Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN LUẬT KD pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.03 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
LỜI CÁM ƠN
PHẦN 1 : MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ LUẬT PHÁ SẢN 3
1/ Khái quát về phá sản 3
2/ Sự khác nhau giữa phá sản và giải thể 4
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP 5
1/ Những đối tượng của phá sản doanh nghiệp 5
2/ Thực tiễn phá sản doanh nghiệp ở nước ta 6
3/ Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và
thủ tục tuyên bố phá sản 8
4/ Hội nghị chủ nợ 9
5/ Hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp 10
6/ Tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh
nghiệp 11
7/ Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp 13
8/ Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và vấn đề xử lý
vi phạm 15
9/ Một số vấn đề cần khắc phục của Luật phá sản năm 2004 16
PHẦN 2 : KẾT LUẬN 17
Tài liệu tham khảo 18
1
Lời mở đầu
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã có rất nhiều loại hình doanh
nghiệp ra đời, tồn tại và phát triển như: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, các loại hình công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã
hội Các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhau đều được bình đẳng
trước pháp luật. Trong sản xuất kinh doanh cạnh tranh sẽ dẫn đến xu hướng mạnh
được yếu thua. Nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có nhiều đóng góp cho
sự ổn định và phát triển nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách nhà nước, tạo công ăn


việc làm cho người lao động. Nhưng cũng có không ít các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ kéo dài, nợ nần chồng chất, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn,
có thể còn kéo theo nhiều bạn hàng khác rơi vào tình trạng khó khăn về mặt tài
chính, đẩy người lao động vào hoàn cảnh thất nghiệp hoặc gây ra những xáo trộn
trong lĩnh vực phân phối sản phẩm và dịch vụ trên một địa bàn nhất định. Điều đó
sẽ dẫn đến t́nh trạng doanh nghiệp bị giải thể, thậm chí bị phá sản.
Hiện tượng phá sản trong doanh nghiệp là xu hướng tất yếu của quá trình cạnh
tranh đồng thời cũng là quá trình đào thải tự nhiên các doanh nghiệp yếu kém ra
khỏi nền kinh tế, để hình thành và tồn tại các doanh nghiệp mới hoạt động có hiệu
quả hơn. Đối với nước ta việc phá sản vẫn đang là một vấn đề mới, nên thực tiễn
giải quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khan. Vì vậy
em quyết định chọn đề tài : “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” nhằm tìm
hiểu thêm những kiến thức về luật phá sản của nước ta hiện nay. Do thời gian và
hiểu biết còn hạn chế nên bài viết của em không tránh khỏi những sai lầm và thiếu
sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của thầy và các bạn để bài tiểu
luận của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
2
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ LUẬT PHÁ SẢN
1/ Khái quát chung về phá sản
Khái niệm : Theo Điều 2 Luật phá sản doanh
nghiệp của nước ta thì : Phá sản là tình trạng
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ
trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng
các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn.
Pháp luật về phá sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành
để điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Luật phá sản nước ta được ban hành nhằm những mục đích sau:
- Bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ nợ
trong việc đòi nợ

- Bảo vệ quyền lợi của chính phủ doanh nghiệp mắc nợ, xác định trách nhiệm
của các doanh nghiệp mắc nợ
- Bảo vệ lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp bị phá sản
- Bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp kinh
doanh có hiệu quả
Đặc điểm :
- Phá sản là thủ tục thanh toán nợ đặc biệt, khi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản.
- Thanh toán theo danh sách chủ nợ đến hạn và chưa đến hạn.
- Thanh toán nợ trên cơ sở giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
- Chấm dứt hoạt động và chế tàu được áp dụng đối với người quản lý, điều
hành doanh nghiệp (cấm thành lập doanh nghiệp từ 1-3 năm).
Phân loại :
3
Phân loại phá sản
Phá sản tự nguyện &
phá sản bắt buộc
Phá sản trung thực &
phá sản gian trá
Phá sản doanh nghiệp &
phá sản cá nhân
2/ Sự giống và khác nhau giữa phá sản và giải thể.
Giống nhau:
- Doanh nghiệp dừng hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Bị thu hồi con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản.
Khác nhau :
Phá sản doanh nghiệp
- Phá sản doanh nghiệp khi không có khả năng thanh toán
- Thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp

- Phá sản theo quyết định của Tòa án – cơ quan tài phán Nhà nước
- Cách thức thanh toán tài sản được thực hiện thông qua cơ quan trung gian là
Tổ thanh lý tài sản quyết định
- Doanh nghiệp có được mua lại trường hợp này chỉ thay đổi chủ sở hữu
doanh nghiệp
- Giám đốc doanh nghiệp phá sản phải ngừng giữ chức giám đốc ở một doanh
nghiệp khác ít nhất là 2 năm
Giải thể doanh nghiệp
- Giải thể xuất phát từ chủ doanh nghiệp không muốn tiếp tục kinh doanh do
không đạt được mục đích, hết thời hạn kinh doanh,…
- Thủ tục giải thể là thủ tục hành chính
- Giải thể do chủ doanh nghiệp hoặc cơ quan quản lý Nhà nước quyết định
- Khi giải thể chủ doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp , hợp tác xã trực tiếp thanh
toán tàu sản, giải quyết nợ nần với chủ nợ
- Khi giải thể doanh nghiệp bị xóa tên trong sổ đăngký kinh doanh, chấm dứt
sự tồn tại và hoạt động trên thực tế
- Người quản lý điều hành không bị cấm thành lập quản lý doanh nghiệp khác
4

CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG – MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁ
SẢN DOANH NGHIỆP
1/ Những đối tượng của phá sản doanh nghiệp.
Đối tượng bị yêu cầu tuyên bố phá sản:
Đó là các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã
hội, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã,
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần.
Cá nhân kinh doanh, nhóm kinh doanh theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2-3-
1992 của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ) không thuộc phạm vi áp dụng
luật phá sản doanh nghiệp tức là những người này không phải là đối tượng bị tuyên
bố phá sản.

Đối tượng được quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp:
Theo quy định của luật Phá sản năm 2004 từ điều 13 đến điều 18 thì đối tượng
có quyền nộp đơn yêu cẩu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã bao gồm:
- Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần (Điều 13);
- Đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động (Điều 14);
- Chủ doanh nghiệp, đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã (Điều 15);
- Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước (Điều 16);
- Các cổ đông công ty cổ phần (Điều 17);
- Thành viên hợp danh công ty hợp danh (Điều 18).
Tuy nhiên, đối với các cơ quan như: Toà án, Viện Kiểm sát, cơ quan công an, cơ
quan thanh tra, cơ quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán, cơ quan quyết định thành
lập doanh nghiệp khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình phát hiện thấy
doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản thì không có quyền nộp đơn
nhưng phải thông báo cho đối tượng có quyền nộp đơn biết. Đây là điểm mới so
với luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993.
2/ Thực tiễn phá sản doanh nghiệp ở nước ta.
Một doanh nghiệp khi đã có đầy đủ dấu hiệu của phá sản thiết nghĩ cũng nên
nhanh chóng xử lý theo luật, nhằm hạn chế những tổn thất rủi ro cho các nhà đầu
tư vào doanh nghiệp, hạn chế những tác động xấu mang tính phản ứng dây chuyền
lên toàn bộ nền kinh tế. Nợ, cấu trúc vốn và vấn đề phá sản của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam quản trị tài chính trong các doanh nghiệp có những lúc bị xem
nhẹ. Việc lựa chọn nguồn vốn đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh đôi khi được
hình thành một cách tự phát, không dựa trên những nguyên lý cơ bản của một
chiến lược quản trị tài chính hiện đại, kết hợp với tình trạng đầu tư tràn lan kém
hiệu quả và không đúng sở trường và chức năng hoạt động như : chứng khoán, địa
ốc trong bối cảnh biến động khó lường của những thị trường này thì tình trạng thua
lỗ khó có thể tránh khỏi. từ thực tế đó tình hình nợ và nợ xấu tại các doanh nghiệp
đã và đang phát sinh khó có thể kiểm soát.
Hàng ngày, trên các mặt báo đều có thêm tin nóng về tình hình các doanh
nghiệp thiếu vốn, thua lỗ, nợ thuế, ngừng nộp thuế chờ giải thể hoặc phá sản. Nếu

