí của nghệ thuật đích thực. một vẻ đẹp toàn

bích của tạo vật. “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương
mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui
khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những
cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình
thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng
đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước
nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”.
2. Phùng - một trái tim nghệ sĩ trước cuộc đời
- Phùng chứng kiến cảnh lão đàn ông vũ phu trên chiếc thuyền chài đánh vợ
một cách tàn bạo. Người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng. Phùng “kinh ngạc”, “há
mồm ra mà nhìn” và anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”.
Trước khi là trái tim nghệ sĩ, Phùng có một trái tim con người. Phản xạ của
anh trước sự kiện trên là phản xạ tự nhiên của con người có bản chất thiên
lương, tốt đẹp: căm ghét cái xấu, sự bất công, bảo vệ kẻ yếu.
- Với trái tim nghệ sĩ, Phùng đã thức tỉnh. Chiếc thuyền nghệ thuật thì ở
ngoài xa, một khoảng cách đủ để tạo nên vẻ đẹp huyền ảo, nhưng sự thật
cuộc đời thì lại rất gần. Đừng vì nghệ thuật mà quên cuộc đời, đừng mượn
danh nghệ thuật mà vô trách nhiệm vơí cuộc đời. Bởi lẽ nghệ thuật chân
chính là cuộc đời và vì cuộc đời. Trước khi là một nghệ sĩ biết rung động
trước cái đẹp, hãy là một con người biết yêu ghét, vui buồn trước mọi lẽ đời
thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với một con
người.
- Phùng chứng kiến cảnh chị em thằng Phác phản ứng trước hành động vũ
phu tàn bạo của cha đối với mẹ. Phùng cũng đã chứng kiến câu chuyện người
đàn bà kia ở toà án huyện.
- Nhận thức về cuộc đời, về nghệ thuật của Phùng sau chuyến đi đã có sự
thay đổi ở mỗi người trong cõi đời. Nhất là người nghệ sĩ không thể đơn giản
và dễ dãi khi nhìn nhận mọi vấn đề trong cuộc sống và nhìn nhận con ngưòi.
III. Kết bài

- Khái quát những nét chính về nhân vật, nêu ý nghĩa hình tượng nhân vật
Phùng.
- Đánh giá nghệ thuật xây dựng nhân vật của NMC.
(Sưu tầm)
Cảm nhận về nhân vật Phùng trong truyện Chiếc thuyền
ngoài xa
“Trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, dù có là tiểu thuyết hay truyện
ngắn, cốt truyện thường không đóng một vai trò nào đáng kể. Nhà văn tập
trung chú ý vào thân phận con người, tính cách nhân vật và đã huy động vào
đấy tâm hồn đa cảm dồi dào ấn tượng tươi mới và xúc động về cuộc sống,
bút pháp chân thực và một giọng văn trữ tình trầm lắng ấp áp” (Nguyễn Văn
Hạnh, Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con
người, T.C Văn học,1993, số 3, tr.20).
Có thể nói Chiếc thuyền ngoài xa là một biểu hiện của xu hướng tìm tòi
khámphá trong văn của Nguyễn Minh Châu, trở về với đời thường, với mảnh
đất miền Trung cằn cỗi và cơ cực, đau đáu đi tìm câu hỏi cho những phận
người trong cuộc sống đời thường trăm đắng ngàn cay. Trên tinh thần quyết
liệt đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã lấy con người làm đối tượng phản ánh
thay cho hiện thực đời sống. Mặc dù không phủ nhận văn chương gắn với cái
chung, với cộng đồng nhưng Nguyễn Minh Châu còn muốn thể hiện một quan
niệm văn chương trước hết phải là câu chuyện của con người, với muôn mặt
phức tạp phong phú với tất cả chiều sâu.
Hiện thực của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa không phải là bức tranh
hoành tráng của mảnh đất chiến trường xưa A So từng ghi dấu bao chiến
công, cũng không phải là những con người tạc dáng đứng hào hùng của mình
vào lịch sử. Nhân vật Phùng trở về với mảnh đất từng chiến đấu, một người
lính năm xưa giờ là phóng viên ảnh trở về ghi lại những vẻ đẹp cuộc sống đời
thường cho bộ ảnh lịch quê hương đất nước, phản ánh cuộc sống lao động
khoẻ khoắn tươi rói của những con người dựng xây đất nước, đi tìm vẻ đẹp bí
ẩn của màn sương buổi sáng bổ sung cho tấm ảnh lịch hoàn chỉnh (!). Thế

nhưng, những gì anh chứng kiến đã khiến anh và những người bạn của mình
nhận ra một sự thật gắn với cuộc sống của những người dân chài lam lũ:
“Cuộc sống cứ lênh đênh khắp cả một vùng phá mênh mông. Cưới xin, sinh
con đẻ cái, hoặc lúc nhắm mắt cũng chỉ trên một chiếc thuyền. Xóm giềng
không có. Quê hương bản quán cả chục cây số trời nước chứ không cố kết
vào một khoảnh đất nào”.
Từ cuộc sống ấy, những bi kịch tiềm ẩn khiến con người phải ngỡ ngàng. Một
câu chuyện đơn giản nhưng đã chứa đựng những phát hiện mới mẻ hàm chứa
quan niệm văn chương hướng về con người của Nguyễn Minh Châu. Nếu chỉ
nghĩ suy một cách xuôi chiều đơn giản, cuộc sống khi có ánh sáng cách mạng
sẽ đổi đời cho số phận người lao động, sẽ xoá tan những bi kịch đè nặng lên
kiếp người. Thế nhưng Nguyễn Minh Châu đã chỉ rõ cho chúng ta : cách
mạng không phải giải quyết bi kịch trong một sớm một chiều, con người vẫn
phải đối diện với những bi kịch đời mình, dung hoà với nó. Cách lý giải về con
người của Nguyễn Minh Châu còn ẩn chứa những suy ngẫm về số phận dân
tộc phải trải qua những khổ đau để đối diện với hiện thực bao thách thức.
Người nghệ sĩ nhiếp ảnh đi tìm những vẻ đẹp đích thực của cuộc sống, ngỡ
như anh đã phát hiện ra một khung cảnh thật đáng yêu đáng ca tụng, hướng
người xem về cái đẹp có thể làm quên đi những phiền não cuộc sống: “Qua
khuôn hình ánh sáng, tôi đã hình dung thấy trước những tấm ảnh nghệ thuật
của tôi sẽ là vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm
lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản
hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng trưng cho khung cảnh bình minh là một
khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên
trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà
đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi
mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ
đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng
hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời.” . Và những người dân vùng biển ấy
hiện lên thật đáng yêu, đáng ca ngợi: cuộc sống lao động đầm ấm khoẻ

