TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=== ===
ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO
ĐẢM THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH NGHỆ AN – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Đoàn Minh Duệ
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Hòa
VINH - 2011
1
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành bài Khóa luận tốt nghiệp này, em đã nhận được rất nhiều
sự giúp đỡ, quan tâm, chỉ đạo từ phía Ban lãnh đạo Khoa Giáo dục chính trị,
Ban lãnh đạo Khoa Luật, đặc biệt là sự hướng dẫn nhiệt tình, tỉ mỉ và khoa
học của Thầy giáo PGS.TS Đoàn Minh Duệ - Trưởng Khoa Luật trong quá
trình em nhận đề tài, triển khai viết và thu thập tài liệu...Sự hướng dẫn của
Thầy chính là bước đệm cơ bản và quan trọng để em có thể hồn thành bài
Khóa luận của mình trong thời gian khơng dài.
Vì thế, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, chỉ đạo của Ban lãnh đạo
Khoa Giáo dục chính trị, Ban lãnh đạo Khoa Luật đã có những phương hướng
chỉ đạo, tổ chức, giúp đỡ em hoàn thành tốt bài Khóa luận tốt nghiệp đại học
của mình. Em cũng xin chân thành cảm ơn Thầy giáo PGS.TS Đoàn Minh
Duệ - Trưởng Khoa Luật đã hướng dẫn em rất tỉ mỉ trong quá trình tiếp cận
cũng như triển khai đề tài nghiên cứu này.
Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu không nhiều cũng như năng lực
nghiên cứu của bản thân có hạn nên bài Khóa luận tốt nghiệp khơng tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý
kiến của q Thầy cơ và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 5 năm 2011
Sinh viên
Lê Thị Hòa
2
BẢNG TỪ VIẾT TẮT
THA
: Thi hành án
THADS
: Thi hành án dân sự
CHV
: Chấp hành viên
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
UBND
:
Uỷ ban nhân dân
UBND TP. Vinh : Ủy ban nhân dân Thành phố Vinh
MỤC LỤC
Trang
3
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tình thế cấp thiết của đề tài.........................................................................5
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài......................................................................7
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................7
3.1. Mục tiêu....................................................................................................7
3.2. Nhiệm vụ...................................................................................................8
4. Phạm vi nghiên cứu.....................................................................................8
5. Phương pháp và ý nghĩa nghiên cứu.......................................................8
5.1 Phương pháp.............................................................................................8
5.2. Ý nghĩa......................................................................................................8
6. Bố cục của đề tài.........................................................................................9
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Một số lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
1.1.Khái niệm chung.......................................................................................10
1.1.1.Thi hành án.............................................................................................10
1.1.2. Thi hành án dân sự...............................................................................11
1.1.3. Biện pháp bảo đảm................................................................................12
1.1.4. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự................................................15
1.2. Các bên đương sự trong thi hành án dân sự.............................................16
1.2.1. Chấp hành viên......................................................................................17
1.2.2. Người được thi hành án.........................................................................22
1.2.3. Người phải thi hành án..........................................................................22
1.2.4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan..............................................23
1.3. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng các biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự....................................................................................24
1.4.Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự..........................................26
1.4.1. Phong tỏa tài khoản...............................................................................29
4
1.4.2. Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự...................................................32
1.4.3. Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản.....................................................................................................35
1.4.4. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự............................................37
Tiểu kết chương 1..........................................................................................38
Chương 2
Thực trạng, phương hướng và giải pháp áp dụng
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự ở Nghệ An
2.1. Đặc điểm về kinh tế - xã hội.....................................................................39
2.2. Thực trạng áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự ở Nghệ
An trong những năm qua...............................................................................40
2.3. Một số phương hướng và giải pháp áp dụng các biện pháp bảo đảm,
giải quyết các vụ án tồn đọng trong công tác thi hành án dân sự thời gian
tới....................................................................................................................65
Tiểu kết chương 2 .........................................................................................72
C. KẾT LUẬN...............................................................................................73
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. PHẦN MỞ BÀI
1.Tình thế cấp thiết của đề tài.
Thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp. Việc bản án và quyết định của Tòa án – nhân danh Nhà
5
nước được chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin
của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành án có một ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng
cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực
tư pháp được thực thi trên thực tế. Hiến pháp năm 1992 khẳng định:
“Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật
phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế các đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu
quan nghiêm chỉnh chấp hành”.