trước đây, việc đăng ký thành lập doanh nghiệp ồ ạt, chỉ trong vòng chục năm, từ
chỗ vài nghìn doanh nghiệp tư nhân
vọt lên 500.000, cùng với nó là số
doanh nghiệp nhà nước giảm dần do
sắp xếp lại, cổ phần hóa để cả nước có
khoảng 600.000 doanh nghiệp hoạt
động thì giờ đây, xu hướng gần như
ngược lại. Chỉ trong vòng vài năm, số
doanh nghiệp phá sản, chờ phá sản đã
tới 80.000, chỉ riêng từ đầu năm 2012
đến nay đã có 49.000 doanh nghiệp
phá sản (giải thể), chờ giải thể trong
khi các doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
không tăng đáng kể.
Vì sao doanh nghiệp chết mà không đem chôn ?
Thứ nhất,những quy định của Luật phá sản năm 2004 chưa phù hợp với thực tế.
Đặc biệt liên quan đến căn cứ xem xét doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ hai,thời gian , thủ tục giải quyết phá sản rất lâu, thông thường là từ một
năm trở lên.
Thứ ba,khả năng đòi nợ của doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản rất thấp.
Theo thống kê thì số nợ mà chủ nợ có thể nhận lại sau khi tuyên bố phá sản là
khoảng 15%.
Thứ tư, Việc khởi kiện ra tòa yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng khả thi
hơn. Bởi vì, nếu khởi kiện ra Tòa mà doanh nghiệp mắc nợ còn tài sản thì chủ nợ
sẽ dễ dàng thu hồi hơn sau khi có bản án của Tòa án.
Thứ năm, tâm lý người nộp đơn rất e ngại khi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản. Bởi vì, họ vừa mất thời gian, chi phí nhưng khi thanh toán thì cũng được thanh
toán bằng với các chủ nợ khác theo tỷ lệ tương ứng.
Thứ sáu,việc quy định trách nhiệm, nghĩa vụ của người đại diện doanh nghiệp

không rõ ràng. Vì vậy, thông thường người đại diện theo pháp luật họ sẽ không tự
nguyện nộp đơn mặc dù họ biết rất rõ doanh nghiệp của mình đã lâm vào tình trạng
phá sản.
Thứ bảy, các cơ quan giám sát quản lý doanh nhiệp quá yếu kém. Việc yếu kém
này thể hiện khi gần như không có cơ quan nào phát hiện doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản hay không có cơ quan nào giám sát và có biện pháp thích hợp
đối với doanh nghiệp phá sản.
Luật Phá sản cũng chưa quy định rõ ràng thời điểm ngừng thanh toán nợ của
doanh nghiệp phá sản, gây khó khăn trong việc thanh lý và quản lý tài sản nợ của
doanh nghiệp, đặc biệt là các khoản công nợ hay nợ tín dụng ngân hàng. Trong khi
Luật chưa thể sửa đổi thì tòa án thường “khuyến khích” các doanh nghiệp phải
hoàn tất thủ tục kiểm toán và thẩm định giá trị tài sản, chia sẻ bớt “công việc” cho
tòa án. Nhưng một khi chưa phải là yêu cầu bắt buộc, liệu có doanh nghiệp nào
đang chuẩn bị phá sản lại thiết tha việc chia sẻ gánh nặng cho tòa án?
Trên thực tế, nhiều đơn vị liên quan khác như chủ nợ (điển hình là ngân hàng),
cơ quan chủ quản, cơ quản quản lý thị trường chứng khoán chẳng ai muốn doanh
nghiệp bị phá sản. Do đó, tất cả những đơn vị này thường tạo điều kiện hỗ trợ tối
đa cho doanh nghiệp với mong muốn doanh nghiệp không bị phá sản.
Đối với ngân hàng là chủ nợ của doanh nghiệp, tin phá sản của doanh nghiệp
không thể là điều tốt lành vì dù có phát nãu tài sản đủ bù vào chố nợ của doanh
nghiệp đi chăng nữa thì ngân hàng cũng phải chịu bao phiền phức. Trong tình thế
cực chẳng đã đó, ngân hàng thường chọn phương pháp ít tổn thương hơn là thỏa
thuận lại với chủ sở hữu của doanh nghiệp. Ngân hàng có thể tìm thấy lối ra bằng
cách trở thành cổ đông của công ty đó (một cách bất đắc dĩ) hoặc rao bán lại số nợ
cho bên thứ 3.
3/ Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp và thủ tục tuyên bố phá sản.
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp huyện
đó, Toà án nhân dân cấp tỉnh xử lý các vụ việc liên quan đến các đối tượng còn lại.