khoắn, những con người gặp gỡ thật đáng yêu…
Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện
của chiếc - thuyền – ngoài – xa. Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn
bà trong khung cảnh nên thơ đã nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa
nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào người vợ không
thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh
cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho
cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công
diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải
phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát.
Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn
nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân
đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã
đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay
không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp
ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười
năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên
mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn
đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe
tăng kín đáo cho hắn đánh”.
Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh án đã khiến anh choáng
váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con
bỏ nó ”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách
mạng có lòng tốt nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các
chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người
đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù
trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến
cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống
đương đầu nơi gió bão.
Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu

tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh
thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận
con người vật vã trong cuộc mưu sinh.
Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia
dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn
giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn
bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn
những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm
tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục
ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày
ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người đàn bà
ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn
nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì
mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ
ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về
lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp
ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số
phận con người.
Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con
người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua
nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con
người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người,
các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng
bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy
không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã
không đi theo con đường mòn đó. Trong Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn đã
nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con
người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã
cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn
chiều sâu.

Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng
tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của
báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm
công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị
cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con
người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất
hết lòng tin vào con người vhà cuộc đời để bênh vực cho những con người
không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể
hiện trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa như một minh chứng cho tấm
lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc
đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc
sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của
nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng
con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ
thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người
và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống
cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ
thuật của Nguyễn Minh Châu).
Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến
cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng
mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia?
Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng
nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh
sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn,
bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một
người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo
bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng
vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt
đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông.”
Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng

để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng
của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự
thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra
ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
(Sưu tầm)
Tìm hiểu tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu
Tìm hiểu tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn
Minh Châu
I.Tìm hiểu chung
1.Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã
Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông “thuộc trong số những nhà
văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay"
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường,
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi
mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm
điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh,
trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
2.Tác phẩm
a.Xuất xứ: Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được
nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu
biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn
sáng tác thứ hai.
b.Tóm tắt tác phẩm :
Để có thể xuất bản một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý,
trưởng phòng đề nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một
bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu,
người bạn chiến đấu năm xưa, giờ đang là chánh án toà án huyện, Phùng đi
tới một vùng biển từng là chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Phùng đã

“phục kích” mấy buổi sáng mà chưa chụp được bức ảnh nào. Sau gần một
tuần lễ suy nghĩ, tìm kiếm, Phùng quyết định thu vào tờ lịch tháng bảy năm
sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh. Phùng đã chụp được
một bức ảnh thật đẹp và toàn bích. Nhưng anh không ngờ chính từ chiếc
thuyền ngoài xa thật đẹp ấy lại bước xuống một đôi vợ chồng hàng chài và
lão đàn ông thẳng tay quật vợ chỉ để giải toả nỗi uất ức, buồn khổ của
mình.Phùng chưa kịp xông ra can ngăn thì thằng Phác, con lão, đã kịp tới để
che chở người mẹ đáng thương. Biết Phùng chứng kiến sự tàn bạo của cha
mình, thằng bé Phác đâm ra căm ghét anh. Ba hôm sau, cũng trong làn
sương sớm, Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cảnh cô chị gái
tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ
mẹ. Không thể nén chịu hơn được nữa, Phùng xông ra buộc lão phải chấm
dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa
về trạm y tế của toà án huyện. Ở đây, anh đã nghe câu chuyện của người
đàn bà hàng chài với bao cảm thông và ngỡ ngàng, ngạc nhiên. Anh hiểu
được người đàn bà ấy dù bị đánh đập tàn bạo đến mấy vẫn cần có chồng, cần
một người đàn ông sức vóc trên chiếc thuyền ngoài biển khơi để kiếm sống
nuôi đàn con. Phùng thấm thía: không thể đơn giản và sơ lược khi nhìn nhận
mọi hiện tượng của cuộc đời.
c.Tình huống truyện độc đáo
Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến một “cảnh “đắt” trời cho”
làm người nghệ sĩ rung động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của
thuyền biển. Trong giây phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn,
anh lại phát hiện ra hiện thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con
thuyền “thơ mộng”, đó là cảnh lão đàn ông đánh vợ một cách tàn bạo.
Tình huống đó được lặp lại lần nữa; bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn
nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị
em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người
nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái
trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em

thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm chính mình.
Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi
mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra
những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật.
Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống
d.Ý nghĩa nhan đề
“Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện gắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Tác
giả đặt cho truyện ngắn nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” thật sâu sắc, một
nhan đề đa nghĩa:
Đây là hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện trong phần mở đầu chuyện ngắn,
theo nghệ sĩ Phùng, đó là một cảnh “đắt” trời cho, là vẻ đẹp “đơn giản và
toàn bích”, khiến cho Phùng cảm động, tưởng như chính mình “vừa khám phá
thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn”. Như vậy “Chiếc thuyền ngoài xa” là biểu tượng về nghệ
thuật, là vẻ đẹp cuộc sống.
Theo diễn biến truyện: Chiếc thuyền ngoài xa vào gần bờ, một người đàn ông
và một người đàn bà rời thuyền. Người đàn bà đi vào bãi xe tăng hỏng chờ
đợi, người chồng đánh vợ một cách tàn bạo, người vợ chấp nhận với vẻ cam
chịu đầy nhẫn nhục”
Người đàn bà được mời đến toà án huyện để giải quyết. Thật ngạc nhiên,
người đàn bà “lạy quí toà” và van xin: “bắt tội”, “bỏ tù” cũng được nhưng
“đừng bắt con bỏ nó”. Sự thật được giải đáp khi người đàn bà kể lại câu
chuyện về cuộc đời mình. Người đàn bà chấp nhận những trận đòn một cách
“tự nguyện” là bởi ở thuyền “phải có người đàn ông để chèo chống khi phong
ba”, bởi đàn bà ở thuyền “phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
Như vậy, “Chiếc thuyền ngoài xa” còn là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời,
là không gian sinh tồ của gia đình hàng chài với cuộc sống bấp bênh, đầy khó
khăn, bất trắc.
Nếu chiếc thuyền ấy không vào gần bờ, không có câu chuyện của người đàn
bà trên thuyền kể lại, chỉ nhìn “chiếc thuyền” khi nó ở “ngoài xa” thì làm sao