Nhận thức được tầm quan trọng trong công tác này, Đảng và Nhà nước
ta đã đề ra mục tiêu trong những năm tới đây phải:“Tiếp tục tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong công tác thi hành án dân sự, nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án, giải quyết căn bản tình trạng án tồn đọng. Đổi
mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, nâng
cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan thi hành án dân sự, nâng cao vai
trò trách nhiệm của các cơ quan thi hành án”. Nhiều năm qua, Chính phủ
đã xác định cơng tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm và đã đưa ra nhiều giải pháp hiệu quả nhằm tạo sự chuyển
biến cơ bản trong công tác này. Do đó, cơng tác thi hành án dân sự trong
những năm qua đạt được một số kết quả đáng khích lệ, mà kết quả nổi
bật nhất theo đánh giá của Chính Phủ là: “Hệ thống cơ quan thi hành án
dân sự được hình thành trong cả nước, cơng tác thi hành án dân sự đã được
triển khai và hoạt động có hiệu quả bước đầu”.
Nghệ An là một tỉnh thành có cơng tác thi hành án đạt được rất nhiều
thành tựu. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cơng tác thi hành án dân sự vẫn đang đứng
trước những khó khăn, thách thức to lớn với nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang
đặt ra cần phải giải quyết. Hiệu quả công tác thi hành án chưa cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ và sự quan tâm mong mỏi của Đảng và nhân
6
dân, hoạt động thi hành án chưa thực sự đảm bảo được tính cơng bằng
và nghiêm minh của pháp luật.
Đây là vấn đề rất bức xúc đặt ra trong công tác thi hành án dân sự
hiện nay. Thực trạng này, một phần xuất phát từ nguyên nhân, ý thức
tuân thủ pháp luật của một số bộ phận nhân dân nói chung và một số cơ
quan, tổ chức, các nhà quản lý doanh nghiệp và cá nhân (kể cả chính
quyền địa phương) cịn yếu kém. Mặt khác, là do chưa có sự đồng bộ,
chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật, cũng như cơ quan hữu quan
trong quá trình thi hành án, cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự chưa được thống nhất đồng bộ, hệ thống các văn bản
pháp lý chưa hoàn thiện, chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời, cơ chế
quản lý và cơ chế thi hành án hiện nay chưa hợp lý, gây cản trở và làm
giảm hiệu quả cơng tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói
riêng. Trong đó, nhiều trường hợp án tồn đọng và không thể thi hành là
do Người phải thi hành án đã có những hành vi như tẩu tán, hủy hoại tài
sản nhằm trốn tránh việc thi hành án của mình. Bên cạnh đó, một số vụ
án không thể thi hành được là do những nguyên nhân như: bản án tuyên
không rõ, tuyên không đúng thực trạng..do vậy, khi tiến hành thi hành
án thì khơng thể thực hiện được....
Để khắc phục được tình trạng trên, bên cạnh việc địi hỏi phải có sự
phấn đấu nỗ lực của cơ quan thi hành án dân sự và sự phối hợp của các cấp
chính quyền địa phương, các ngành hữu quan có liên quan thì cần thiết
phải tăng cường các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
Song thực tế cho thấy, việc thực hiện các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự trong thời gian qua còn nhiều bất cập và chưa được nhìn
nhận một cách đầy đủ, chính xác.Vì những lý do trên, chúng tơi đã mạnh
dạn chọn đề tài “Áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Nghệ An – thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu
Khố luận tốt nghiệp cho mình.
7
2. Lịch sử nghiên cứu của đề tài
Vấn đề thi hành án dân sự là vấn đề được rất nhiều sự quan tâm của
các cấp, các ngành, các địa phương và cá nhân xã hội. Đã có rất nhiều cơng
trình khoa học, bài viết của các tác giả nghiên cứu về đề tài này như:
“Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự - thực tiễn áp dụng và
hướng hồn thiện” của Tác giả Nguyễn Cơng Long, Luận văn Thạc sỹ.
“Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của Tác giả Nguyễn
Thanh Thủy, Luận văn Thạc sỹ.
“Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam” của Tác giả Lê
Anh Tuấn, Luận văn Thạc sỹ.
Bên cạnh đó là Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật
Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật, một số bài viết đăng trên
Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật.
Trong các cơng trình khoa học trên, ít nhiều cũng đã đề cập tới vấn đề
thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Tuy nhiên, chưa có cơng
trình nào nghiên cứu cụ thể, chi tiết về vấn đề “... các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự...”