Việc tiến hành thủ tục phá sản tại Toà án nhân dân cấp huyện do một Thẩm
phán phụ trách, tại Toà án nhân dân cấp tỉnh do một Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm
phán gồm có ba Thẩm phán phụ trách.
Thụ lý đơn và Thủ tục tòa án
Trong thời hạn 30 ngày sau khi thụ lý đơn, Tòa án sẽ xem xét đưa ra Quyết định
mở hoặc không mở thủ tục phá sản sau khi xem xét tất cả các căn cứ chứng minh
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể của Luật
này, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh và thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc quyết định chuyển từ áp dụng thủ tục
phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ tục thanh lý tài sản, các khoản nợ
hoặc tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ
thông báo quyết định mở thủ tục phá sản đến doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản và thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để quản lý, thanh lý tài sản của doanh
nghiệp đó.
Tổ Quản lý, thanh lý tài sản
Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lập để quản lý, giám sát việc sử dụng tài sản
của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản doanh nghiệp và chịu
trách nhiệm trước thẩm phán về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
4/ Hội nghị chủ nợ.
Hội nghị chủ nợ được Thẩm phán triệu tập và chủ trì để thông qua các vấn đề
về kiểm kê tài sản, phê duyệt phương án phục hồi hoạt động kinh doanh, phương
án thanh lý tài sản và các vấn đề khác liên quan.
Thẩm phán ra quyết định áp dụng phục hồi hoạt động kinh doanh khi được Hội
nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Thời hạn để doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh là 3
năm.
Khi doanh nghiệp đã hoàn thành xong phương án phục hồi kinh doanh, Thẩm
phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và doanh

nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được coi không còn lâm vào tình trạng phá sản.
Thanh lý
Trong những trường hợp sau, Thẩm phán ra quyết định thanh lý tài sản của
doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản:
- Doanh nghiệp đã được áp dụng các biện pháp phục hồi kinh doanh nhưng vẫn
không phục hồi được và không thanh toán được nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu;
- Hội nghị chủ nợ không thành do chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp không tham gia Hội nghị chủ nợ hoặc không có đủ số chủ nợ tham
gia Hội nghị chủ nợ;
- Hội nghị chủ nợ ra nghị quyết thông qua giải pháp dự kiến phục hồi hoạt động
kinh doanh nhưng doanh nghiệp không xây dựng phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh hoặc thực hiện không đúng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh.
Sau khi đã thanh toán các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản thế chấp hoặc cầm
cố, việc phân chia, thanh lý các tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản sẽ thực
hiện theo quyết định của Thẩm phán theo thứ tự ưu tiên sau:
- Chi phí cho việc giải quyết phá sản doanh nghiệp;
- Lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội của người lao động của doanh nghiệp;
- Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ
nợ theo nguyên tắc luật định.
5/ Hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp.
*Hòa giải:
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba
làm trung gian để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp
nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản lien quan đến nhiều vấn đề của doanh
nghiệp, từ giải quyết quan hệ vay- nợ giữa chủ nợ và doanh nghiệp, đến quan hệ
lao động, đất đai, hợp đồng,,, và các tranh chấp liên quan đến con nợ. Song phá sản
chưa được coi là một vụ án, và chưa được tiến hành như một thủ tục tố tụng đặc
biệt. Mối quan hệ giữa Luật phá sản doanh nghiệp với các luật liên quan như Luật