thấu hiểu sự thật? Đây chính là tư tưởng cốt lõi của truyện ngắn: Xa và gần,
bên ngoài và thẳm sâu, mới là cái nhìn toàn diện về cuộc sống, cần có một
cái nhìn đa diện, nhiều chiều mới phát hiện ra bản chất thật về cuộc sống và
con người.
“Chiếc thuyền ngoài xa” đã trở thành tấm ảnh đẹp, treo ở nhiều nơi, nhất là
ở trong các gia đình sành nghệ thuật, nhưng có ai hiểu được câu chuyện con
người trên chiếc thuyền ấy. Chỉ có nghệ sĩ Phùng, mỗi khi ngắm nhìn tấm
ảnh bao giờ cũng “thấy người đàn bà ấy dang bước ra khỏi tấm ảnh”, một
người đàn bà lam lũ, cam chịu, giàu tình thương, lòng vị tha. Đó cungz là
thông điệp của tác giả gửi tới người đọc: nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc
đời
e.Chủ đề
Từ câu chuyện về một bức tranh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức
ảnh, truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” mang đến một bài học đúng đắn
về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều
chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.
II.Luyện tập:
Đề : Cảm nhận của anh chị về truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của
Nguyễn Minh Châu
Gợi ý:
1.Mở bài:
Nguyễn Minh Châu –người mở đường tinh anh và tài năng của văn học Việt
Nam thời kì đổi mới.Những tác phẩm của ông để lại dấu ấn sâu sắc với người
đọc: “Mảnh trăng cuối rừng”, “Bức tranh” và đặc biệt là tác phẩm “Chiếc
thuyền ngoài xa”viết vào những năm đầu thời kì đổi mới.
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách
nhìn nhận cuộc sống và con người:một cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát
hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.Đồng thời tác
phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí của Nguyễn Minh Châu:với cách khắc
họa nhân vật,xây dựng cốt truyện độc đáo và sáng tạo.

2.Thân bài:
Để có một bộ lịch nghệ thuật về thuyền và biển thật ưng ý,trưởng phòng đề
nghị nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đi thực tế chụp bổ sung một bức ảnh với cảnh
biển buổi sáng có sương mù. Nhân chuyến đi thăm Đẩu,người bạn chiến đấu
năm xưa,giờ đang là chánh án huyện,Phùng đi tới một vùng biển từng là
chiến trường cũ của anh thời chống Mĩ. Đã mấy buổi sáng mà anh vẫn chưa
chụp được một bức ảnh nào.Sau một tuần lễ, Phùng đã chụp được một bức
ảnh tuyệt đẹp về chiếc thuyền ngoài xa: “một chiếc thuyền lưới vó… như là
một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. “Mũi thuyền in một nét mơ
hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữ có pha đôi chút màu hồng hồng
do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng gười lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc
như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung
cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới
một hình thù y hệt cánh một con dơi ”. Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là
một vẻ đẹp mà cả đời bấm máy có lẽ Phùng chỉ có diễm phúc bắt gặp một
lần: “Trong giây phút bối rối, Phùng tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái
chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của
tâm hồn”.Bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa” là sự phát hiện thú vị của người
nghệ sĩ trên con đường sáng tạo cái đẹp nghệ thuật.
Tác phẩm không dừng lại ở đó,người nghệ sĩ Phùng bàng hoàng khi phát hiện
ra sự thật của cuộc sống bên trong bức ảnh tuyệt mĩ của “Chiếc thuyền ngoài
xa”:Bước ra là một người đàn bà mệt mỏi,cam chịu và một lão đàn ông dữ
dằn,ác độc,coi việc đánh vợ như là phương cách giải tỏa những uất ức khổ
đau: “Lão đàn ông lập tức trở nên hùng hổ,mặt đỏ gay,lão rút trong người ra
một chiếc thắt lưng…lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc
thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà,lão vừa đánh vừa thờ hồng hộc,hai
hàm răng nghiến ken két ”. Trong “chiếc thuyền ngoài xa”,một sự thật còn
trớ trêu,cay đắng nữa:Cha con lão làng chài coi nhau như kẻ thù “Thằng bé
chạy một mạch,sự giận dữ căng thẳng…lập tức nhảy xổ vào cái lão đàn
ông liền dướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực

lão đàn ông”.Người nghệ sĩ Phùng như cay đắng nhận thấy những cái ngang
trái,bi kịch trong gia đình thuyền chài kia đã là thứ thuốc rửa quái đản làm
những thước phim huyền diệu của cái máy ảnh mà anh dày công sáng tạo
nghệ thuật bổng hiện hình một sự thật cuộc sống xót xa.Tấm ảnh về chiếc
thuyền thì rất đẹp,nhưng cuộc sống đích thực của gia đình dân chài trên
chiếc thuyền ấy chẳng có gì là đẹp.Sự nghịch lí ấy đặt ra vấn đề đối với người
nghệ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. “Nghệ thuật không
nên là ánh trăng lừa dối” (Nam Cao)
Phùng từng là người lính cầm súng chiến đấu để đem lại cuộc sống thanh
bình,tốt đẹp.Nhưng hiện thực cuộc sống vẫn còn những góc khuất.Đặc biệt là
câu chuyện của người đàn bà làng chài ở tòa án huyện.Bề ngoài,đó là một
người đàn bà nhẫn nhục,cam chịu,bị chồng thường xuyên hành hạ,đánh đập
thật khốn khổ “ba ngày một trận nhẹ,năm ngày một trận nặng”,nhưng người
đàn bà vẫn kiên quyết gắn bó với lão đàn ông ấy: “Con lạy quý tòa Quý tòa
bắt tội con cũng được,phạt tù con cũng được,đừng bắt con bỏ nó”.Nguồn gốc
của những nghịch lí đó là tình thương vô bờ đối với những đứa con “Đám đàn
bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống
khi phong ba,để cùng làm ăn nuôi nấng phải sống cho con chứ không phải
sống cho mình”.Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam
khỏi nanh vuốt quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số
phận của người đàn bà bất hạnh.Qua câu chuyện của người đàn bà,Phùng
càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Người đàn bà hàng chài không có tên ,một người vô danh như biết bao người
đàn bà vùng biển khác.Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của
biết bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu,bao dung,giàu đức hi sinh.Người
đàn bà ấy thật đáng chia sẻ cảm thông.Lão đàn ông trước kia là một “anh
con trai cục tính nhưng hiền lành” nay là một người chồng độc ác.Ông ta vừa
là nạn nhân của cuộc sống khốn khổ,vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ
cho chính những người thân của mình.Làm thế nào để đem lại cái phần thiện
trong người đàn ông ấy?!Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng

chài,những đứa trẻ như chị Phác,cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như
thế nào?Những người nghệ sĩ như Phùng,những nhà quản lí xã hội như Đẩu
sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy?!
Cốt truyện của tác phẩm rất sáng tạo và độc đáo.Những tình huống chứa đầy
sự nghịch lí: Một trưởng phòng muốn có tờ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” nhưng
thực tế vẫn có hình ảnh con người , Một người nghệ sĩ chụp được bức ảnh
tuyệt đẹp thì chính trong đó lại chứa những cái xấu ác, Một người đàn bà bị
chồng đánh dã man nhưng không bao giờ muốn từ bỏ lão.Những nghịch lí đó
vẫn tồn tại trong cuộc đời như nói lên một triết lí sâu sắc: Cuộc sống không
hề đơn giản mà phức tạp,không dễ gì khám phá.Người nghệ sĩ phải có cái
nhìn nhiều chiều khi phản ánh hiện thực cuộc sống.
Người kể chuyện là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật Phùng đã tạo ra
một điểm nhìn trần thuật sắc sảo.Lời kể trở nên khách quan,chân thật giàu
sức thuyết phục.Ngôn ngữ nhân vật phù hợp với đặc điểm tính cách của từng
người:giọng lão đàn ông thô bỉ,lời người đàn bà xót xa cam chịu…Việc sử
dụng ngôn ngữ sáng tạo đã góp phần khắc sâu hơn chủ đề tư tưởng của tác
phẩm.
3.Kết bài:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện một bài học đúng đắn về cách
nhìn nhận cuộc sống và con người:Mỗi người trong cõi đời,nhất là người nghệ
sĩ,không thể đơn giản,sơ lược khi nhìn nhận cuộc sống và con người. Cần một
cách nhìn đa dạng nhiều chiều,phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên
ngoài của hiện tượng.Đồng thời tác phẩm in đậm phong cách tự sự-triết lí
của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Có thể khẳng định:Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu
tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ,dũng cảm thể
hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của
chúng ta.Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn
không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản,và nhà văn cần phấn đấu để
đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

(Sưu tầm)
HIẾC THUYỀN NGOÀI XA - Nguyễn Minh Châu
I. TÌM HIỂU CHUNG
1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã
Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông “thuộc trong số những nhà
văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay"
- Sau 1975, khi văn chương chuyển hướng khám phá trở về với đời thường,
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi
mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Tâm
điểm những khám phá nghệ thụât của ông là con người trong cuộc mưu sinh,
trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.
- Tác phẩm chính (SGK)
2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Truyện in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn Minh Châu, rất tiêu
biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn
sáng tác thứ hai.
Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy
làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
II. ĐỌC- HIỂU
1. Bố cục
- Truyện chia làm 2 đoạn lớn:
+ Đoạn 1: (Từ đầu đến “chiếc thuyền lới vó đã biết mất"). Hai phát hiện của
người nghệ sĩ nhiếp ảnh.
+ Đoạn 2: (Còn lại): Câu chuyện của người đàn bà làng chài.
2. Phát hiện thứ nhất đầy thơ mộng của người nghệ sĩ nhiếp ảnh
- "Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu tôi tưởng chính mình vừa khám
phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong
ngần của tâm hồn".
- Đôi mắt tinh tường, "nhà nghề” của người nghệ sĩ đã phát hiện vẻ đẹp “trời

cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một
lần. Người nghệ sĩ cảm thấy hạnh phúc - đó là niềm hạnh phúc của khám phá
và sáng tạo, của sự cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu . Trong hình ảnh chiếc
thuyền ngoài xa giữa biển trời mờ sương, anh đã cảm nhận cái đẹp toàn bích,
hài hoà, lãng mạn của cuộc đời, thấy tâm hồn mình được thanh lọc.
3. Phát hiện thứ hai đầy nghịch lí của người nghệ sĩ nhiếp ảnh
- Người nghệ sĩ đã tận mắt chứng kiến: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như
trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một lão
đàn ông thô kệch, dữ dằn, độc ác, coi việc đánh vợ như một phương cách để
giải toả những uất ức, khổ đau Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn
bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu
như trò đùa quái ác của cuộc sống.
- Chứng kiến cảnh người đàn ông đánh vợ một cách vô lí và thô bạo, Phùng
đã “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu vứt chiếc máy ảnh xuống
đất, chạy nhào tới”. Hành động đó nói lên nhiều điều.
4. Câu chuyện của của người đàn bà ở toà án huyện
Là câu chuyện về sự thật cuộc đời, nó giúp những người như Phùng, Đẩu hiểu
rõ nguyên do của những điều tưởng như vô lí. Nhìn bề ngoài, đó là người đàn
bàn quá nhẫn nhục, cam chịu, bị đánh đập mà vẫn nhất quyết gắn bó với
lão chồng vũ phu. Nhưng tất cả đều xuất phát từ tình thương vô bờ đối với
những đứa con. Trong đau khổ triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc
những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi
Qua câu chuyện của người đàn bà làng chài, tác giả giúp người đọc hiểu rõ:
không thể dễ dãi, đơn giản trong việc nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng của
đời sống.
5. Về các nhân vật trong truyện
- Về người đàn bà vùng biển: Tác giả gọi một cách phiếm định “người đàn
bà”. Điều tác giả gây ấn tượng chính là số phận của chị. Ngoài 40, thô kệch,
mặt rỗ, xuất hiện với “khuôn mặt mệt mỏi”, người đàn bà gợi ấn tượng về
một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, nhiều cay đắng. Bà thầm lặng chịu mọi đau