Do đó, chúng tơi đã mạnh dạn tìm hiểu, nghiên cứu đề tài “Áp dụng
các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Nghệ An - Thực
trạng và giải pháp”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Đề tài tập trung nghiên cứu về phần lý luận và thực tiễn thực hiện các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, đưa ra một số kiến
nghị, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
8
- Làm rõ cơ sở lý luận về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và
thực tiễn thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự ở Việt Nam
trong thời gian qua.
- Nghiên cứu các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự quy định
trong luật định. Từ đó, xem xét thực tiễn áp dụng những quy định đó
trong đời sống thực tế, trong những vụ án cụ thể, chỉ ra những cái đã làm
được và cịn hạn chế, tìm giải pháp khắc phục…
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khn khổ bài Khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi đã tập trung
nghiên cứu về lý luận các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự được
quy định trong luật và trên cơ sở đó đánh giá được thực tiễn thực hiện
các biện pháp này trên thực tế và tìm ra giải pháp.
5. Phương pháp và ý nghĩa nghiên cứu
5.1. Phương pháp
Chúng tôi đã sử dụng phương pháp phân tích, so sánh để hiểu được
lý luận về các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và thấy được thực
tiễn áp dụng của nó trong đời sống thực tế, trong các vụ án cụ thể…Đồng
thời, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, logic thống kê của chủ
nghĩa Mác - Lê nin để nghiên cứu và phân tích đề tài sâu sắc hơn.
5.2. Ý nghĩa
Đề tài đã làm sáng tỏ được một phần lý luận của vấn đề thực hiện các
biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự và chỉ ra được thực tiễn thực hiện
các biện pháp này trong công tác thi hành án dân sự.. Từ đó, giúp cho
các cơ quan chức năng, chính quyền các cấp, các cơ quan hữu quan và
ngành liên quan thấy được vai trò của việc áp dụng các biện pháp bảo
đảm thi hành án dân sự nhằm giúp cho công tác thi hành án dân sự đạt
hiệu quả cao. Đề tài cũng có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu cho các sinh
viên chuyên ngành trong q trình nghiên cứu một số cơng trình khoa
học liên quan đến thi hành án và thi hành án dân sự, các biện pháp bảo
9
đảm thi hành án...Cũng qua thực tiễn áp dụng các biện pháp bảo đảm thi
hành án dân sự, đề tài đã đưa ra kiến nghị về một số biện pháp cơ bản
nhằm nâng cao hơn nữa công tác đảm bảo thi hành án dân sự đối với
Tỉnh Nghệ An nói riêng và công tác thi hành án trên cả nước nói chung.
6. Bố cục của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, mục lục, và danh mục tài liệu tham
khảo, đề tài gồm có 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về các biện pháp bảo đảm thi hành
án dân sự.
Chương 2: Thực trạng, phương hướng và giải pháp áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên địa bàn Tỉnh Nghệ An.
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
Một số lý luận về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Thi hành án
10
Thi hành án là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực
thi hành của Tịa án được thực hiện.
Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải
quyết, phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền
lợi của mình trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án tổ
chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án.Việc tổ chức thi hành các bản
án, quyết định của Tịa án được gọi là thi hành án.
Ví dụ:
Khi xét xử một tranh chấp dân sự, Tòa án ra bản án tuyên buộc ông A
phải trả bà B 10 triệu đồng. Bằng bản án, quyết định này, Tòa ấn thừa nhận
quyền của bà B là được ông A trả cho 10 triệu đồngvà tuyên buộc nghĩa vụ
của ông A là phải trả cho bà B 10 triệu đồng. Tuy nhiên, trên thực tế thì bà B
vẫn chưa được nhận tiền, ông A vẫn chưa giao tiền. Nếu ông A tự nguyện
mang tiền trả cho bà B và bà B nhận tiền thi phán quyết đó đã được thực hiện.
Nhưng nếu ông A không tự nguyện nộp tiền hoặc không có tiền mặt nhưng có
tài sản khác thì lúc đó cần phải sử dụng biện pháp cưỡng chế của Cơ quan thi
hành án để buộc ông A phải trả cho bà b 10 triệu đồng tiền mặt hoặc phải bán
tài sản của ông A để thu hồi 10 triệu đồng tiền mắt để trả cho bà B. Đó chính
là hoạt động thi hành án.
Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành
trên thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản
án, quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Chính vì vậy,
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) đã quy định rõ tại Điều
136:
“Các bản án và quyết định của Tồ án nhân dân đã có hiệu lực pháp
luật phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các
11
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Có thể thấy, tầm quan trọng của cơng tác thi hành án được Hiến pháp
năm 1992 thừa nhận và bảo đảm thực hiện.