Doanh nghiệp, Luật Thương mại,… chưa được làm rõ và thiếu thống nhất.
Hiện tại, pháp luật quy định tòa án chỉ thụ lý giải quyết phá sản khi doanh
nghiệp bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do 2 nguyên nhân:thua lỗ, hoặc rơi
vào trường hợp bất khả kháng.
Luật hiện hành quy định chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau khi tòa đã
mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nhưng việc tẫu tán tài sản có thể
diễn ran gay sau khi con nợ hoặc chủ nợ nộp đơn khởi kiện.
6/ Tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp.
Theo Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 :
Điều 36: Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong các
trường hợp sau đây :
1- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không có
phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp theo quy định tại Điều 20 của Luật này;
2- Chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp không thực hiện
các quy định tại Điều 28 của Luật này;
3- Hội nghị chủ nợ không thông qua phương án hoà giải và các giải pháp tổ
chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp;
4- Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn kinh
doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
5- Trong thời hạn tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng
những thoả thuận tại hội nghị chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản;
6- Trong quá trình giải quyết việc phá sản doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp
tư nhân bỏ trốn hoặc bị chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người
thừa kế.
Điều 37: Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải có những nội dung
sau đây :
1- Tên của Toà án, họ và tên của Thẩm phán giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản doanh nghiệp;

2- Ngày và số thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
3- Tên và địa chỉ của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản;
4- Ngày tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
5- Lý do tuyên bố phá sản doanh nghiệp;
6- Phương án phân chia giá trị tài sản của doanh nghiệp.
Quyết định này phải được gửi cho các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản và Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp.
Điều 38: Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp,
Thẩm phán ra quyết định bảo toàn tài sản thế chấp hoặc cầm cố, tổ chức việc xác
định giá trị của những tài sản đó. Nếu giá trị tài sản thế chấp hoặc cầm cố không đủ
thanh toán số nợ của chủ nợ có bảo đảm, thì chủ nợ đó được tham gia vào việc
phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp như các chủ nợ không có bảo
đảm khác. Nếu giá trị của tài sản cầm cố hoặc thế chấp đó lớn hơn số nợ, thì phần
chênh lệch được nhập vào giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản.
Điều 39: Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp theo thứ tự ưu
tiên sau đây:
1- Các khoản lệ phí, các chi phí theo quy định của pháp luật cho việc giải quyết
phá sản của doanh nghiệp;
2- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của
pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao
động đã ký kết; Các khoản nợ thuế;
3- Các khoản nợ cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ:
a) Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp đủ thanh toán các khoản nợ của
các chủ nợ, thì mỗi chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình;
b) Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp không đủ thanh toán các khoản
nợ của các chủ nợ, thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ của
mình theo tỷ lệ tương ứng.
4- Nếu giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp sau khi đã thanh toán đủ số nợ
của các chủ nợ mà vẫn còn thừa, thì phần thừa này thuộc về:
a) Chủ doanh nghiệp, nếu là doanh nghiệp tư nhân;