đớn khi bị chồng đánh không kêu một tiếng, không chống trả, không trốn
chạy, “tình thương con cũng như nỗi đau, sự thâm trầm trong cái việc hiểu
thấu các lẽ đời hình như mụ chẳng để lộ ra bên ngoài” - Một sự cam chịu
đáng chia sẻ, cảm thông. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng
bao người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha.
- Về người đàn ông độc ác: Cuộc sống đói nghèo đã biến “anh con trai” cục
tính nhưng hiền lành xưa kia thành một người chồng vũ phu. Lão đàn ông
“mái tóc tổ quạ”, “chân chữ bát”, “hai con mắt đầy vẻ độc dữ vừa là nạn
người của cuộc sống khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho
người thân của mình. Phải làm sao để nâng cao cái phần thiện, cái phần
người trong những kẻ thô bạo ấy.
- Chị em thằng Phác: Bị đẩy vào tình thế khó xửa khi ở trong hoàn cảnh ấy.
Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con
dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm việc trái luân thường đạo lí. Cô bé
là điểm tựa vững chắc của người mẹ đáng thương, cô đã hành động đúng khi
cản được việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải
đến toà án huyện. Thằng Phác thương mẹ theo kiểu một cậu bé con còn nhỏ,
theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ
sờ trên khuôn mặt người mẹ, như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy
trong những nốt rỗ chặng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xưởng đóng
thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Hình
ảnh thằng Phác khiến người đọc cảm động bởi tình thương mẹ dạt dào.
- Người nghệ sĩ nhiếp ảnh: Vốn là người lính thường vào sinh ra tử, Phùng
căm ghét mọi sự áp bức, bất công, sẵn sàng làm tất cả vì điều thiện, lẽ công
bằng. Anh xúc động ngỡ ngàng trước vẻ đẹp tinh khôi của thuyền biển lúc
bình minh. Một người nhạy cảm như anh tránh sao khỏi nỗi tức giận khi phát
hiện ra sự bạo hành của cái xấu, cái ác ngay sau cảnh đẹp huyền ảo trên
biển. Hơn bao giờ hết, Phùng hiểu rõ: trước khi là một nghệ sĩ biết rung động
trước cái đẹp, hãy làm ột người biết yêu ghét vui buồn trước mọi lẽ đời
thường tình, biết hành động để có một cuộc sống xứng đáng với con người.

6. Cách xây dựng cốt truyện độc đáo
Trong tác phẩm, đó là sự kiện Phùng chứng kiến lão đàn ông đánh vợ một
cách tàn bạo. Trước đó, anh nhìn đời bằng con mắt của người nghệ sĩ rung
động, say mê trước vẻ đẹp huyền ảo- thơ mộng của thuyền biển. Trong giây
phút tâm hồn thăng hoa những cảm xúc lãng mạn, Phùng phát hiện ra hiện
thực nghiệt ngã của đôi vợ chồng bước ra từ con thuyền “thơ mộng” đó.
Tình huống đó được lặp lại lần nữa: bên cạnh hình ảnh người đàn bà nhẫn
nhục chịu đựng “đòn chồng”, Phùng còn được chứng kiến phản ứng của chị
em thằng Phác trước sự hung bạo của cha đối với mẹ. Từ đó, trong người
nghệ sĩ đã có sự thay đổi cách nhìn đời. Anh thấy rõ những cái ngang trái
trong gia đình thuyền chài, hiểu sâu thêm tính chất người đàn bà, chị em
thằng Phác, hiểu thêm người đồng đội (Đầu) và hiểu thêm chính mình.
Ý nghĩa: Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được tình huống mà ở đó bộc lộ mọi
mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách, tạo ra
những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm và cả trong cuộc đời nhân vật.
Tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện đời sống.
7. Ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm
- Ngôn ngữ người kể chuyện: Thể hiện qua nhân vật Phùng, sự hóa thân của
tác giả. Chọn người kể chuyện như thế đã tạo ra một điểm nhìn trần thuật
sắc sảo, tăng cường khả năng khám phá đời sống, lời kể trở nên khách quan,
chân thật, giàu sức thuyết phục.
- Ngôn ngữ nhân vật: Phù hợp với đặc điểm tính cách của từng người.
III. TỔNG KẾT
Vẻ đẹp của ngòi bút Nguyễn Minh Châu là vẻ đẹp toát ra từ tình yêu tha thiết
đối với con người. Tình yêu ấy bao hàm cả khát vọng tìm kiếm, phát hiện,
tôn vinh những vẻ đẹp con người còn tiềm ẩn, những khắc khoải, lo âu trước
cái xấu, cái ác. Đó cũng là vẻ đẹp của một cốt cách nghệ sĩ mẫn cảm, đôn
hậu, điềm đạm chiêm nghiệm lẽ đời để rút ra những triết lí nhân sinh sâu
sắc. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số rất nhiều tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu đã đặt ra những vấn đề có ý nghĩa với mọi thời, mọi người.

(Sưu tầm)
Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu
1. Tiểu sử:
- Tên: Nguyễn Minh Châu (1930-1989)
- Quê: huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Tác phẩm: Cửa sông (1967), Dấu chân người lính(1972), Cửa sông (1967),
Dấu chân người lính(1972)
- Nguyễn Minh Châu được Nhà nước tặng giải thưởng HCM về văn học và
nghệ thuật năm 2000
2. Phong cách nghệ thuật:
Trước 1975
-Nghiêng về cảm hứng anh hùng ca, phản ánh, tái hiện bức tranh hiện thực sinh
động về con người và cuộc sống của nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ.
+Tác phẩm: Cửa sông (1967),
Sau 1975
- Văn chương trở về với đời thường & khám phá sự thật đời sống ở bình diện
đạo đức, thế sự
-Có sự đổi mới trong đề tài & bút pháp
-+Tác phẩm:Bến quê (1987)
3. Tác phẩm
(Hoàn cảnh ra đời, Nhan đề, Chủ đề)
Chiếc thuyền ngoài xa viết năm 1983 là truyện ngắn in đậm phong cách tự sự -
triết lí của Nguyễn Minh Châu. Với ngôn từ dung dị đời thường , truyện kể lại
chuyến đi thực tế của một nghệ sĩ nhiếp ảnh và những chiêm nghiệm sâu sắc
của ông về nghệ thuật và cuộc đời.
Nhan đề: Nghệ thuật nhìn xa, nhìn gần thì cái trần trụi, hiện thực cuộc sống bị
phơi bày. Khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc sống thì nghệ thuật mới thiết
thực.
4. Chủ đề: Bằng tài năng của một cây bút giàu bản lĩnh, qua tác phẩm, Nguyễn

Minh Châu đã thể hiện tình yêu tha thiết đối với những cảnh đời, thân phận trớ
trêu của con người và gửi gắm, chiêm nghiệm sâu sắc cảu mình về nghệ thuật.
Nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời và vì cuộc đời; người
nghệ sĩ không thể nhìn đời 1 cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và
con người một cách đa diện, nhiều chiều.
5. Tóm tắt
- Phùng_nghệ sĩ nhiếp ảnh, được phân công đến một vùng ven biển miền Trung
, để chụp ảnh lịch. Sau nhiều ngày “phục kích”, anh chụp được một “cảnh đắt
trời cho”: Cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ
sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh hết sức kinh ngạc: từ chính trong
chiếc thuyền, một gã đàn ông vũ phu đã đánh đập người vợ hết sức dã man;
đứa con trai, xông vào đánh lại bố.Phùng xông vào can thiệp.Nhưng lạ lùng
thay, những ngày sau, cảnh tượng đánh đập vũ phu đó vẫn tiếp tục diễn ra. …
- Theo lời mời của Đẩu_một người bạn chiến đấu của Phùng, nay là Chánh án
toà án huyện
-Người đàn bà hàng chài đã đến toà án. Đẩu và Phùng khuyên bà bỏ người
chồng vũ phu, độc ác đó. Nhưng thật bất ngờ: người phụ nữ đã một mực từ
chối lời khuyên cùng giải pháp của Đẩu và Phùng, nhất quyết xin không bỏ lão
chồng vũ phu.Chị kể lại cuộc đời mình, gia cảnh của chị và người chồng… Đó
cũng là lí do chị từ chối lời khuyên trên.
- Những nhận thức mới bừng sáng trong Đẩu và Phùng sau câu chuyện. Và sự
ám ảnh, trăn trở của Phùng khi nhìn bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa của mình
sau chuyến công tác.
6. Giá trị nội dung
Thông qua tác phẩm, Nguyễn Minh Châu không chỉ xót xa thương cảm người
phụ nữ bất hạnh mà còn lên án sự tàn nhẫn, thô bạo của người chồng trong gia
đình. Đồng thời báo động tình trạng bạo lực trong gia đình đang làm khô héo,
rạn vỡ tâm hồn con người. Ca ngợi tình mẫu tử, trân trọng khát vọng được sống
trong yêu thương, yên bình của trẻ em.
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc

7. Giá trị nghệ thuật
-Tình huống truyện độc đáo.
- Giọng điệu trần thuật đa dạng:
+ Khách quan ngạc nhiên khi tả cảnh đời, cảnh biển.
+ Lo âu khi tái hiện lời thoại của người đàn bà
+ Xót thương, căm phẫn khi chứng kiến cảnh người đàn ông ngược đãi vợ con.
+ Day dứt khắc khoải khi thấy người đàn bà chưa tìm được lối thoát
- Nghệ thuật khắc họa nhân vật (Phùng, người phụ nữ hàng chài, Phác, Đẩu .)
- Lựa chọn các chi tiết đặc sắc (bãi xe tăng cũ, vái lạy thằng Phác & Đẩu, chiếc
thuyền xuất hiện.)
Cấu trúc văn bản truyện ngắn: "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu
Cho đến nay, hầu như giới nhà văn và giới nghiên cứu phê bình văn học đều
coi Chiếc thuyền ngoài xa là tác phẩm tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất phong
cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện ngắn.
Tập sách Nhà văn Việt Nam thế kỷ XX (tập 4) cũng chọn tuyển truyện ngắn này.
Mới đây tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi
đó là tác phẩm hay nhất của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Chiếc thuyền ngoài
xa sẽ được đưa vào giảng dạy ở chương trình chính thức Ngữ văn 12 bắt đầu từ
năm học 2008 – 2009. Giới thiệu mấy lời như vậy để khẳng định vị trí xứng
đáng của tác phẩm trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung, trong sự
nghiệp sáng tác của nhà văn lớn Nguyễn Minh Châu nói riêng - mà công lao
đóng góp của ông đã được Nhà nước và nhân dân ghi nhận bằng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 2 – 2000).
Nguồn: Internet
Ý nghĩa của nhan đề truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu.
Ý nghĩa của nhan đề truyện ngắn “ Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn
Nguyễn Minh Châu.
“Chiếc thuyền ngoài xa” là nhan đề một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh
Châu, trước in trong tập Bến quê (1985), sau được dùng đặt tên cho cả tập

truyện ngắn gồm 15 truyện do nhà xuất bản Tác phẩm mới ấn hành năm 1987.
Thiên truyện được đưa vào giảng dạy trong chương trình văn học lớp 12 phổ
thông, cả ban khoa học xã hội – nhân văn lẫn ban cơ bản. Đặt vấn đề tìm hiểu ý
nghĩa nhan đề một truyện ngắn hoàn toàn không phải là một cái gì mới mẻ bởi
lẽ sự hoàn chỉnh về nội dung được thể hiện ngay trong ý nghĩa mà đầu đề văn
bản chỉ ra, đặc biệt là với các văn bản nghệ thuật vốn thường mang những nhan
đề hàm ẩn. Vậy nhan đề ấy - Chiếc thuyền ngoài xa- có ý nghĩa như thế nào?
Những nhan đề loại này đòi hỏi người tiếp nhận phải suy nghĩ, liên tưởng mới
có thể hiểu được ý nghĩa của chúng. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người
cho rằng nhan đề là nội dung cô đọng, hàm súc, phản ánh trung thành nội dung
văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các đối tượng trình bày, có khi phản ánh
quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của
rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều
phải được rút ra, được khái quát từ chính nội dung văn bản.
Trong văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu có vinh dự là người “
thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất” ( Nguyên
Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học sau 1975. Trong nhà trường, hai tác
phẩm của Nguyễn Minh Châu đã được đưa bộ sách cải cách trước đây ( Bức
tranh ở cấp trung học cơ sở và Mảnh trăng cuối rừngở cấp trung học phổ
thông) và lần thay sách này, giáo viên và học sinh lại được tiếp cận hai tác
phẩm khác- Bến quê ở cấp trung học cơ sở và Chiếc thuyền ngoài xa ở trung
học phổ thông.
Hầu như các truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong chương trình
trung học phổ thông đều mang những nhan đề vừa cụ thể lại vừa có ý nghĩa
biểu tượng. Nếu nhưMảnh trăng cuối rừng vừa là một hình ảnh thực được miêu
tả trong truyện và trở đi trở lại nhiều lần, thành hình ảnh nổi bật và bao trùm
toàn bộ khung cảnh của câu chuyện, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho nữ nhân
vật chính- Nguyệt thì “ Chiếc thuyền ngoài xa” cũng có phần giống như thế
1- Chiếc thuyền ngoài xa là chiếc thuyền thực hay chiếc thuyền trong bức
ảnh nghệ thuật?

Truyện gồm 5 phần. Phần đầu nói về chiếc thuyền thực tại một vùng đầm phá
ven biển miền Trung và phần cuối hoàn toàn nói về chiếc thuyền trong bức ảnh
nghệ thuật, một trong 12 cảnh tĩnh vật thể hiện chủ đề thuyền và biển cho một
cuốn lịch năm mới.
Phần vào chuyện kể trọn vẹn sự cần thiết phải có bức ảnh. Nguyên là người
trưởng phòng của nhân vật “ tôi” ( tên là Phùng - nhân vật người kể
chuyện) “là người sâu sắc , lại cũng lắm sáng kiến”, anh ta đã đề xuất yêu cầu
“ Phải có một bộ sưu tập chuyên đề. 12 tháng là 12 bức ảnh nghệ thuật về
thuyền và biển. Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật”. Suốt năm tháng
ròng làm việc khá thông đồng bén giọt, tổ nhiếp ảnh nghệ thuật đã mang về
không biết cơ man nào là ảnh nhưng cũng chỉ có 11 bức được lọt vào cặp mắt
xanh của viên trưởng phòng “ sâu sắc nước đời”. Một bức ảnh thiếu hụt oái
oăm kia được trưởng phòng tin cẩn giao cho “ tôi” phải săn tìm cho được. Mà
là tấm ảnh chụp có “ sương biển” giữa mùa tháng bảy – dường như thường
“ chỉ có bão táp với biển động”. Thật là một vụ gieo trồng trái thời vụ vì “tôi”
quá biết “ Muốn lấy sương thì phải nghĩ đến từ tháng ba cơ!”.
Nhưng rồi “ khi nên trời cũng chiều người”, “ tôi” đã trở lại vùng biển chiến
trường xưa, cách Hà Nội sáu trăm cây số” và vác máy nằm “phục kích” ở chính
cái nơi mà “ dường như trong suốt dải bờ biển khắp cả nước, chỉ ở đây vào
giữa tháng bảy là còn sương mù”. Đây cũng còn là quê của một đồng đội cũ
của “ tôi”, giờ đang là Chánh án toàn án huyện. Thật là gồm đủ thiên thời , địa
lợi , nhân hoà”. Và “ tôi” đã bỏ qua nhiều cảnh có ‘ không khí vui nhộn hơi thô
lỗ và thật hùng tráng” để chớp lấy cái khoảnh khắc “ đắt” trời cho”. Đó là cảnh
“ trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền
in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút
màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn và trẻ con ngồi
im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào
bờ…”.
Nhà nghệ sĩ dạt dào một cảm hứng nghệ thuật, trải qua một khoảnh khắc yên-sĩ
–phi –lí thuần tuyệt diệu: “ toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều

hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và tòan bích khiến đứng trước nó tôi
trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? (…) . Trong giây
phút bối rối, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn
thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn.”. Và tuyệt tác
đã ra đời trong sự hưng phấn nghệ thuật - “ cái khoảnh khắc hạnh phúc tràn
ngập tâm hồn mình, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Rất
cần chú ý thành phần phụ chú “ do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa
mang lại” trong lời kể chuyện. Niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ chính là cái
hạnh phúc của khám phá và sáng tạo, của cảm nhận cái đẹp tuyệt diệu. Dường
như trong hình ảnh chiếc thuyền giữa biển mờ sương, anh đã bắt gặp cái tận
Thiện, tận Mĩ, thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh
khôi bởi cái đẹp hài hoà, lãng mạn của cuộc đời
Như thế , xét riêng về công vụ, nhiệm vụ của “tôi” lúc này đã hoàn thành.
“Tôi” đã có cảnh thuyền và biển trong sương đúng như đặt hàng của trưởng
phòng, mặc dù giữa mùa tháng bảy! Và ‘ tôi” đã có thể ung dung “ nhảy lên tàu
hoả trở về”. Nếu khéo liên hệ một tí, ta dễ thấy nếu như “ tôi” về ngay lúc đó
khác nào cô Nguyệt ( trong Mảnh trăng cuối rừng) xuống xe ở cầu Đá Xanh.
Phần đầu truyện như thế đủ cho người đọc biết xuất xứ của bức ảnh nghệ thuật
đặc sắc trên cuốn lịch năm mới kia ra đời thế nào. Và nếu nghĩ sâu xa hơn thì
cũng cần bấy nhiêu ấy cũng đủ cho bộ môn lí luận nghệ thuật khái quát về công
phu lao động của nghệ sĩ.
Phần kết truyện cho biết người trưởng phòng rất hài lòng với bức ảnh và bức
ảnh không chỉ có tuổi thọ ngang với một cuốn lịch năm mà “mãi mãi về sau,
tấm ảnh chụp vẫn còn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành
nghệ thuật”. Mở và kết truyện như vậy cho thấy, chiếc thuyền trong “ chiếc
thuyền ngoài xa” là chiếc thuyền vừa có thực trong đời , vừa là chiếc thuyền
trong bức ảnh nghệ thuật và nó cũng chính là một chi tiết nghệ thuật đắt,
không dễ trong đời cầm máy “ tôi” đã có được may mắn thứ hai.
2- Tại sao lại là “chiếc thuyền ngoài xa” ?
Theo dòng kể của ‘ tôi” rõ ràng chiếc thuyền được chụp trong một cự li tương