Nói tóm lại, thi hành án là hoạt động diễn ra sau khi Tòa án đã có
phán quyết giải quyết các tranh chấp trong xã hội hoặc áp dụng các chế
tài xử phạt các hành vi phạm tội.
1.1.2. Thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động do Cơ quan thi hành án dân sự tiến
hành theo những thủ tục, trình tự nhất định, nhằm đưa các bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực thi hành của Tịa án ra để thi hành.
Thi hành án dân sự là quá trình đưa bản án, quyết định dân sự đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án thành giá trị hiện thực. Hay nói cách khác là
q trình mà bản án, quyết định dân sự của Tòa án nhân dân đi vào đời sống.
Các bản án quyêt định dân sự của Tòa án không phải chỉ bao gồm các
bản án, quyết định do Tịa án dân sự tun về những vấn đề hồn tồn dân sự
như trả nợ, địi nhà cho th, ... mà cịn về ly hơn, cấp dưỡng ni con (án h
ơn nhân và gia đình), trả tiền lao động...(án lao động), phạt tiền do vi phạm
hợp đồng...(án kinh tế), thanh tốn cho các chủ nợ có đảm bảo...(án phá
sản), bồi thường thiệt hại và các nghĩa vụ khác (phần dân sự trong các
bản án, quyết định hình sự, hành chính). Các bản án, quyết định dân sự
không chỉ bao gồm các bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài Việt
Nam mà cả các bản án, quyết định dân sự của Tịa án nước ngồi, quyết
định của Trọng tài nước ngồi được cơng nhận và cho thi hành tại Việt
Nam.
Tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định các bản án,
quyết định được thi hành:
“Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu lực
pháp luật:
12
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Tồ án cấp
sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương sự
khơng tự nguyện thi hành, khơng khởi kiện tại Tồ án;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được thi
hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ
cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh thần, nhận người
lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.”
Như vậy, thi hành án dân sự là một hoạt động có phạm vi rất rộng,
bên cạnh hoạt động thi hành án hình sự là hoạt động gắn liền với việc thi
hành các phán quyết của Tịa án hình sự.
1.1.3. Biện pháp bảo đảm
Biện pháp bảo đảm là cách thức, phương thức tác động vào một sự
vật, sự việc, hiện tượng xã hội nhằm đảm bảo cho sự vật, sự việc và hiện
tượng đó phát triển theo đúng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội.
Trong bất kỳ một quan hệ nghĩa vụ nào cũng thường được xác lập bởi
hai bên chủ thể, đó là bên có quyền và bên có nghĩa vụ. Khi tham gia vào các
quan hệ nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên luôn tương ứng với nhau.
13
Tuy nhiên, có những quan hệ nghĩa vụ mà trong đó, một bên chỉ có quyền
u cầu nhưng khơng phải gánh vác nghĩa vụ nào, cịn một bên có nghĩa
vụ thực hiện cho bên kia một công việc nhất định mà khơng có quyền u
cầu
Trong thực tế, các biện pháp bảo đảm có vai trị rất quan trọng.
Bởi vì, chỉ khi nào bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ như khơng thực
hiện nghĩa vụ, có thực hiện nhưng khơng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, lợi
ích của bên có quyền bị vi phạm thì bên có quyền mới u cầu cơ quan có
thẩm quyền giải quyết và khi đó biện pháp cưỡng chế có thể được áp
dụng. Tuy nhiên, việc u cầu đó địi hỏi một khoảng thời gian dài, trải
qua nhiều giai đoạn và có thể trong thời gian đó nảy sinh nhiều vấn đề
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của bên có quyền như người vi phạm
khơng cịn tài sản để thực hiện nghĩa vụ hoặc cố tình bán, tẩu tán hết tài
sản vào thời điểm áp dụng biện pháp cưỡng chế, khi đó quyền lợi của bên
có quyền khơng được bảo đảm. Vì vậy, việc áp dụng các biện pháp bảo
đảm là rất cần thiết, khi có sự vi phạm nghĩa vụ, người có quyền sẽ bảo
vệ được lợi ích của mình bằng cách tác động trực tiếp lên tài sản bảo đảm
nếu bên có nghĩa vụ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của mình bằng một tài
sản nào đó.
Ví dụ:
Ơng A muốn vay Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn số
tiền là 200.000.000đ . Để đảm bảo cho giao dịch vay vốn này, Ông A phải
giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình cho ngân hàng nơng
nghiệp và phát triển nơng thơn giữ.