b) Các thành viên của công ty, nếu là công ty;
c) Ngân sách Nhà nước, nếu là doanh nghiệp Nhà nước.
Điều 40:
1- Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp, các chủ nợ và doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có quyền gửi đơn khiếu
nại, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định này. Hết
thời hạn đó, nếu không có khiếu nại, kháng nghị, thì quyết định tuyên bố phá sản
doanh nghiệp có hiệu lực thi hành.
Trường hợp có khiếu nại, kháng nghị, thì trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, kháng nghị, Thẩm phán đã ra quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp phải gửi hồ sơ phá sản doanh nghiệp lên Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao.
2- Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ phá sản doanh nghiệp,
một tập thể gồm 3 Thẩm phán do Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối
cao chỉ định phải giải quyết xong khiếu nại, kháng nghị. Quyết định của Toà phúc
thẩm Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng.
Điều 41: Chậm nhất là 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản
doanh nghiệp có hiệu lực, Thẩm phán phải đăng báo địa phương và báo hàng ngày
của Trung ương trong 3 số liên tiếp về quyết định này.Bản sao quyết định tuyên bố
phá sản doanh nghiệp phải gửi cho :
a) Phòng thi hành án dân sự thuộc Sở Tư pháp;
b) Các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản;
c) Viện Kiểm sát nhân dân, cơ quan tài chính, lao động cùng cấp;
d) Cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp.
Đối với Phòng thi hành án, phải gửi kèm theo bản sao quyết định tuyên bố phá
sản doanh nghiệp, những tài liệu cần thiết cho việc thi hành quyết định đó.Thẩm
phán Toà án kinh tế cấp tỉnh phải giám sát việc bàn giao tài sản và các giấy tờ, tài
liệu có liên quan giữa Tổ quản lý tài sản và Tổ thanh toán tài sản.
7/ Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
a) Theo quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp, khi có quyết định mở thủ tục

phá sản, Thẩm phán phụ trách vụ việc ra quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý
tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Tổ quản lý, thanh lý tài
sản áp dụng các quy định của Luật Phá sản và pháp luật về thi hành án dân sự. Tuy
nhiên, hiện nay nhiều vụ việc phá sản tồn đọng, không giải quyết dứt điểm được do
nhiều nguyên nhân khác nhau như không xác định được địa chỉ, chủ thể là con nợ
của doanh nghiệp phá sản cũng như chủ nợ của các doanh nghiệp bị mở thủ tục
phá sản vì những thông tin này trong danh sách mà toà án cung cấp rất chung
chung hoặc thông tin đã lạc hậu.
Để phần nào khắc phục được những vướng mắc này, Toà án có thẩm quyền, Tổ
quản lý, thanh lý tài sản trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản doanh nghiệp
cần xác minh, tìm hiểu và lập hồ sơ về danh sách các chủ nợ, con nợ của doanh
nghiệp một cách chi tiết, đầy đủ. Mặt khác, đối với những quy định pháp luật về
phá sản doanh nghiệp, cần có sự rà soát, đánh giá lại để tìm ra những bất cập, hạn
chế nhằm sớm sửa đổi, hoàn thiện, đảm bảo việc áp dụng trên thực tế được hiệu
quả hơn.
b) Về việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại của Thẩm phán tiến hành
thủ tục phá sản
Quyết định giải quyết khiếu nại của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản được
ban hành trong quá trình giải quyết vụ phá sản có tuyên rõ nghĩa vụ thi hành của
đương sự được thi hành theo quy định tại Luật Phá sản, Nghị định 67/2006/NĐ-CP
ngày 11/7/2006 của Chính phủ “hướng dẫn việc áp dụng Luật Phá sản đối với
doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của Tổ quản lý, thanh lý tài sản” và
Điều 138 Luật Thi hành án dân sự. Trong trường hợp này, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự không ra quyết định thi hành án, mà Chấp hành viên và Tổ quản lý,
thanh lý tài sản căn cứ quyết định của Thẩm phán tiến hành thủ tục phá sản để tổ
chức thi hành. Trường hợp đương sự không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên
(Tổ trưởng tổ quản lý, thanh lý tài sản) có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 21 Nghị định 67/2006/NĐ-CP ngày
11/7/2006 của Chính phủ và khoản 8 Điều 20 Luật Thi hành án dân sự.Trường hợp