đối gần – “ một chiếc thuyền lưới vó…đang chèo thẳng vào trước mặt tôi”- nhà
nghệ sĩ nhìn rõ cả “những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng
vó”. Người thưởng thức bức ảnh thông thường chắc không ai không cảm nhận
chiếc thuyền đang được chụp trong một cự li gần như thế . Thế nhưng vì sao
tác giả lại đặt nhan đề truyện là “ chiếc thuyền ngoài xa”?
Trở lại luận điểm ban đầu về đầu đề văn bản : Nhan đề là nội dung cô đọng,
hàm súc, phản ánh trung thành nội dung văn bản. Có khi nhan đề phản ánh các
đối tượng trình bày, có khi phản ánh quan niệm, cách nhìn của tác giả đối với
đối tượng, có khi lại là sự kết hợp của rất nhiều nhân tố nhưng dù trong bất kì
trường hợp nào, tất cả các nhan đề đều phải được rút ra, được khái quát từ
chính nội dung văn bản. Nếu như nhan đề chỉ đơn thuần phản ánh các đối
tượng thì hẳn chiếc thuyền trong ảnh không phải là ngoài xa ! Phải chăng nhan
đề đó phản ánh cách nhìn của tác giả đối với đối tượng.
Thật vậy, theo yêu cầu của trưởng phòng , bức ảnh phải săn tìm lần này
“Không có người. Hoàn toàn thế giới tĩnh vật” nhưng bức ảnh chụp được lại có
‘ vài bóng người lớn lẫn trẻ con”. Như không sao, dù có người thì người cũng
chỉ “ ngồi im phăng phắc như tượng”!
Điều đáng nói là bức ảnh như thế đã ghi nhận được cái gì? Quả là một bức ảnh
đẹp được chụp từ một cự li khá gần nhưng cái cách tiếp cận “ thực tế”, tiếp cận
“ nguyên mẫu” như thế là cách tiếp cận từ xa vì nhà nghệ sĩ chỉ thu được
cái hình hài bên ngoài , cái thơ mộng bên ngoài của cảnh và người. Bởi vì
ngay sau khi nhà nghệ sĩ “ săn tìm” được cái đẹp trong cuộc đời để sáng tạo ra
cái đẹp nghệ thuật kia, thì anh ta đã phải chứng kiến một cảnh đời cay cực,
ngang trái mà không một người bình thường nào có thể ngoảnh mặt làm ngơ ,
nói chi đến nghệ sĩ vốn được coi là những con người đa cảm, đa mang!
Là nghệ sĩ và đã từng là một người lính , chứng kiến cảnh thằng con – Phác- vì
thương mẹ mà đánh lại cha, khi thì bằng chính chiếc thắt lưng của lính nguỵ mà
người cha của nó dùng để đánh mẹ nó , khi thì định dùng cả “ám khí” là một
con dao găm lận ‘ trong cạp quần đùi”, “ tôi” đã không khoanh tay ngồi nhìn vì
“ bất luận trong hoàn cảnh nào, tôi cũng không cho phép hắn đánh một người

đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo chio
hắn đánh” . Và hậu quả là ‘ tôi” đã bị thương vì người chồng kia chống trả
quyết liệt để tự vệ. Vậy cái cảnh thơ mộng đẹp đẽ mà “ tôi” thu được vào ống
kính Pratica và cái cái cảnh đời ngang trái mà trong tư cách cựu chiến binh “
tôi” đã chứng kiến và tham dự cái nào cận nhân tình hơn? Do đó ảnh chụp
chiếc thuyền thơ mộng kia chẳng phải là kết quả của lối tiếp cận hiện thực từ
xa ư? Chiếc thuyền ngoài xa được chụp trong cự li gần là với ý nghĩa như vậy
đó!
Chưa hết, do dưỡng thương và nể bạn nên “ tôi” nán lại thêm mấy hôm và
chính lần này “ tôi” mới vỡ ra mọi lẽ. Chứng kiến buổi làm việc giữa Đẩu –
người đồng đội cũ của “ tôi” , giờ là Chánh án toàn án huyện- và người phụ nữ
khốn khổ kia , ‘ tôi mới vỡ ra nhiều lẽ . Thì ra nếu chiếc thuyền chụp được là “
từ xa” thì cái cảnh “ tôi” chứng kiến cũng chỉ là bề nổi của cuộc đời gia đình
nhà chài nọ. Vì sao người phụ nữ phải cam chịu một bề, không chống trả những
trận “đòn chồng” và cũng không chịu li dị, hiểu theo nghĩa nào đó là không
chịu “ giải phóng” mình. Cái lí do chị đưa ra đã đưa hai người cựu chiến binh
tốt bụng – một là một nghệ sĩ, một được mệnh danh là một Bao công- đi từ
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác:
-“ Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng
các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu
có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ , khó nhọc…”
- “ Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão ách tôi ra đánh, cũng như đàn ông
thuyền khác uống rượu. giá mà lão uống rượu…thì tôi còn đỡ khổ…Sau này
con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”

×