Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

LUẬN VĂN: Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Nghệ An - Thực trạng và giải pháp pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.07 KB, 74 trang )











LUẬN VĂN:


Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Nghệ
An - Thực trạng và giải pháp











LỜI NÓI ĐẦU

Học sinh, sinh viên là những chủ nhân tương lai, là thế hệ tương lai của đất
nước. Họ cần phải được bảo đảm một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương thực hiện các công tác nhằm mục đích bảo vệ và


chăm sóc cho thế hệ trẻ một cách toàn diện và coi đó như là trách nhiệm và nghĩa vụ to lớn
của toàn xã hội. Nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh (BHHS) được các Công ty bảo hiểm triển
khai cũng nhằm mục đích đó. Kể từ khi triển khai (năm học 1985-1986), BHHS đã góp
phần quan trọng vào việc bù đắp các tổn thất tài chính do tai nạn xảy ra đối với học sinh
giúp các em nhanh chóng khắc phục được những khó khăn để sớm trở lại học tập bình
thường. Bảo hiểm toàn diện học sinh, sinh viên đã trở thành nhu cầu thiết thực trong cuộc
sống hàng ngày và có ý nghĩa to lớn đối với toàn xã hội.
Việc nghiên cứu đề tài “Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Nghệ An. Thực trạng và
giải pháp” sẽ góp phần giúp các sinh viên chuyên ngành Bảo hiểm hiểu rõ hơn các tồn tại
và hạn chế của việc triển khai nghiệp vụ BHHS tại Bảo Việt Nghệ An (BVNA) từ đó tìm
ra các giải pháp khắc phục. Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài này làm đề tài nghiên cứu cho
chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình.
Chuyên đề được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về Bảo hiểm học sinh.
Chương II: Thực trạng triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh tại Bảo Việt Nghệ An.
Chương III: Kết quả đạt được và một số tồn tại của nghiệp vụ Bảo hiểm học sinh tại
Bảo Việt Nghệ An.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù có nhiều sự cố gắng song không tránh khỏi những
sai lầm thiếu sót nhất định. Vì vậy tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy
giáo cùng bạn bè nhằm làm hoàn thiện hơn chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.






CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM HỌC SINH.

I.Sự cần thiết khách quan và tác dụng của Bảo hiểm học sinh.
1.Sự cần thiết của Bảo hiểm học sinh.

Nước ta hiện nay có một hệ thống giáo dục thống nhất trong cả nước gồm nhiều cấp
học và trình độ đào tạo, phương thức đào tạo đa dạng với hơn 20 triệu học sinh phổ thông,
sinh viên đại học, cao đẳng và học sinh học nghề. Các em luôn được sống trong vòng tay
yêu thương của gia đình, nhà trường và xã hội, luôn được tạo điều kiện tốt nhất để tự do
phát triển về thể lực, chí lực. Tuy vậy trong cuộc sống hàng ngày, các em cũng không thể
tránh khỏi những nguy cơ như ốm đau, bệnh tật. Mặt khác nhận thức của các em ở lứa tuổi
này còn chưa hoàn thiện, thiếu sự hiểu biết về pháp luật, chưa đủ khả năng để tự bảo vệ
mình nên thường hành động thiếu suy nghĩ, chưa ý thức được cái tốt cái xấu, dễ bị lôi kéo
với trò chơi nguy hiểm mà không lường trước được hậu quả của nó. Vì vây, ở lứa tuổi học
sinh nguy cơ xảy ra rủi ro thường cao hơn so với các lứa tuổi khác.
Khi không may xảy ra rủi ro, trẻ em cần được sự chăm sóc, chữa trị để sớm hồi phục
sức khoẻ, nếu không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của trẻ em. Trong khi đó, chi
phí chăm sóc này đôi khi rất lớn mà không phải gia đình nào cũng có được. Thực tế, nhiều
trường hợp vì không đủ tiền cứu chữa nên đã để lại những di chứng suốt đời, huỷ hoại
tương lai của các em .Vì vậy, vấn đề đặt ra mà bất kì xã hội nào cũng cần phải quan tâm là
làm thế nào để khắc phục những hậu quả khi xảy ra rủi ro và để đảm bảo cuộc sống cho
các em. Theo thống kê, ở nước ta hiện nay số lượng học sinh chiếm khoảng 20% dân số cả
nước. Đây chính là nguồn nhân lực, nguồn hy vọng của đất nước trong sự nghiệp phát triển
kinh tế xã hội. Việc chăm sóc giáo dục và bảo vệ các em là nghĩa vụ quan trọng mà Đảng
và Nhà nước ta đã xác định “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng
người”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy vì điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn nên đã ảnh
hưởng đến chất lượng giáo dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em. Cụ thể, hiện có rất ít khu vui
chơp giải trí giành riêng cho trẻ. Ở thành phố có hiện tượng các em rủ nhau đá bóng trên
vỉa hè vi phạm nghiêm trọng luật an toàn giao thông. Ở nông thôn học sinh thường rủ nhau
chơi những trò rất nguy hiểm như tắm sông, trèo cây Những việc đó đe doạ nghiêm trọng

đến tính mạng và sức khỏe của các em, và thực tế đã gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc. Bên
cạnh đó, việc quan tâm chăm sóc của gia đình và nhà trường đối với các em còn nhiều hạn
chế. Thực trạng này đã làm tăng khả năng xảy ra rủi ro với các em học sinh. Đặc biệt trong
những năm gần đây theo thống kê cho thấy số vụ tai nạn của học sinh ngày càng có xu

hướng tăng lên.
. Để khắc phục những hậu quả trên, Nhà nước và xã hội đã tiến hành nhiều biện pháp để
giúp đỡ như cứu trợ một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cho những hoàn cảnh
đặc biệt, kêu gọi sự giúp đỡ của các cá nhân, đoàn thể Sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ
chức xã hội là rất cần thiết nhưng nó chỉ mang tính tức thời và không thể đáp ứng hết nhu
cầu của các em. Hơn nữa để nhận được sự hỗ trợ này đôi khi cần nhiều thời gian nên
không đáp ứng được nhu cầu cấp bách trong trường hợp xảy ra rủi ro với các em mà cần
được điều trị ngay. Để khắc phục các nhược điểm của các biện pháp trên, Bảo hiểm toàn
diện học sinh đã ra đời. Với một số tiền nhỏ khi tham gia bảo hiểm nếu xảy ra tai nạn thì
học sinh đó sẽ được trợ cấp một phần hoặc toàn bộ chi phí chăm sóc sức khoẻ từ phía các
công ty bảo hiểm. Như vậy sẽ đảm bảo được hưởng những quyền lợi chính đáng trong việc
chăm sóc hồi phục sức khoẻ khi không may xảy ra tai nạn. Đây là biện pháp rất tích cực và
đạt hiệu quả cao, nó vừa mang tính chủ động lại có phạm vi rộng lớn vì không giới hạn đối
với bất kỳ học sinh nào. Hơn nữa việc giải quyết hậu quả khi xảy ra tai nạn lại được tiến
hành nhanh chóng. Có thể nói, thực hiện BHHS vừa đáp ứng nhu cầu thiết thực trong cuộc
sống hàng ngày của học sinh, sinh viên, vừa là một trong những giải pháp hữu hiệu huy
động nguồn lực tài chính để chăm lo phát triển giáo dục toàn diện. BHHS góp phần ổn
định sinh hoạt, học tập của các em trước những rủi ro bất ngờ, đồng thời góp phần xây
dựng ý thức cộng đồng trong học sinh, sinh viên.
Như vậy sự ra đời của BHHS là một tất yếu khách quan để bảo đảm cho mọi học sinh
đều nhận được sự chăm sóc cần thiết khi không may gặp phải rủi ro. BHHS là phương
thức thiết thực nhất bảo đảm sức khoẻ, tính mạng cho các em, là người bạn, người bảo vệ
đắc lực cho an toàn của các em.