có khiếu nại đối với quyết định cưỡng chế thi hành án của Chấp hành viên thi giải
quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
8/ Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và vấn
đề xử lý vi phạm.
Nếu căn cứ vào tính chất của vụ phá sản, có hai loại Phá sản về hiệu quả kinh tế
và Phá sản về tài chính:
1) Phá sản về hiệu quả kinh tế là tình trạng các khoản lợi nhuận ròng thu được
từ hoạt động kinh doanh không tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ ra. Mức lợi nhuận
tương xứng ở đây được hiểu là mức lợi nhuận cơ hội tương ứng với mức rủi ro của
cuộc đầu tư đó. Một doanh nghiệp có thể bị lâm vào tình trạng phá sản về hiệu quả
kinh tế ngay cả trong trường hợp doanh nghiệp đó không có bất cứ món nợ nào.
Bởi lẽ, đối tượng chính được đề cập trong hình thức phá sản này là lợi nhuận kinh
doanh được đo lường độc lập với chi phí trả lãi vay của doanh nghiệp;
2) Phá sản về tài chính được dùng để chỉ một doanh nghiệp bị lâm vào tình
trạng không được thực hiện các nghĩa vụ trả nợ mà nó đã cam kết với các chủ nợ
theo đúng kỳ hạn. Một doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục trong kinh doanh (phá sản
về hiệu quả kinh tế) sẽ bị gánh nặng nợ nần chồng chất và sẽ dẫn tới tình trạng bị
phá sản về tài chính.
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phá sản, có Phá sản trung thực và Phá sản man trá.
Phá sản trung thực là hậu quả khách quan và trực tiếp của tình trạng không thích
ứng của doanh nghiệp mắc nợ trước các đòi hỏi khắt khe và nghiệt ngã của thương
trường Tức là việc phá sản xuất phát từ những nguyên nhân khách quan như thiên
tai, địch hoạ, khủng hoảng kinh tế, chiến tranh, chênh lệch tỷ giá hối đoái… Phá
sản man trá hoàn toàn là hậu quả của những thủ đoạn, hành vi gian dối, có sự sắp
đặt từ trước của chủ doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt
tài sản của các chủ nợ. Chẳng hạn, con nợ gian lận trong việc ký kết các hợp đồng
chuyển giao tài sản, báo cáo sai hoặc đưa ra những thông tin không trung thực
Đây là một hành vi cạnh tranh nguy hiểm và vì vậy thường được xử lý rất nghiêm
khắc về mặt hình sự.
Như vậy, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần được hạn

chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu cực, phá sản cần
phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ đối với doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể hiện một cách
nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác định một
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản…
9/ Một số vấn đề cần khắc phục của Luật phá sản năm 2004.
Luật 2004 ra đời được đánh giá là một cố gắng của các nhà lập pháp Việt Nam
trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật d0oi61 với tình trạng phá
sản doanh nghiệp bằng việc khắc phục những hạn chế bất cập của Luật phá sản
năm 1993. Tuy nhiên để luật thực sự đi vào cuộc sống cần khắc phục những vấn đề
sau:
• Khái niệm phá sản vẫn chưa triệt để, luật nên quy định rõ số nợ và thời
gian quá hạn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán của con nợ
• Luật cần nêu rõ và bảo vệ quyền lợi của các loại chủ nợ
• Luật cần nêu rõ khái niệm, vai trò và quyền lợi hợp pháp của những chủ
nợ mới, nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ mới và góp phần gây dựng lại
sự nghiệp cho các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
• Tính khả thi không cao, rườm rà thủ tục, nên đi vào thực tế và hiệu quả
hơn
• Những quy định quá khắt khe(luật nên tạo đường cho các doanh nghiệp “
thực sự phá sản” tiếp tục hoạt động và phát triển bằng cách xem xét và
sửa đổi lại quy định khắt khe trên)
• Văn bản hướng dