Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

báo cáo nghiên cứu khoa học ''''''''quyền thừa kế trong luật la mã cổ đại''''''''

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.03 KB, 15 trang )

QUYỀN THỪA KẾ TRONG LUẬT LA MÃ CỔ
ĐẠI
NGUYỄN ĐÌNH HUY
TS. Giảng viên Khoa Luật Dân sự - ĐH Luật
TP.HCM
Khái niệm luật La Mã rất rộng, được hiểu dưới nhiều
góc độ khác nhau. Ví dụ luật La Mã là truyền thống
luật La Mã trong lịch sử pháp luật châu Âu, dựa trên
Bộ Luật Justinian; luật La Mã còn được hiểu là luật
thông dụng (Ius Commune) được áp dụng ở hầu hết
các nước châu Âu ; luật La Mã còn là một trường
phái luật pháp theo xu hướng bảo tồn những nguyên
tắc của luật La Mã… Thế nhưng khi nhắc đến khái
niệm luật La Mã chúng ta phải hiểu rằng đó là luật
pháp của nhà nước La Mã cổ đại kéo dài suốt 13 thế
kỷ (từ thế kỷ VII trước Công nguyên đến thế kỷ VI
sau Công nguyên). Những thành tựu rực rỡ trong lĩnh
vực xây dựng pháp luật của nhà nước La Mã là một
trong những công trình văn hóa vĩ đại nhất trong lịch
sử nhân loại, có thể so sánh với Kim tự tháp của Ai
Cập, Vạn lý trường thành của Trung quốc… Theo
Ăng- ghen: “Luật La Mã là hình thức pháp luật hoàn
thiện nhất dựa trên cơ sở tư hữu. Sự thể hiện pháp lý
những điều kiện sống và những xung đột xã hội trong
đó thống trị tư hữu mà những nhà làm luật sau đó
không thể mang thêm điều gì hoàn thiện hơn…”.
Cho đến ngày nay, người ta vẫn luôn đặt ra câu hỏi
tại sao kỹ thuật xây dựng luật pháp của các luật gia
La Mã lại hoàn thiện đến mức khó tin như vậy. Chỉ
lấy một ví dụ trong phần hợp đồng thì so với luật
pháp hiện đại người ta chỉ thấy thiếu một loại hợp


đồng duy nhất, đó là hợp đồng bảo hiểm.
Sẽ không thái quá khi nói rằng luật La Mã là cơ sở, là
nền tảng của pháp luật hầu hết các nước trên thế giới
và đối với những nhà làm luật, những người nghiên
cứu luật pháp thì việc nghiên cứu luật La Mã là điều
gần như không thể bỏ qua. Gomsten cho rằng:
“Nghiên cứu luật pháp phải bắt đầu từ luật La Mã,
bởi vì nếu không nghiên cứu luật La Mã thì tổn phí
biết bao công sức một cách vô ích để tìm thấy cái mà
người ta đã tìm thấy từ lâu”.
Nói đến luật La Mã chúng ta không thể không nhắc
tới Luật XII bảng, Bộ Luật Justinian, tên tuổi các luật
gia La Mã nổi tiếng như Gai, Pavel, Ulpian,
Modestin, Papinian và Hoàng đế Justinian.
Khái niệm luật “dân sự” La Mã rộng hơn so với khái
niệm luật dân sự Việt Nam, bao gồm cả tố tụng dân
sự, hôn nhân gia đình. Luật dân sự La Mã bao gồm
nhiều chế định khác nhau như sở hữu, nghĩa vụ hợp
đồng, thừa kế, thực hiện công việc không có ủy
quyền, được lợi tài sản không có căn cứ… Trong đó,
thừa kế là một chế định rất quan trọng.
Thừa kế (hereditas):
Theo quan điểm của Ăng- ghen: “là sự chuyển dịch
tài sản của người chết cho người còn sống”. Quyền
thừa kế là quyền thừa hưởng tài sản của người chết
để lại theo một trình tự do pháp luật quy định. Pháp
luật cho phép những người thừa kế được hưởng di
sản đồng thời buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ
tài sản của người chết.
Luật La Mã quy định hai hình thức cơ bản là thừa kế

theo di chúc (testato) và thừa kế theo luật (intestato),
ngoài ra còn có thừa kế theo lệnh của các quan. Ở
thời kỳ đầu, hình thức chủ yếu là thừa kế theo luật,
sau đó thừa kế theo di chúc trở thành phổ biến hơn.
Thời điểm mở thừa kế:
Là thời điểm người có tài sản chết. Việc xác định thời
điểm mở thừa kế có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
xác định khối di sản của người chết để lại; xác định
sự gia tăng hay giảm sút di sản để xác định trách
nhiệm cho người bảo quản, xác định thời hiệu khởi
kiện (3 năm).
Di sản thừa kế:
Bao gồm khối tài sản thuộc quyền sở hữu của người
chết và các quyền tài sản của người chết chưa thực
hiện (quyền thừa kế, quyền đòi nợ). Một vấn đề rất
quan trọng là theo luật La Mã, các nghĩa vụ về tài sản
của người chết không phải là di sản thừa kế. Ví dụ A
chết để lại tài sản là 100 aosơ (as), A nợ B 30 aosơ,
vậy di sản thừa kế của A là: 100 – 30 = 70 aosơ.
Người thừa kế:
Là những người còn sống vào thời điểm mở thừa kế,
nếu “người thừa kế” là thai nhi thì phải được sinh ra
sau khi người để lại tài sản chết 300 ngày (10 tháng).
Luật XII bảng quy định: “Tôi được biết rằng khi
người đàn bà sinh đẻ vào tháng thứ mười một sau khi
chồng chết thì (ở đó) có việc dường như người đàn bà
có thai sau khi chồng chết, bởi vì Ủy ban mười người
đã ghi rằng con người sinh ra vào tháng thứ mười chứ
không phải vào tháng thứ mười một (bảng IV)”.
Người thừa kế có quyền sở hữu tài sản thừa kế, có

nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của người chết trong
phạm vi di sản được hưởng, có quyền từ chối không
nhận di sản.
Thừa kế theo di chúc (testato):
Di chúc là ý chí chủ quan của người có tài sản định
đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Theo luật gia Ulpian thì: “Di chúc là sự thể hiện ý chí
của chúng ta và ý chí đó được thực hiện sau khi
chúng ta chết”.
Luật La Mã quy định trong di chúc không được phép
“im lặng bỏ qua” đối với hàng thừa kế thứ nhất (các
con, nếu con chết thì các cháu). Nếu “im lặng bỏ
qua” thì di chúc vô hiệu mặc dù tuân thủ đầy đủ các
điều kiện khác. Ví dụ ông A có ba người con là B, C,
D, ông để lại di chúc với nội dung: “Tôi cho hai con
tôi là B và C mỗi đứa một nửa tài sản” mà không ghi
“truất quyền thừa kế của D” thì di chúc vô hiệu vì đã
im lặng bỏ qua D. Nếu A chết tài sản sẽ được chia
theo luật cho B, C, D.
Người lập di chúc có quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ
di chúc vào bất kỳ lúc nào. Nếu có người lập nhiều di
chúc thì di chúc sau có giá trị hơn di chúc trước. Luật
La Mã quy định khá chặt chẽ các điều kiện để một di
chúc có hiệu lực như: người lập di chúc phải có khả
năng lập di chúc (con gái từ 12 tuổi, con trai từ 14
tuổi trở lên, không bị tâm thần, không phạm trọng
tội); hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của
pháp luật (di chúc viết phải được quan tòa, quan chấp
chính chứng thực, di chúc miệng phải có bảy người
làm chứng, người thừa kế phải được chỉ định rõ ràng,

chính xác); người được chỉ định trong di chúc phải là
người có khả năng trở thành người thừa kế (thai nhi
sinh vào tháng thứ mười một, đàn ông từ 25 đến 60
tuổi, đàn bà từ 20 đến 50 tuổi mà không lập gia đình
thì không được hưởng thừa kế…).
Một nguyên tắc quan trọng của luật La Mã và thừa kế
là Semel heres, semper heres – người được chỉ định
là người thừa kế sẽ vĩnh viễn là người thừa kế. Điều
này có nghĩa là luật pháp chỉ công nhận di chúc có
điều kiện phát sinh, không công nhận di chúc có điều
kiện đình chỉ. Ví dụ một di chúc có nội dung sau:
“Tôi không cho con tôi là M hưởng tài sản nếu nó
không thi đậu vào trường Trung cấp pháp lý La Mã”.
Trường hợp này, M vẫn là người được hưởng di sản
thừa kế bởi vì điều kiện trong di chúc là điều kiện
đình chỉ (chấm dứt) trái với nguyên tắc “người thừa
kế là vĩnh viễn”.
Một vấn đề mà trong hầu hết pháp luật dân sự của các
nước có quy định được xuất phát từ luật La Mã là
việc quy định những người được hưởng thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung di chúc (hay còn gọi là
kỷ phần bắt buộc). Ở thời kỳ đầu (thời kỳ Cộng hòa
La Mã sơ khai) thì gia chủ chia tài sản như thế nào thì
sẽ là như thế (Unti legassit super pecunia tutelave
suae rei ita ius esto). Nhưng dần dần về sau đối với
những người ở hàng thừa kế thứ nhất nếu bị người
lập di chúc truất quyền thừa kế thì sẽ được hưởng
một kỷ phần bắt buộc.
Thời kỳ đầu, kỷ phần bắt buộc bằng ¼ một suất thừa
kế nếu chia theo luật. Ví dụ A có hai con là B và C, A

di chúc cho B toàn bộ tài sản, truất quyền thừa kế của
C, vậy nếu A chết thì tài sản của A sẽ được chia như
sau (giả sử A có 100 aosơ):
Một suất thừa kế là 100 : 2 = 50 aosơ
C sẽ được hưởng ¼ 50 aosơ = 12,5 aosơ, B được
hưởng: 100 – 12,5 = 87,5 aosơ.
Dưới thời Hoàng đế Justinian việc phân chia kỷ phần
bắt buộc rất chi tiết với nguyên tắc sau: nếu như một
suất thừa kế được chia lớn hơn ¼ di sản thừa kế thì
kỷ phần bắt buộc là 1/3 một suất thừa kế; nếu như
một suất thừa kế nhỏ hơn hoặc bằng ¼ giá trị di sản
thì kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất thừa kế.
Có thể diễn giải như sau: nếu người chết có số con
nhỏ hơn 4 (1, 2, 3) thì một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3
một suất thừa kế. Còn nếu người đó có 4 con trở lên
thì một kỷ phần bắt buộc bằng ½ một suất thừa kế.
- Ví dụ 1: A có 3 con là B, C, D. A di chúc cho B
toàn bộ 900 aosơ, C và D bị truất quyền thừa kế. Đầu
tiên ta phải xác định một suất thừa kế nếu chia theo
luật = 900 : 3 = 300 aosơ. Vì một suất thừa kế là 300
aosơ lớn hơn ¼ di sản (1/4 di sản bằng 900 : 4 = 225
aosơ) nên C , D mỗi người sẽ được hưởng 1/3 một
suất thừa kế = 1/3 x 300 = 100 aosơ, B được hưởng:
900 – (100 + 100) = 700 aosơ.
- Ví dụ 2: A có 6 con B, C, D, E, G, H; A di chúc cho
B toàn bộ 900 aosơ, những người còn lại bị truất
quyền thừa kế.
Một suất thừa kế là 900 : 6 = 150 aosơ. Vì một suất
thừa kế nhỏ hơn ¼ di sản (225 aosơ) nên một kỷ phần
bắt buộc là ½ x 150 = 75 aosơ. Vậy C, D, E, G, H

mỗi người được hưởng 75 aosơ; B được hưởng: 900
– (75 x 5) = 525 aosơ.
Một nguyên tắc quan trọng khác của luật La Mã là
không được tiến hành chia một di sản vừa theo di
chúc vừa theo luật. Nghĩa là nếu có di chúc thì chỉ
được chia theo di chúc, người được hưởng kỷ phần
bắt buộc không được hiểu là được chia thừa kế theo
luật.
Ví dụ ông A có 2 con là B và C, tài sản của ông là
300 aosơ, ông di chúc cho B 100 aosơ và truất quyền
thừa kế của C. Trong trường hợp này nếu A chết B sẽ
được hưởng toàn bộ di sản (sau khi chia kỷ phần bắt
buộc cho C) vì số di sản không được định đoạt trong
di chúc không chia cho B, C theo luật được. Cụ thể:
C được hưởng một kỷ phần bắt buộc bằng 1/3 của
một suất thừa kế (150 aosơ) = 50 aosơ; B được
hưởng: 300 – 50 = 250 aosơ.
Di tặng (legata):
Là một phần tài sản mà người lập di chúc dành riêng
cho một hoặc nhiều người. Ở thời kỳ đầu luật La Mã
không hạn chế phần tài sản di tặng dẫn đến tình trạng
lợi dụng di tặng để trốn tránh nghĩa vụ. Đến thời
Justinian di tặng được quy định không quá ¼ tổng di
sản. Di tặng không tính vào khối di sản. Việc quy
định di tặng không quá ¼ di sản là rất hợp lý và được
pháp luật nhiều nước trên thế giới kế thừa.
Thừa kế theo pháp luật:
Trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc vô
hiệu thì di sản của người chết để lại được chia theo
luật. So với luật dân sự Việt Nam, luật La Mã có sự

khác biệt về việc phân chia hàng thừa kế mà cụ thể là
quy định theo hàng, bậc như sau:
- Hàng thứ nhất: Các con (các cháu nếu các con chết)
- Hàng thứ hai: Bố mẹ (nếu bố mẹ chết thì ông bà
nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột).
- Hàng thứ ba: Anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng
mẹ khác cha.
- Hàng thứ tư: Họ hàng nội, ngoại theo nhánh ngang
tính từ gần đến xa, từ nội đến ngoại trong phạm vi
sáu đời.
- Hàng thứ năm: Nếu không có những người ở bốn
hàng trên thì quan tòa có quyền quyết định cho vợ
hưởng một phần di sản.
Với việc quy định của luật La Mã ở hàng thừa kế thứ
nhất thì người cháu luôn luôn được hưởng di sản của
ông nếu bố mẹ chúng chết. Còn theo luật dân sự Việt
Nam thì cháu sẽ không được nhận thừa kế của ông
nếu bố mẹ chúng chết cùng thời điểm với ông bà. Ở
hàng thừa kế thứ hai thì bố mẹ ở bậc một, ông bà nội,
ngoại, anh chị em ruột ở bậc hai. Có nghĩa là mặc dù
ở cùng một hàng thừa kế nhưng nếu có những người
ở bậc một (bố mẹ) thì những người ở bậc hai (ông bà
nội ngoại, anh chị em ruột) sẽ không được hưởng
thừa kế. Mặt khác, ông bà nội, anh chị em ruột được
hưởng mỗi người một suất thì ông bà ngoại chỉ được
hưởng ½ một suất thừa kế.
Ví dụ A chết để lại di sản là 400 aosơ, A không có
con, không còn bố mẹ mà chỉ còn ông bà nội ngoại
và anh ruột. Vậy di sản của A sẽ được chia như sau:
ông nội 100 aosơ, bà nội 100 aosơ, anh ruột 100

aosơ, ông ngoại 50 aosơ, bà ngoại 50 aosơ.
Trải qua mấy ngàn năm, luật La Mã nói chung và chế
định về quyền thừa kế nói riêng vẫn là minh chứng
hùng hồn cho quan điểm của những ai cho rằng luật
La Mã là một phần không thể thiếu được của văn
minh nhân loại. Tất nhiên cho đến nay một số quy
phạm của luật La Mã không còn phù hợp nữa. Điều
đó cũng dễ hiểu bởi vì điều kiện xã hội, kinh tế, chính
trị của xã hội La Mã khoảng hai ngàn năm về trước
khác xa so với bây giờ. Dẫu sao một số quy định của
luật La Mã thiết nghĩ rằng có thể được kế thừa vào
luật dân sự Việt Nam. Ví dụ như quy định của luật La
Mã về di tặng không được quá ¼ di sản và trên cơ sở
đó có thể quy định cụ thể về phần di sản được dùng
vào việc thờ cúng (ví dụ như không quá ¼, không
quá 1/5 di sản). Nếu có những quy định cụ thể như
vậy thì việc thực thi quyền thừa kế trên thực tế sẽ dễ
dàng và đồng nhất tránh được tình trạng hiểu và vận
dụng luật pháp một cách không đồng bộ, nhất quán.

×