2.Tác dụng của Bảo hiểm học sinh.
a.Đối với học sinh, sinh viên và gia đình các em.
Như đã nói ở trên BHHS là sự đảm bảo về quyền lợi cho các em theo Công ước quốc tế
và luật chăm sóc giáo dục trẻ em. Vì vậy, BHHS trước hết là để khắc phục cho lợi ích của
chính các em, điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Việc tham gia bảo hiểm giúp các em và gia đình có nguồn tài chính phục vụ việc chăm

sóc, phục hồi sức khoẻ khi bị tai nạn, ốm đau bệnh tật để nhanh chóng trở lại học tập. Chỉ
một số tiền đóng phí nhỏ nhưng khi có rủi ro xảy ra các em sẽ được công ty bảo hiểm trả
tiền gấp nhiều lần để trang trải các chi phí y tế và từ đó các em sẽ có điều kiện được chăm
sóc tốt.
Tham gia BHHS giúp các em nâng cao ý thức cộng đồng, giáo dục cho các em tinh
thần tương thân tương ái lá lành đùm lá rách của dân tộc Việt Nam.
Các em sẽ được học hỏi, nâng cao kiến thức trong việc đề phòng những rủi ro do công
ty bảo hiểm phối hợp cùng với nhà trường phổ biến.
Đối với gia đình các em học sinh, trước hết BHHS là công cụ hữu ích giúp các gia đình
ổn định về mặt tài chính. Vì phải trang trải những chi phí phát sinh như chi phí thuốc men,
chi phí nằm viện phẫu thuật, bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho các em trong khi thu nhập
của gia đình không đổi, thậm chí là giảm sút do phải nghỉ việc để chăm sóc cho con cái
nên đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế gia đình, nhất là đối với những gia đình khó
khăn. Trong khi đó, nếu tham gia bảo hiểm thì sẽ được các công ty bảo hiểm chi trả phần
lớn hoặc toàn bộ các chi phí này. Nhờ đó mà các gia đình sẽ ổn định về mặt tài chính yên
tâm chăm sóc con cái và yên tâm làm việc. Ngoài ra thông qua BHHS các bậc phụ huynh
sẽ có điều kiện để chăm sóc con cái tốt hơn vì được công ty bảo hiểm phổ biến kiến thức
phòng tránh tai nạn cho các em học sinh.
b. Đối với nhà trường và xã hội.
Bảo hiểm giúp học sinh có điều kiện nhanh chóng ổn định sức khoẻ để trở lại hoạt
động, làm cho việc học tập của các em ít bị gián đoạn và công tác giảng dạy của nhà
trường được đảm bảo đúng kế hoạch. Qua BHHS nhà trường được trang bị thêm các kiến
thức về phòng tránh, giảm thiểu rủi ro cho học sinh. Đồng thời nhà trường có thể phối hợp
với các bậc phụ huynh và công ty bảo hiểm mở thêm các lớp ngoại khoá để giáo dục các

em ý thức bảo vệ mình, nhờ đó mà chương trình giảng dạy của nhà trường sẽ được phong
phú hơn, giúp nhà trường tạo được sự tin cậy và nâng cao uy tín của mình với các bậc phụ
huynh. Bên cạnh đó, sau khi thu phí bảo hiểm công ty bảo hiểm sẽ trích một phần phí bảo
hiểm để lại trường. Phí này được sử dụng vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất như mua
sắm các trang thiết bị y tế, sách báo, thuốc men giúp nhà trường giảm bớt được những chi

phí này.
Đối với xã hội, BHHS góp phần quan trọng trong công tác xã hội hoá giáo dục với mục
tiêu chuẩn bị cho thế hệ tương lai một nền tảng vững chắc về sức khoẻ và tri thức khoa
học. Thực hiện BHHS là biện pháp thiết thực trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực
của Đảng và Nhà nước ta. Cũng như các loại hình bảo hiểm khác, khi triển khai nghiệp vụ
BHHS, Công ty bảo hiểm sẽ thu một khoản phí bảo hiểm (thường là rất nhỏ) của từng em
để lập nên một quỹ tiền tệ lớn. Quỹ này dùng để chi trả bồi thường cho các em học sinh
khi không may gặp phải rủi ro. Tuy nhiên, do bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc số đông
bù số ít nên số phí bảo hiểm thu được từ các em học sinh không phải bao giờ cũng được
chi trả hết. Vì vậy luôn có một khoản tiền nhàn rỗi từ quỹ chưa sử dụng đến. Khoản tiền
nhàn rỗi này sẽ được đem đi đầu tư dưới nhiều phương thức khác nhau để phát triển kinh
tế, xã hội của đất nước.
3. Đặc điểm của bảo hiểm học sinh.
BHHS là một loại hình bảo hiểm tự nguyện do các doanh nghiệp bảo hiểm tiến hành bắt
đầu từ năm 1986 dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) chỉ tiến hành
cho các em khi đang học tại trường với mức phí bảo hiểm là 1000-2000đ/ học sinh tương
ứng với số tiền bảo hiểm tối đa khoảng 1.000.000đ/người.
BHHS là loại hình bảo hiểm có tác dụng trợ giúp tài chính cho các học sinh khi gặp rủi
ro do tai nạn hoặc các rủi ro khác; đồng thời góp phần chăm sóc sức khỏe toàn diện cho
học sinh vừa dựa trên tính cộng đồng của đông đảo học sinh, vừa dựa trên tính năng động
chủ quan của DNBH.
Đối tượng tham gia của BHHS là các em học sinh ở mọi cấp học từ nhà trẻ, mẫu giáo,
tiểu học, THCS, THPT đến các sinh viên đại học, cao đẳng có nhu cầu tham gia bảo hiểm.
Thời gian bảo hiểm của BHHS thường là một năm trở xuống.

Cũng giống như các loại hình bảo hiểm con người khác, Bảo hiểm học sinh chỉ có tính
rủi ro chứ không có tính tiết kiệm.
Trong hợp đồng BHHS, người tham gia có thể lựa chọn nhiều hình thức tham gia bảo
hiểm theo các điều kiện bảo hiểm khác nhau. Mỗi hình thức sẽ tương ứng với một mức phí
khác nhau.

4. Sự khác nhau giữa bảo hiểm học sinh và bảo hiểm y tế học sinh.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng nâng cao thì nhu cầu về bảo
hiểm lại rất lớn. BHHS của các công ty bảo hiểm thương mại, BHYTHS thực hiện tại Bảo
hiểm xã hội Việt Nam đều là những loại hình bảo hiểm con người có đối tượng tham gia là
các em học sinh ở các cấp học có nhu cầu tham gia và đều hoạt động trên nguyên tắc số
đông và tự nguyện. Tuy nhiên BHHS, BHYTHS có những nét khác nhau cơ bản sau:
+Về mục đích hoạt động: BHHS hoạt động với mục đích chính là kinh doanh vì mục
tiêu lợi nhuận và phải đóng thuế cho Nhà nước. Còn BHYTHS lại mang tính chất nhân
đạo, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, dựa trên nguyên tắc cân bằng thu chi và
không phải đóng thuế cho Nhà nước.
+ Về việc đóng phí bảo hiểm: Đối với BHHS, các doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra nhiều
mức phí khác nhau cho người tham gia tự chọn lựa theo khả năng tài chính của mình. Do
đó, cùng một loại đối tượng có thể có nhiều mức phí tham gia bảo hiểm khác nhau. Còn
đối với BHYTHS, có quy định mức phí cụ thể cho cùng một loại đối tượng tham gia theo
từng địa phương, từng cấp học.
+Về quyền lợi: Đối với BHHS, do mức phí tham gia của các học sinh không giống
nhau trong từng địa phương và từng cấp học nên khi rủi ro xảy ra người được bảo hiểm sẽ
nhận được số tiền bảo hiểm căn cứ vào tỷ lệ thương tật và điều kiện bảo hiểm ghi trong
hợp đồng . Còn BHYTHS, do mức phí tham gia của học sinh ở từng địa phương, cấp học
là như nhau nên mức hưởng của các đối tượng này là như nhau. BHXHVN đều chi trả
80% số tiền điều trị không giới hạn về số ngày điều trị và số tiền tối đa mỗi đợt điều trị.
+ Về hiệu quả hoạt động: nghiệp vụ BHHS ở các công ty bảo hiểm thương mại nếu
hoạt động không hiệu quả dẫn đến việc thua lỗ thì các công ty phải tự chịu. Hàng năm, các
công ty này phải chịu sự quản lý của Nhà nước theo pháp luật và phải thực hiện các nghiệp
vụ theo đúng trình tự kinh doanh bảo hiểm mà luật kinh doanh bảo hiểm đã quy định. Còn

BHYTHS tại Bảo hiểm xã hội Việt Nam do Nhà nước quản lý thống nhất và hỗ trợ.
BHYTHS không chịu sự điều tiết của luật kinh doanh bảo hiểm và có chế độ quản lý riêng.
II. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm học sinh.
1.Các bên liên quan trong Bảo hiểm học sinh.

BHHS có đối tượng bảo hiểm là các học sinh, sinh viên đang theo học tại tất cả các
trường nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, các trường đại
học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học sinh học nghề. Trong đó:
a.Người tham gia bảo hiểm.
Người tham gia bảo hiểm là người có yêu cầu bảo hiểm và trực tiếp hoặc thông qua nhà
trường giao kết hợp đồng với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm.
b.Người được bảo hiểm.
là tất cả mọi học sinh từ nhà trẻ, mẫu giáo đến các sinh viên đại học.
c. Người hưởng quyền lợi bảo hiểm.
là người được chỉ định nhận tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm, hoặc là người thừa
kế theo pháp luật trong trường hợp không có chỉ định.
2.Phạm vi bảo hiểm.
Trong BHHS, phạm vi bảo hiểm chỉ là những rủi ro xảy ra trong lãnh thổ Việt Nam
bao gồm các trường hợp sau:
+ Bị chết trong mọi trường hợp.
+ Bị tai nạn thương tật.
+ Ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị và phẫu thuật.
Người tham gia bảo hiểm có thể lựa chọn hai hay nhiều điều kiện bảo hiểm sau:
● Điều kiện bảo hiểm A: bảo hiểm cho trường hợp ốm đau, bệnh tật.
● Điều kiện bảo hiểm B: bảo hiểm cho trường hợp chết hoặc thương tật thân thể do tai
nạn.
● Điều kiện bảo hiểm C: bảo hiểm cho trường hợp phẫu thuật do ốm đau bệnh tật.
●Điều kiện bảo hiểm D: bảo hiểm cho trường hợp ốm đau, bệnh tật, thương tật thân thể
do tai nạn.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp sau đây không thuộc phạm vi bảo hiểm:
+ Học sinh đến tuổi thành niên bị chết do tự tử, tiêm chích ma tuý

+ Do hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hay người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm (Trừ những người được bảo hiểm ở tuổi vị thành niên).
+ Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh bẩm sinh, chỉnh hình, thẩm mỹ, làm chân tay giả,

răng giả
+ Chiến tranh, phóng xạ
3.Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm.
a.Số tiền bảo hiểm.
Số tiền bảo hiểm là số tiền được ghi trong hợp đồng bảo hiểm của người được bảo
hiểm trên cơ sở lợi ích bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm chẳng những phải có đối tượng bảo
hiểm rõ ràng, mà còn phải đánh giá về đối tượng bảo hiểm đó và dựa vào sự đánh giá đó
để quyết định số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm là mức trách nhiệm cao nhất của doanh
nghiệp bảo hiểm trong việc bồi thường tổn thất hoặc trả tiền bảo hiểm và cũng là cơ sở để
tính phí bảo hiểm. Như vậy số tiền bảo hiểm là hạn mức trách nhiệm của các công ty bảo
hiểm. Đây là cơ sở quan trọng để xác định số tiền bồi thường. Đối với nghiệp vụ BHHS
hiện nay số tiền bảo hiểm dao động trong khoảng 1.000.000 đến 10.000.000đồng/người.
Trong thực tế hạn mức trách nhiệm mà học sinh tham gia phổ biến hiện nay khoảng từ
4.000.000 đến 6.000.000 đồng/người.
b. Phí bảo hiểm.
Phí bảo hiểm là khoản chi phí của người tham gia bảo hiểm trả cho doanh nghiệp bảo
hiểm để trả giá việc doanh nghiệp bảo hiểm chịu trách nhiệm đảm bảo bằng hình thức bảo
hiểm theo sự thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Do đó phí bảo hiểm là khoản tiền của
người tham gia bảo hiểm chi ra để đổi lấy trách nhiệm bảo hiểm của doanh nghiệp bảo
hiểm. Phí bảo hiểm phải nộp nhiều hay ít là do số tiền bảo hiểm, tỷ lệ phí bảo hiểm và thời
hạn bảo hiểm quyết định. Phí bảo hiểm có thể nộp một lần cũng có thể nộp nhiều lần theo
định kỳ.
Việc xác định mức phí bảo hiểm hợp lý là yếu tố quan trọng quyết định đến thành công
của công ty bảo hiểm. Mức phí bảo hiểm phải được xác định để có thể vừa đảm bảo đủ để
chi trả bồi thường, lại vừa đem lại một phần lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm. Nếu để
mức phí quá thấp thì có thể dẫn đến hiện tượng thu không đủ bù chi, làm ảnh hưởng đến

doanh thu và lợi nhuận của công ty. Ngược lại nếu mức phí qúa cao lại ảnh hưởng đến khả
năng cạnh tranh của công ty bảo hiểm trên thị trường đồng thời khó thu hút khách hàng.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến phí bảo hiểm: xác suất rủi ro, tỷ lệ bồi thường, chi

phí quản lý, chi hoa hồng Do đó khi tính phí bảo hiểm cần phải tính đến đầy đủ các yếu
tố trên.
Để tính toán hợp lý phí bảo hiểm người ta sử dụng các cách sau:
* Phí bảo hiểm được xác định bởi hai nhân tố là phụ phí và phí thuần:
P=d+f
Trong đó : P: phí bảo hiểm
d:phụ phí
f: phí thuần
Phí thuần f được xác định theo công thức sau:
∑C
i
+∑T
i

f

= ——————
∑L
i
Trong đó:
Ci: Số tiền trả cho người bị tai nạn và sau đó bị chết năm thứ i
Ti: Số tiền trả cho những người bị thương tật năm thứ i
Li: Số người tham gia bảo hiểm học sinh
Phụ phí d bao gồm:
-Chi cho hoạt động quản lý của công ty bảo hiểm, thông thường từ 5% - 15%
-Chi trích quỹ dự trữ, đề phòng hạn chế tổn thất
-Khoản thuế mà công ty phải nộp
-Các khoản khác
* Phí bảo hiểm được xác định dựa trên số tiền bảo hiểm:
Phí bảo hiểm= Tỷ lệ phí * Số tiền bảo hiểm

Trong thực tế triển khai bảo hiểm học sinh, hầu hết các công ty bảo hiểm trong đó có
Bảo Việt thường áp dụng cách tính phí theo tỷ lệ và số tiền bảo hiểm.
4. Hợp đồng bảo hiểm.
4.1. Nội dung của hợp đồng bảo hiểm.

Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ có trong hợp đồng đó. Nội dung của tất cả các loại hợp đồng đều là mối quan hệ
về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể hợp đồng, hợp đồng BHHS cũng không ngoại lệ
đó. Khi có yêu cầu bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm có thể trực tiếp hoặc thông qua nhà
trường đóng phí bảo hiểm cho công ty bảo hiểm. Công ty bảo hiểm trên cơ sở danh sách
học sinh đã đóng phí bảo hiểm sẽ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm cho học sinh.
4.2. Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm.
Hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm học sinh được quy định tuỳ theo từng loại điều kiện
bảo hiểm cụ thể như sau:
- Điều kiện bảo hiểm A: hợp đồng bảo hiểm theo loại này có hiệu lực sau 30 ngày, kể từ
ngày đóng phí bảo hiểm. Những hợp đồng tái tục mặc nhiên có hiệu lực ngay sau khi
người tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho thời hạn tiếp theo.
- Điều kiện bảo hiểm B: Hợp đồng bảo hiểm loại này có hiệu lực ngay sau khi người
tham gia bảo hiểm hoàn thành thủ tục đóng phí bảo hiểm theo quy định.
- Điều kiện bảo hiểm C: Hợp đồng bảo hiểm loại này có hiệu lực sau 30 ngày kể từ ngày
đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo quy định.
- Điều kiện bảo hiểm D: Hợp đồng bảo hiểm loại này có hiệu lực ngay sau khi đóng phí
bảo hiểm đối với trường hợp tai nạn hoặc hợp đồng tái tục liên tục.
4.3. Huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm.
Trường hợp hai bên đề nghị huỷ bỏ hợp đồng bảo hiểm, bên yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng
phải thông báo bằng văn bản cho bên kia biết trước 30 ngày kể từ ngày định huỷ bỏ. Nếu
hợp đồng được hai bên thoả thuận huỷ bỏ, Bảo Việt sẽ hoàn trả 80% phí bảo hiểm của
thời gian còn lại với điều kiện đến thời điểm đó hợp đồng bảo hiểm này chưa có lần nào
được Bảo Việt chấp nhận trả tiền bảo hiểm.
5. Thời hạn bảo hiểm.

Thời hạn bảo hiểm là một năm, trừ trường hợp có thoả thuận khác với công ty bảo
hiểm.
6. Trách nhiệm của các bên khi tham gia bảo hiểm.
a. Trách nhiệm của công ty bảo hiểm.

Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ BHHS, trên cơ sở nghiêm chỉnh tuân theo Luật kinh
doanh bảo hiểm đã quy định, doanh nghiệp bảo hiểm phải có trách nhiệm cụ thể như sau:
- Triển khai tới các trường và các cơ quan khác có liên quan những quy định của Nhà
nước về nội dung, phạm vi BHHS, quyền lợi của người mua bảo hiểm, thủ tục bảo hiểm
và trả tiền bảo hiểm.
- Cung cấp cho các trường những văn bản pháp lý và quy tắc bảo hiểm có liêb quan đến
chế độ bảo hiểm toàn diện học sinh, sinh viên.
- Tổ chức mạng lưới đại lý rộng rãi, thuận tiện cho việc thu và chuyển phí bảo hiểm.
- Thanh toán tiền hoa hồng cho các trường hoặc đại lý theo quy định của Bộ Tài chính
ngay sau khi nhận được phí bảo hiểm.
- Trả tiền bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn cho học sinh, sinh viên khi xảy ra trường hợp
thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
- Phối hợp cùng với nhà trường tuyên truyền phổ biến rộng rãi quyền lợi của người được
bảo hiểm.
- Phối hợp với nhà trường làm tốt công tác đề phòng hạn chế rủi ro tai nạn.
b.Trách nhiệm của bên tham gia bảo hiểm.
Khi tham gia BHHS, người tham gia bảo hiểm cần có trách nhiệm sau:
- Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thoả thuận trong hợp đồng
bảo hiểm.
- Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu
cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách
nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu
cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thoả thuận

trong hợp đồng bảo hiểm.
- Áp dụng các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất theo quy định của Luật này và các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

Khi tham gia BHHS, trên cơ sở tuân theo luật kinh doanh bảo hiểm đã quy định trên
đây, người tham gia bảo hiểm phải áp dụng các biện pháp cần thiết và có thể thực hiện để
cứu chữa nạn nhân trong trường hợp xảy ra rủi ro được bảo hiểm. Người được bảo hiểm
phải trung thực trong việc khai báo và cung cấp các chững từ chính xác về rủi ro được bảo
hiểm.
Đối với các trường học cần có trách nhiệm cụ thể như sau:
- Phối hợp với các công ty bảo hiểm phổ biến chế độ BHHS cho các em và phụ huynh
học sinh của trường; vận động học sinh, sinh viên và gia đình họ tích cực tham gia BHHS.
- Giới thiệu cán bộ làm đại lý cho công ty bảo hiểm. Đại lý có trách nhiệm lập danh sách
học sinh, sinh viên và thu phí bảo hiểm của học sinh, sinh viên theo những thoả thuận của
công ty bảo hiểm.
- Chỉ đạo các bộ phận chức năng và đại lý hướng dẫn cho học sinh, sinh viên kê khai
trung thực và đầy đủ các khoản mục quy định trong giấy yêu cầu bảo hiểm, ký hợp đồng
bảo hiểm và chuyển phí bảo hiểm thu được cho công ty bảo hiểm theo đúng quy định.
- Khi học sinh, sinh viên của trường bị tai nạn, ốm đau, nằm viện điều trị, phẫu thuật,
chết thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm, nhà trường cần đôn đốc các bộ phận chức
năng và đại lý nhanh chóng làm các thủ tục cần thiết theo mẫu hướng dẫn của công ty bảo
hiểm để giúp học sinh, sinh viên hoặc gia đình các em sớm nhận được tiền bảo hiểm.
IV. Quy trình khai thác Bảo hiểm học sinh.
1. Công tác khai thác.
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác, trong bảo hiểm toàn diện học sinh công tác
khai thác là công tác quan trọng hàng đầu, quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp.
Một nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm là hoạt đông theo nguyên tắc số đông, phí bảo hiểm
từ rất nhiều người tham gia sẽ được tập hợp lại tạo nên quỹ tiền tệ tập trung. Từ quỹ này
mới đem bồi thường cho một số ít những người không may gặp rủi ro. Công tác khai thác

quyết định số khách hàng tham gia bảo hiểm, càng thực hiện tốt công tác này thì số lượng
khách hàng tham gia càng lớn. Từ đó sẽ tạo nên quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn để đảm bảo
vừu chi trả bồi thường, chi đề pjhòng hạn chế tổn thất, ch quản lý lại vừa đảm bảo cho
doanh nghiệp có khoản lợi nhuận hợp lý. Bởi vậy trong công tác khai thác doanh nghiệp

bảo hiểm cần phải có các giải pháp hợp lý để từ đó thu hút được số lượng đông đảo học
sinh, sinh viên tham gia boả hiểm.
Thông thường công tác khai thác được tiến hành theo các bước:
+Lập kế hoạch khai thác trong kỳ. Vì bất cứ công việc nào muốn có được kết quả tốt thì
cần có kế hoạch từ trước, kế hoạch khai thhác đưa ra các chỉ tiêu phấn đấu trong kỳ, đồng
thời nó còn là cơ sở để đánh giá kết quả thực hiện của công tác sau này.
+ Xây dựng các biện pháp khai thác. Để có thể thực hiện được các mục tiêu đặt ra thì
cần phải có các biện pháp thích hợp, muốn vậy công ty cần nghiên cứu đưa ra các biện
pháp từ trước.
+ Thực hiện các biện pháp khai thác: là quá trình đưa ra các biện pháp ở trên vào thực tế
triển khai.
+ Đánh giá kết quả thực hiện được: đựa vào kết quả khai thác này, công ty bảo hiểm sẽ
đối chiếu với các kế hoạch từ đầu kỳ, từ đó thấy được mặt tích cực cũng như những tồn tại
làm cơ sở hoạch định kế hoạch khai thác kì sau.
BHHS thường được tiến hành vào đầu năm học. Do vậy cứ vào thời điểm này thì hầu
hết các công ty đều dốc hết nguồn lực của mình tập trung vào khâu khai thác để đạt được
kết qủa cao.
Cũng giống như các nghiệp vụ khác, để công tác khai thác của bảo hiểm học sinh đạt
kết quả tốt, các công ty bảo hiểm đều phải xây dựng cho mình một quy trình khai thác
riêng. Quy trình khai thác đó có thể thực hiện như sau:
● Nhận thông tin từ phía khách hàng.
● Đánh giá rủi ro.
● Xem xét hợp đồng.
● Đàm phán chào phí.
● Chấp nhận bảo hiểm.

● Cấp đơn thu phí bảo hiểm.
● Theo dõi thu phí và tiếp nhận giải quyết mới.
2. Công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Do dặc thù riêng của ngành bảo hiểm, công tác đề phòng hạn chế tổn thất có vai trò rất
quan trọng, càng làm tốt công tác này thì chi phí lớn nhất của ngành bảo hiểm là chi bồi

thường sẽ càng ít. Do đó lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh của công ty càng cao. Mặc dù chỉ
bảo hiểm cho những rủi ro mang tính bất ngờ, ngẫu nhiên, nhưng chúng ta cũng có thể tác
động làm giảm khả năng xảy ra những rủi ro đó. Đối với BHHS thì biện pháp đề phòng
giáo dục tốt nhất là làm sao để các em tự nhận thức được các mối nguy hiểm, ý thức được
hành động của mình. Để làm được điều đó công ty bảo hiểm cần phối hợp hoạt động tốt
với gia đình và nhà trường, thường xuyên nhắc nhở các em phải chú ý chăm sóc sức khoẻ
của mình, từ đó hạn chế được nguy cơ xảy ra rủi ro.
Vì vậy để đề phòng kiểm soát tổn thất các doanh nghiệp bảo hiểm thường thực hiện theo
các bước:
● Khảo sát điều tra thực tế, thu thập các thông tin có liên quan đến đối tượng được bảo
hiểm, đến đặc điểm các loại rủi ro. Đánh giá các cam kết của khách hàng tham gia bảo
hiểm. Sau đó lập thành văn bản chi tiết mô tả các thông tin qua điều tra khảo sát để báo
cáo lên cấp trên. Như vậy DNBH mới có thể đưa ra các khuyến nghị, đề xuất giúp khách
hàng loại trừ được các rủi ro có thể gây tổn thất.
● Phân tích và tư vấn cho khách hàng trong công tác quản lý rủi ro.
●Thực hiện chương trình quản lý rủi ro .
Để thực hiện công tác đề phòng hạn chế tổn thất, các doanh nghiệp bảo hiểm thường
phối hợp với các cơ quan chức năng, các trường học, các tổ chức có liên quan thực hiện
tuyên truyền, xây dựng ý thức trách nhiệm cho học sinh, sinh viên; thực hiện các chế độ
khen thưởng nhằm khuyến khích mọi thành viên tham gia vào công tác đề phòng hạn chế
tổn thất. Thông thường các doanh nghiệp bảo hiểm thường:
+ Phối hợp gia đình, ban giám hiệu nhà trường, các thầy cô hướng dẫn các em học sinh
tham gia những hoạt động vui chơi giải trí lành mạnh, đề ra thời gian biểu cho các em học
tập, vui chơi ở nhà và trường học. Nghiêm cấm chơi các trò nguy hiểm như đua xe, trèo

cây cao, chơi bóng ở vỉa hè hay lòng đường
+ Phổ biến cho các em học sinh kiến thức về chăm sóc sức khoẻ, luạt lệ an toàn giao
thông, cấp kinh phí cho nhà trường dùng để mua thuốc men, sách báo về chăm sóc sức
khoẻ, khuyến khích các trường thành lập hội chữ thập đỏ hướng dẫn học sinh phòng bệnh
và chữa bệnh.

+ Tổ chức hội nghị cha mẹ học sinh vào các dịp thích hợp để kết hợp giữa gia đình, nhà
trường, công ty tìm ra các biện pháp phòng ngừa hạn chế tai nạn.
+ Phối hợp với cảnh sát giao thông công cộng, cac cơ quan truyền hình báo chí tuyên
truyền luật lệ an toàn giao thông cho các em, xây dựng biển báo, áp phích ở cổng trường
hay các đoạn đường dễ xảy ra tai nạn nhằm nhắc nhở các em chú ý khi tham gia giao
thông. Tổ chức hoặc hỗ trợ tổ chức các cuộc thi tìm hiểu luật lệ an toàn giao thông, hình
thành ý thức cho các em học sinh biết cách tự bảo vệ tính mạng và sức khoẻ cho bản thân
mình.
+ Khuyến khích khen thưởng kịp thời cho những đơn vị nào làm tốt công tác đề phòng
hạn chế tổn thất.
3. Công tác giám định.
Giám định tổn thất là một trong những công việc cơ bản của công ty bảo hiểm. Thông
qua giám định người ta nắm được mức độ thiệt hại khi rủi ro xảy ra, từ đó làm cơ sở để xác
định số tiền bồi thường. Đồng thời thông qua giám định công ty bảo hiểm còn phát hiện
được hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm để có biện pháp xử lý. Làm tốt công tác
giám định giúp doanh nghiệp bảo hiểm dễ dàng thực hiện các bước tiếp theo là bồi thường
tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm .Vì mặc dù trong BHHS việc giám định tổn thất
không khó khăn như các nghiệp vụ bảo hiểm khác nhưng cũng không thể xem nhẹ, bỏ qua
. Bởi trong thực tế những trường hợp gian lận trục lợi bảo hiểm vẫn xảy ra.
Thông thường quy trình giám định tổn thất thường được thực hiện như sau:
+ Sau khi nhận được hồ sơ, cán bộ bảo hiểm sẽ đối chiếu với giấy chứng nhận bảo hiểm
và danh sách tham gia bảo hiểm từ đó xác định mức độ và loại hình bảo hiểm.
+ Kiểm tra biên bản tai nạn trong trường hợp xảy ra tai nạn xem xét các chứng từ y tế để
xác định tình trạng xảy ra tai nạn: có nằm viện hoặc phẫu thuật không? Thời gian nằm

viện trong trường hợp có nghi vấn phải đi xác minh lại tại bệnh viện.
Lập xác minh theo mẫu của công ty, sau khi lập xong cán bộ xác minh phải ghi rõ họ
tên, nội dung chủ yếu của biên bản xác minh bao gồm:
- Họ tên người bị tai nạn .
- Địa chỉ.
- Số tiền bảo hiểm.

- Số hợp đồng, số danh sách.
- Điều kiện bảo hiểm.
- Thời gian xảy ra tai nạn .
Công việc này nếu thực hiện nghiêm túc sẽ giúp được công ty bảo hiểm tránh được sai
lầm trong khâu bồi thường, phát hiện được các hiện tượng trục lợi bảo hiểm.
4. Công tác bồi thường.
Bồi thường và trả tiền bảo hiểm là vấn đề trọng tâm của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Bởi vì khi mua bảo hiểm, có nghĩa là khách hàng đã trả tiền cho các sản phẩm bảo
hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm cam kết bồi thường cho khách hàng một cách nhanh
chóng và đầy đủ nấu không may tổn thất xảy ra. Chính những lúc tổn thất xảy ra khách
hàng thường bị những “cú sốc” tinh thần lớn và đặc biệt quan trọng trong những trường
hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Vào lúc này thì
năng lực, sự trung thực, tính hiệu quả, sự tế nhị, và tính nhân đạo của DNBH được thừa
nhận qua cách xử sự của mình với các nạn nhân của sự kiện được bảo hiểm. Nếu giải
quyết tốt thì đó là cách quảng cáo tốt nhất đối với doanh nghiệp bảo hiểm. Vì vậy nếu có
tổn thất xảy ra, cần thực hiện giải quyết bồi thường nhanh chóng cho khách hàng, thông
thường công tác bồi thường được thực hiện theo quy trình sau:
● Mở hồ sơ khách hàng: Khi nhận được biên bản giám định tổn thất và các giấy tờ có
liên quan, bộ phận giải quết bồi thường phải mở hồ sơ khách hàng và ghi lại theo thứ tự số
hồ sơ và thời gian. Sau đó kiểm tra, đối chiếu với bản hợp đồng gốc về các thông tin có
liên quan đến bản kê khai tổn thất. Tiếp theo phải thông báo cho khách hàng là đã nhận
được đầy đủ các giấy tờ có liên quan, nếu thiếu loại giấy tờ nào thì phải thông báo nhanh
chóng bổ sung hoàn thiện hồ sơ bồi thường.

Khi xảy ra rủi ro đối với đối tượng được bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người
được thụ hưởng phải gửi cho công ty bảo hiểm một số giấy tờ cần thiết sau trong vòng một
năm kể từ ngày xảy ra sự kiện bảo hiểm:
- Giấy yêu cầu trả tiền bảo hiểm có xác nhận của nhà trường, chính quyền địa phương
hoặc công an nơi người được bảo hiểm bị tai nạn (trường hợp bị tai nạn).
- Giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc ban sao danh sách người tham gia bảo hiểm.
- Các chứng nhận y tế:Giấy ra viện, phiếu điều trị, phiếu mổ (nếu phỉa mổ).

- Giấy chứng tử trong trường hợp người được bảo hiểm chết.
● Xác định số tiền bồi thường: STBT được căn cứ dựa vào:
- Biên bản giám định tổn thất và bản kê khai tổn thất.
- Điều khoản, điều kiện của hợp đồng bảo hiểm
- Bảng theo dõi số phí bảo hiểm đã nộp.
● Thông báo bồi thường: sau khi STBT được xác định thì DNBH sẽ thông báo chấp
nhận bồi thường và đề xuất các hình thức bồi thường cho khách hàng.
Sau khi nhận được giấy tờ cần thiết mà người bị tai nạn cung cấp. Công ty bảo hiểm có
trách nhiệm :
+ Xem xét, giải quyết và thanh toán tiền bảo hiểm trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận
được đầy đủ hồ sơ hợp lệ.
+ Trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng, hoặc người được
uỷ quyền hợp pháp.
Trường hợp người được bảo hiểm và người thừa hưởng tiền bảo hiểm có hành động
không trung thực trong việc khai báo, thu thập các chứng từ trong hồ sơ tai nạn , Bảo Việt
có quyền xem xét lại hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng để giải quyết. Tuỳ theo
mức độ vi phạm của người được bảo hiểm hoặc người thừa hưởng tiền bảo hiểm, Bảo Việt
có quyền từ chối một phần hoặc toàn bộ số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp đương sự có
dấu hiệu vi phạm pháp luật, Bảo Việt có trách nhiệm đề nghị cơ quan pháp luật xem xét,
giải quyết.
Bảo Việt có trách nhiệm xem xét , giải quyết và thanh toán tiền bảo hiểm trong vòng 21
ngày kể từ khi nhận được đầy đủ chứng từ hợp lệ .

IV. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm học
sinh.
1. Kết quả kinh doanh.
1.1. Khái niệm.
Kết quả kinh doanh của nghiệp vụ Bảo hiểm nói chung cũng như nghiệp vụ BHHS nói
riêng được thể hiện chủ yếu ở hai chỉ tiêu là : Doanh thu và lợi nhuận trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm). Nó là cơ sở để tính toán các chỉ tiêu khác có liên quan
phục vụ phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu của doanh nghiệp

bảo hiểm phản ánh tổng hợp kết quả kinh doanh. Chỉ tiêu này gồm các bộ phận cấu thành:
doanh thu về hoạt động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm, thu nhập từ hoạt động đầu tư
và các khoản thu nhập khác. Để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đạt được
trong kỳ tốt hay không ta có thể căn cứ vào doanh thu bao gồm doanh thu kế hoạch, doanh
thu thực hiện từ đó xác định chỉ tiêu phần trăm hoàn thành kế hoạch. Chỉ tiêu này cho
thấy doanh nghiệp hoàn thành vượt bao nhiêu phầm trăm kế hoạch đề ra. Từ đó phản ánh
kết quả kinh doanh trong kỳ tốt hay không để sớm đưa ra các giải pháp phù hợp khắc phục
nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

% hoàn thành
=


DT thực hiện - DT kế hoạch
kế hoạch DT kế hoạch
Bên cạnh đó, để xác định kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ta còn có thể căn cứ vào
chỉ tiêu lợi nhuận đạt được trong kỳ. Chỉ tiêu này được tính thông qua doanh thu và chi
phí. Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm là toàn bộ số tiền doanh nghiệp bảo hiểm chi ra
trong kỳ phục vụ cho quá trình hoạt động kinh doanh trong vòng một năm.
Dựa vào các kết quả thu, chi sẽ tính được lợi nhuận trong kỳ mà doanh nghiệp bảo hiểm
thu được trong một năm. Có hai chỉ tiêu lợi nhuận:




Lợi nhuận
trước thuế
=
Tổng
doanh thu
-
Tổng
chi phí

Lợi nhuận
Sau thuế
=
Lợi nhuận
trước thuế
-
Thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp

1.2. Phân tích kết quả kinh doanh nghiệp vụ.

Khi phân tích kết quả kinh doanh nghiệp vụ của doanh nghiệp có thể phân theo các
hướng sau:
+ Phân tích theo cơ cấu doanh thu chi phí. Theo cách này, kết quả kinh doanh thể hiện
ở sự chênh lệch giữa mức thu và mức chi. Nếu thu vượt chi thì kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp đạt hiệu quả và ngược lại. Đây là chỉ tiêu đơn giản, dễ tính, dễ hiểu nhất để
phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh
+ Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch doanh thu và lợi nhuận. Nếu doanh thu, lợi

nhuận thực tế đạt được trong kỳ vượt mức kế hoạch đề ra thì hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp đạt hiệu quả và ngược lại.
+ Phân tích sự biến động của doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo thời gian. Theo
hướng phân tích này, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xem là có hiệu
quả nếu doanh thu, lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp tăng theo thời gian còn chi phí bỏ
ra giảm theo thời gian trong điều kiện quy mô doanh nghiệp và cạnh tranh trên thị trường
ít biến động.
+ Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận. Các yếu tố này bao
gồẩncạnh tranh trên thị trường, thị phần mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ, quy mô
doanh nghiệp, các hoạt động quảng bá hình ảnh
2. Hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp .
2.1. Khái niệm.
Hiệu quả kinh doanh của DNBH là thước đo sự phát triển của DNBH và phản ánh trình
độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được
các mục tiêu đã đề ra.
Với tư cách là thước đo sự phát triển của DNBH, hiệu quả kinh doanh được thể hiện ở
các chỉ tiêu đặc trưng kinh tế, xã hội khác nhau. Hiệu quả kinh doanh của DNBH luôn gắn
với các mục tiêu kinh tế- xã hội. Trước hết là những mục tiêu của doanh nghiệp, sau đó là
của ngành bảo hiểm và toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Bởi kinh doanh bảo hiểm mà đặc biệt
là kinh doanh BHHS không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội. Cho nên khi
đánh giá hiệu quả của một DNBH không chỉ xét trên góc độ kinh tế mà còn phải xét trên
góc độ phục vụ xã hội .
2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh.

Xét trên phương diện thống kê, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh doanh của
DNBH không thể dùng một chỉ tiêu mà phải có hệ thống các chỉ tiêu. Bởi vì nội dung của
phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và rất phức tạp nên phải dùng hệ thống các chỉ tiêu,
mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt, một quá trình kinh tế nào đó.
Nếu kí hiệu một chỉ tiêu chi phí nào đó là C và một chỉ tiêu kết quả kinh doanh nào đó
là K thì chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh được tính theo hai chỉ tiêu trên là :

H=K/C hoặc H= C/K
Do đó về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh với một chỉ
tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh tính theo chiều
thuận hoặc chiều nghịch. Nếu có n chỉ tiêu kết quả và m chỉ tiêu chi phí thì số lượng chỉ
tiêu hiệu quả sẽ là 2*m*n.
A.Nếu đứng trên góc độ kinh tế:
Hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với
tổng chi phí chi ra trong kỳ :
1) H
d
=D/C
2) H
e
=L/C.
Trong đó :
D: Doanh thu của doanh nghiệo bảo hiểm.
C: Chi phí bỏ ra kinh doanh
H
d
, H
e
: Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm theo chỉ tiêu doanh thu và
lợi nhuận .
B.Nếu xét trên góc độ xã hội.
Hiệu quả kinh tế xã hội của DNBH thể hiện ở hai chỉ tiêu sau:
H
X1
= K
TG
/C

BH
H
X2
= K
BT
/C
BH
Trong đó :
H
X
: Hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm.
C
BH
: Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh.
K
TG
: Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ
K
BT
: Số khách hàng được bồi thường trong kỳ.

2.3. Phân tích hiệu quả kinh doanh theo các khâu công việc đối với BHHS.
Cũng như các nghiệp vụ bảo hiểm khác quá trình triển khai nghiệp vụ BHHS bao gồm
các khâu công việc: khâu khai thác, khâu đề phòng hạn chế tổn thất, khâu giám định, khâu
bồi thường tổn thất để nâng cao hiệu quả nghiệp vụ, đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả của
từng khâu. Điều đó có nghĩa là phải xác định hiệu quả từng khâu. Sau đó đánh giá xem xét
xem khâu nào chưa mang lại hiệu quả để tìm ra nguyên nhân và cách khắc phục.
2.3.1.Hiệu quả khâu khai thác.

Kết quả khai thác trong kỳ

Hiệu quả khai thác trong kỳ ═ ————————————
Chi phí khai thác trong kỳ
Kết quả khai thác trong kỳ có thể là doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ BHHS cũng
có thể là số học sinh tham gia bảo hiểm trong kỳ còn chi phí khai thác có thể là tổng chi
phí trong khâu khai thác hoặc là tổng số đại lý khai thác trong kỳ.
2.3.2. Hiệu qủa hoạt động giám định.
Kết quả giám định trong kỳ
Hiệu quả giám định bảo hiểm ═ —————————————
Chi phí giám định trong kỳ
Tử số của chỉ tiêu này có thể là số vụ tai nạn rủi ro đã được giám định hoặc số học sinh
đã được bồi thường trong kỳ. Mẫu só là tổng chi phí giám định.

2.3.3.Hiệu quả công tác đề phòng hạn chế tổn thất.
Hiệu quả công tác đề Lợi nhuận nghiệp vụ bảo hiểm trong kỳ
phòng hạn chế tổn thất ═ —————————————————
Chi phí đề phòng hạn chế tổn thất
Hiệu quả của công tác đề phòng hạn chế tổn thất phản ánh cứ một đồng chi phí đề
phòng hạn chế tổn thất bỏ ra trong kỳ thì sẽ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho
nghiệp vụ này. Chỉ tiêu này có tác dụng rất lớn khi đưa ra phân tích một số nghiệp vụ bảo
hiểm như BHHS, bảo hiểm vật chất xe cơ giới.
Như vậy, thông qua các chỉ tiêu này có thể đánh giá được toàn bộ kết quả và hoạt động
kinh doanh nghiệp vụ BHHS của doanh nghiệp. Từ đó thấy được các ưu, nhược điểm và
tìm ra các giải pháp nhanh chóng khắc phục nhằm đưa hoạt động kinh doanh của DNBH
nói chung cũng như hoạt động kinh doanh nghiệp vụ BHHS nói riêng ngày càng phát triển.


















CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ

BẢO HIỂM HỌC SINH TẠI BẢO VIỆT NGHỆ AN.

I. Cơ sở pháp lý để thực hiện bảo hiểm học sinh.
Cơ sở pháp lý của BHHS là những văn bản chỉ dạo của Chính phủ và các Bộ quản lý nhà
nước:
1. Quyết định số 115-HĐBT ngày 29/9/1986 của Hội đồng bộ trưởng về một số chế độ
đảm bảo đời sống và học tập của học sinh tại các trường đào tạo.
Trong thời kỳ giữa những năm 80 của thế kỷ 20 việc bảo đảm đời sống và học tập của
học sinh một phần dựa vào ngân sách đào tạo của Nhà nước, một phần dựa vào kết quả lao
động sản xuất của học sinh trong nhà trường và sự đóng góp của gia đình học sinh. Cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất nước ta lúc đó gọi là Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ra quyết định số 115-HĐBT ngày 29/9/1986 về một số chế độ bảo đảm đời sống
và học tập của học sinh tại các trường đào tạo.
Nội dung của Quyết định này chủ y nhằm giải quyết chế độ bảo đảm đời sống và học
tập của học sinh các trường đào tạo phù hợp với điều kiện kinh tế và tài chính của Nhà
nước thời kỳ đó. Trong quyết định này tại điều 9 đã quy định rằng: Công ty Bảo hiểm Việt
Nam ra các thể lệ bảo hiểm đối với học sinh các trường và thu lệ phí hàng năm của học

sinh theo quy định”.Quyết dịnh này có hiệu lực thi hành kể từ năm học 1986-1987.
2. Quyết định số 241/TTg ngày 24/5/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử
dụng học phí.
Nội dung chủ yếu của Quyết định này gồm có các phần thu học phí, thu tiền đóng góp
để xây dựng trường học, thu lệ phí thi và lệ phí tuyển sinh, thu tiền ở ký túc xá và đặc biệt
là “tất cả các trường đều thu tiền bảo hiểm y tế và bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh”. Bộ
giáo dục và đào tạo cùng Bộ Tài chính quy định cụ thể việc thu và sử dụng học phí như
phần ngân sách bổ sung cho giáo dục và đào tạo, không trừ vào ngân sách giáo dục và đào
tạo hằng năm.

3. Thông tư của Liên Bộ Tài chính- Giáo dục và đào tạo số 35/TT-LB ngày 25/4/1995
hướng dẫn về bảo hiểm toàn diện đối với học sinh, sinh viên.
Trong quá trình thực hiện chế độ bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh theo Quyết định số
115/HĐBT ngày 29/9/1986 của Hội đồng Bộ trưởng, phạm vi bảo hiểm chỉ mới giới hạn ở
những rủi ro tai nạn bất ngờ, chưa đáp ứng được nhu cầu chăm lo sức khoẻ toàn iện cho
học sinh, sinh viên, cũng như trợ giúp cho gia đình học sinh trong trường hợp con em họ bị
ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc giải phẫu tại bệnh viện.
Nhằm khắc phục những hạn chế kể trên , tạo điều kiện tăng cường công tác chăm lo sức
khoẻ cho học sinh, sinh viên và để thực hiện Quyết định số 241/TTg ngày 24/5/1993 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí trong đó cho phép tất cả các trường
đều được thu tiền bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh: Liên bộ tài chính, Giáo dục và đào
tạo hướng dẫn một số nội dung làm cơ sở mở rộng phạm vi bảo hiểm và thực hiện một số
chế độ bảo hiểm toàn diện học sinh. Ngoài phần quy định chung ra, Thông tư này còn quy
định cụ thể trách nhiệm của các công ty bảo hiểm và trường học, đồng thời nêu rõ biện
pháp tổ chức thực hiện bảo hiểm toàn diện đối với học sinh, sinh viên.
4. Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh.
Quy tắc bảo hiểm tai nạn thân thể học sinh 24 giò ngày đêm là tên gọi đầy đủ của quy
tắc này được ban hành theo quy định số 256/TC/BH ngày 22/7/1991 của Bộ trưởng Bộ Tài
chính.
Nội dung chủ yếu của quy tắc này nhằm quy định nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm tai

nạn thân thể học sinh. Trên cơ sở đó quy định cụ thể phạm vi bảo hiểm, số tiền bảo hiểm,
phí bảo hiểm, hiệu lực bảo hiểm. Một trong những nội dung quan trọng của quy tắc này là
quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm của người được bảo hiểm, thủ tục trả tiền bảo
hiểm. Phần cuối cung quy định việc giải quyết tranh chấp có liên quan tới quy tắc này dựa
trên cơ sở chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật hiện hành của Nhà nước. Quy tắc bảo hiểm
tai nạn thân thể học sinh có hiệu lực thi hành từ năm học 1991-1992.
5. Điều khoản bảo hiểm toàn diện đối với học sinh.
Điều khoản bảo hiểm toàn diện đối với học sinh được ban hành theo quy định số
1035/PHH ngày 8/7/1994 của Tổng giám đốc Công ty Bảo hiểm Việt Nam. Điều khoản
bảo hiểm này được xây dựng trên cơ sở các quy tắc bảo hiểm có liên quan đã được Bộ Tài

×