Qua sự phân tích ở trên cho thấy, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm
có ý nghĩa rất quan trọng, một mặt các biện pháp này bảo vệ quyền lợi của
các bên, tạo điều kiện cho bên có quyền có thể chủ động hưởng quyền dân sự
trên thực tế. Mặt khác, nó bảo đảm sự ổn định của các quan hệ nghĩa vụ, tránh
được các tranh chấp phát sinh từ việc khơng thực hiện hoặc có thực hiện
14
nhưng khơng đầy đủ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ . Chính vì vậy, pháp luật
qui định các biện pháp bảo đảm và cho phép các bên có thể thoả thuận, đưa ra
các biện pháp bảo đảm phù hợp cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng.
Theo nghĩa khách quan, bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Tổng
hợp các qui định pháp luật do Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trong
đó quy định điều kiện, trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Còn theo nghĩa chủ quan,
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là: Sự thoả thuận giữa các bên, theo
đó bên có nghĩa vụ sẽ dùng tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của mình hoặc
của người khác nếu người đó đồng ý, để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
trước bên có quyền. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự có thể
do pháp luật qui định hoặc do các bên thoả thuận áp dụng trong phạm vi
pháp luật cho phép.
Về mặt bản chất, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là
biện pháp mang tính chất dự phịng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa
vụ. Ngoài ra, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự do pháp
luật qui định hay do các bên thoả thuận cịn có tính chất bắt buộc đối với
các bên trong giao dịch.
Trong hoạt động thi hành án cũng vậy, khi một bản án, quyết định của
Tịa án được ban hành và có hiệu lực pháp lý đồng thời cũng xác định các
nghĩa vụ dân sự của hai bên trong vụ án đó. Tức là khi bản án, quyết định cuả
Tịa án đã có hiệu lực pháp luật cũng là lúc mà hai bên đương sự của vụ án đó
phải thực hiện những nghĩa vụ dân sự với nhau theo quyết định của Bản án,
quyết định đã tuyên. Tuy nhiên, quá trình hai bên thực hiện các nghĩa vụ đó
hay nói cách khác q trình thi hành án gặp khơng ít khó khăn. Vì vậy, việc
áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án là điều cần thiết.
Như vậy, biện pháp bảo đảm thi hành án ở đây chính là việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng một số biện pháp nhằm ngăn
chặn những hành vi làm cho quá trình thi hành án gặp khó khăn, phức
15
tạp như: hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hay nhũng hành vi khác nhằm
trốn tránh việc thi hành án của người phải thi hành án.
1.1.4. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Mặc dù tại Khoản 2, Điều 7 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004
đã quy định: “Trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có
hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoắc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp
hành viên có quyền áp dụng kịp thời các biện pháp cưỡng chế quy định tại
Điều 37 của Pháp lệnh này”. Tuy nhiên, Pháp lệnh thi hành án dân sự
năm 2004 lại chưa quy định cụ thể các biện pháp bảo đảm thi hành án
dân sự nên việc thực hiện các quyền của Chấp hành viên quy định tại
Khoản 2 Điều 7 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 cịn nhiều hạn
chế. Đây chính là một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế hiệu
quả hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta trong thời gian trước đó. Do
đó, phải có quy định bảo đảm Chấp hành viên có quyền chủ động hoặc
theo yêu cầu của đương sự áp dụng ngay các biện pháp bảo đảm thi hành
án mà không cần phải báo trước cho đương sự là điều rất cần thiết. Hơn
nữa, Chấp hành viên là chức danh tư pháp được pháp luật giao cho thẩm
quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án để tổ chức thi hành
Bản án, quyết định của Tòa án, nên việc quy định Chấp hành viên có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án là điều phù
hợp.Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là những biện pháp được áp
dụng trước khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế và phải áp dụng ngay
lập tức, khẩn trương nhưng phải lập biên bản theo trình tự, thủ tục hết
sức chặt chẽ được quy định từ Điều 66 đến Điều 69 Luật thi hành án dân
sự năm 2008. Theo đó, Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định về
biện pháp bảo đảm thi hành án như sau:
“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản
của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn
chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng
16
biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo
trước cho đương sự.
2. Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu
áp dụng biện pháp bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp
dụng biện pháp bảo đảm hoặc cho người thứ ba thì phải bồi thường.
3. Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
a) Phong toả tài khoản;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài
sản.”
Tóm lại, biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là các biện pháp do
Chấp hành viên chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự áp dụng nhằm
ngăn chặn người phải thi hành án có những hành vi tẩu tán, hủy hoại tài
sản hoặc trốn tránh việc thi hành án .
1.2. Các bên đương sự trong thi hành án dân sự
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì Đương sự là người có
quyền lợi, nghiã vụ trong việc dân sự, án dân sự, tham gia tố tụng với mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc trong một số trường hợp
họ tham gia tố tụng chỉ để bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước, lợi
ích của người khác. Họ có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức (có tư cách pháp
nhân hoặc khơng có tư cách pháp nhân). Hoạt động tố tụng của họ có thể
dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng, họ là một
thành phần không thể thiếu của vụ việc dân sự, nếu không có đương sự
thì sẽ khơng có vụ việc dân sự tại Tịa án . Khi tham gia vào q trình tố
tụng dân sự, đương sự có quyền tự định đoạt quyền lợi của mình.
Theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì
trong quá trình thi hành án có nhiều người tham gia với nhiều tư cách khác
nhau. Tuy nhiên, có hai chủ thể quan trọng, đó là: một bên là Chấp hành
17
viên, là cơ quan thi hành án đại diện cho Nhà Nước, thay mặt nhà nước
áp dụng biện pháp mang tính cưỡng chế để thi hành các bản án, quyết
định của Tòa án; một bên là Người được thi hành án, Người phải thi
hành án, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, kể cả các cơ quan tổ
chức cá nhân khác có liên quan đến việc thi hành án. Trong nhiều trường
hợp, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án, người
có quyền và lợi ích liên quan đến việc thi hành án tương đối giống nhau.
Do đó, để có thể ngắn gọn trong một số trường hợp cần thiết, pháp luật
thi hành án dân sự gọi chung Người phải thi hành án, Người được thi
hành án và Người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án là
đương sự.
1.2.1. Chấp hành viên
Theo quy định tại khoản 1, Điều 66, Luật thi hành án dân sự năm 2008:
“Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản
của đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn
chặn việc tẩu tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên không phải thông báo
trước cho đương sự.”
Như vậy, Chấp hành viên là chủ thể có thẩm quyền quyết định việc
áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự. Vậy, Chấp hành viên
là ai? làm nhiệm vụ gì .?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17, Luật thi hành án dân sự năm
2008 quy định:
“Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành
các bản án, quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này”
Chấp hành viên là chủ thể được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định đã có hiệu lực (theo quy định tại Điều 2 của Luật thi
hành án dân sự năm 2008)
18
Với tư cách là chủ thể được Nhà nước giao nhiệm vụ và chịu trách
nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tịa án, Chấp hành viên có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự nhằm
giúp cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình được thuận lợi.
Điều Luật trên cũng quy đinh về ngạch của Chấp hành viên: “Chấp
hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và
Chấp hành viên cao cấp”. Điều này đã thể hiện được tính phát triển của Luật
thi hành án dân sự 2008 so với Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 quy định về ngạch Chấp hành
viên theo cấp hành chính, gồm có hai cấp là Chấp hành viên cấp Tỉnh và
Chấp hành viên cấp huyện. Nhưng thực tiễn thực hiện đã phát sinh nhiều bất
cập khó khăn cho việc sắp xếp, điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa
các cơ quan thi hành án dân sự, chưa thực sự thu hút, hấp dẫn được cán bộ về
công tác ở cơ quan thi hành án dân sự và cũng không đáp ứng được yêu cầu
cải cách tư pháp. Hơn nữa, thực tế hoạt động thi hành án dân sự cho thấy tính
chất, mức độ phức tạp của các vụ việc, mức độ thi hành án cũng khác nhau:
có những vụ việc đơn giản nhưng cũng có những vụ việc phức tạp, số tiền và
tài sản phải thi hành là rất lớn, việc thi hành liên quan đến nhiều địa phương,
nhiều cấp, nhiều ngành, vụ việc có yếu tố nước ngồi…địi hỏi phải có những
Chấp hành viên có năng lực chuyên môn và giàu kinh nghiệm, tâm huyết với
nghề. Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự cơng bằng giữa công sức mà
các Chấp hành viên bỏ ra với tính chất, u cầu cơng việc của họ thì việc quy
định Chấp hành viên có ba ngạch sơ cấp, trung cấp, và cao cấp dựa trên tiêu
chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực, nghiệp vụ, thâm niên, kinh nghiệm
cơng tác mà khơng phụ thuộc vào cấp hành chính là hợp lý.
Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên, Khoản 2 của điều trên cũng
quy định rõ: “Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm” .
Bên cạnh đó, tại Điều 18 Luật thi hành án dân sự năm 2008 cũng
quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên như sau:
19
“Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hồn
thành nhiệm vụ được giao thì có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên.
2. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp:
a) Có thời gian làm cơng tác pháp luật từ 03 năm trở lên;
b) Đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự;
c) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp.
3. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp.
4. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này và có đủ các
điều kiện sau thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên cao cấp:
a) Có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên;
b) Trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp.
5. Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 2 Điều này, là sỹ quan
quân đội tại ngũ thì được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trong quân đội.
Tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên
trung cấp và Chấp hành viên cao cấp trong quân đội được thực hiện theo quy
định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều này.
6. Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công
tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên
ở ngạch tương đương mà không qua thi tuyển.
7. Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn
quy định tại khoản 1 Điều này, đã có thời gian làm cơng tác pháp luật từ 10
năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có
thời gian làm cơng tác pháp luật từ 15 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm
Chấp hành viên cao cấp”
20
Như vậy, tiêu chuẩn để được bổ nhiệm Chấp hành viên bao gồm các
yêu cầu chung về đạo đức, có trình độ cử nhân luật trở lên, đã được đào
tạo về nghiệp vụ thi hành án, có đủ sức khỏe và thời gian công tác pháp
luật theo quy định là 3 năm trở lên đối với Chấp hành viên sơ cấp; đối
với Chấp hành viên trung cấp thì phải có thời gian làm Chấp hành viên
sơ cấp từ 3 năm trở lên; đối với Chấp hành viên cao cấp thì phải có thời
gian làm chấp hành viên trung cấp từ 5 năm trở lên. Một trong các tiêu
chuẩn bắt buộc để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên đó là phải qua kỳ
thi và trúng tuyển kỳ thi Chấp hành viên ở các ngạch tương ứng…
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên được quy định tại
Điều 20, Luật thi hành án dân sự 2008:
“Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định
về thi hành án theo thẩm quyền.
2. Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy
định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp
hành viên.
3. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải
quyết việc thi hành án.
4. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành
án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác
minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan
có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi
hành án.
5. Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp
cưỡng chế thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản
thi hành án.
21
6. Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án
theo quy định của pháp luật.
7. Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt
vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử
lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người vi phạm.
8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã
chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành
án và các khoản phải nộp khác.
9. Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy
định của Chính phủ.
10. Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự”
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân
theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được
pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
1.2.2. Người được thi hành án
Tại Khoản 1, Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định:
“Đương sự bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành
án”
Tiếp đó, Tại Khoản 2 Điều này giải thích về Người được thi hành án
như sau:
“Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành”.
Quyền yêu cầu thi hành án dân sự là quyền của cơ quan, tổ chức, cá
nhân được yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án hoặc quyết định
của cơ quan Nhà nước, được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự khi
có căn cứ pháp luật quy định. Quyền yêu cầu thi hành án của Người
22
được thi hành án được đảm bảo trên cơ sở nguyên tắc hiến định là các
bản án, quyết định của Tòa án phải được các cơ quan Nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội và công dân tôn trọng, các đương sự nghiêm chỉnh
thi hành.
Như vậy, nói Người được thi hành án nhưng không chỉ là người với
tư cách cá nhân mà cơ quan tổ chức cũng là người được thi hành án.
Trong nhiều trường hợp người được gọi là được thi hành án cũng chính
là người có tư cách là nguyên đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan,
người bị hại, người thắng kiện trong quá trình tố tụng trước đó.
1.2.3. Người phải thi hành án
Tại Khoản 3, Điều 3 Luật thi hành án dân sự năm 2008 quy định:
“Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành”
Theo Khoản 3 Điều này ta hiểu, người phải thi hành án là cá nhân,
cơ quan, tổ chức, phải thực hiện các nghĩa vụ mà Tòa án đã tuyên trong
bản án, quyết định của Tịa án theo trình tự, thủ tục quy định tại Pháp
lệnh thi hành án dân sự. Trong nhiều trường hợp, người được gọi là
Người phải thi hành án trong giai đoạn thi hành án cũng chính là người
có tư cách bị đơn, bị can, bị cáo, người thua kiện trong q trình tố tụng
trước đó.
1.2.4. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Theo Khoản 4, Điều 3 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định:
“Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ thi hành án của đương sự”
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan có thể là người đã tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ
kiện. Họ có thể có yêu cầu độc lập hoặc tham gia tố tụng với bên nguyên
đơn hoặc với bên bị đơn.
23
Ví dụ: nguyên đơn A kiện bị đơn B ra Tòa án nhân dân để đòi lại
quyền sử dụng đất đối với một mảnh đất thổ cư. Trên mảnh đất đó có 1 ngơi
nhà. Ngơi nhà do B xây. Trong ngơi nhà đó có C đang ở theo hợp đồng th
nhà với B. C có thể đã bỏ cơng sức cải tạo, sửa sang lại ngơi nhà đó. Do đó,
khi xét xử vụ kiện này Tòa án phải đưa C vào tham gia tố tụng để C có điều
kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vậy trong trường hợp này, C
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Khi
Tòa án đưa ra phán quyết về vụ kiện giữa A và B thì đồng thời tịa án cũng
phải quyết định những vấn đề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của C. Ví
dụ, C được tiếp tục ký hợp đồng thuê nhà với A, được thanh toán công sức cải
tạo, sửa sang lại ngôi nhà hoặc phải chấm dứt hợp đồng thuê nhà với B,
phải bàn giao nhà lại cho B. Đến giai đoạn thi hành án thì C đã có thể có
tư cách là người được thi hành án. Nếu C được hưởng quyền và lợi ích
nhất định theo bản án quyết định của tòa án. C cũng có thể với tư cách là
người phải thi hành án nếu C buộc phải thực hiện nghĩa vụ nhất định mà
bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên.
Người có quyền và nghĩa vụ liên quan cũng có thể là người do có
hoạt động thi hành án dân sự mà tham gia vào quá trình thi hành án .
Ví dụ:
A là người được thi hành án, B là người phải thi hành án. C là chồng
của B. B khơng có tài sản riêng để thi hành án, do đó tài sản chung giữa B
và C là ngơi nhà đã bị Cơ quan thi hành án kê biên để đảm bảo thi hành
án. Do đây là tài sản chung của vợ chồng B và C nên khi xử lý tài sản đó
Cơ quan thi hành án cần đảm bảo cho C có điều kiện để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Vậy, trong trường hợp này, C là người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án.
Trong quá trình thi hành án, pháp luật có những quy định cần thiết
để quyền lợi của người có quyền và lợi ích liên quan đến việc thi hành án
được đảm bảo.
24
1.3. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng hoặc yêu cầu áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án dân sự.
Có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thi hành một bản án, quyết
định dân sự. Tuy nhiên, khơng phải tất cả các chủ thể đều có quyền yêu cầu
THA và không phải lúc nào họ cũng có thể thực hiện quyền này.
Khoản 1 Điều 5 Pháp lệnh THADS 2004 qui định: “Nếu các bên đương
sự không tự nguyện thi hành thì người được THA, người phải THA căn cứ vào
bản án, quyết định dân sự có quyền yêu cầu Cơ quan THA có thẩm quyền ra
quyết định THA”. Như vậy, quyền yêu cầu THA là quyền chỉ dành riêng cho
Người được THA, Người phải THA. Nhưng theo pháp luật hiện hành, họ chỉ
thực hiện quyền yêu cầu THA trong trường hợp “các bên đương sự không tự
nguyện thi hành”. Với qui định này, pháp luật muốn đảm bảo cho các bên có
quyền yêu cầu THA và muốn được thúc đẩy nhanh chóng q trình THA vì
lợi ích hợp pháp của mình căn cứ vào bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật.
Quy định như vậy cho thấy, trong pháp luật về THADS ở nước ta,
người được THA và người phải THA đều được coi là những chủ thể trung
tâm của pháp luật THA. Tư tưởng này cũng được tiếp tục thể hiện trong dự
thảo Luật THADS (dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua vào tháng 10 tới).
Tuy nhiên, Điều 7 dự thảo Luật THADS dành cho những chủ thể có quyền
yêu cầu THA được thực hiện quyền này bất kỳ lúc nào nếu còn thời hiệu yêu
cầu, chứ không phải đợi nếu “các bên đương sự khơng tự nguyện thi hành” thì
mới thực hiện quyền yêu cầu THA như qui định của Pháp lệnh 2004. Về cơ
bản, quy định như dự thảo Luật THADS sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể có
quyền yêu cầu THA thực hiện quyền của mình tự do và chủ động hơn.
Pháp lệnh THADS 2004 không qui định nghĩa vụ chứng minh dành cho
người yêu cầu THA mà cơ quan THA (cụ thể là trách nhiệm thuộc về CHV)
phải chủ động xây dựng và xác định các biện pháp, phương thức cần thiết để
tổ chức THA theo yêu cầu của đương sự. Nhưng dự thảo Luật THADS, học
25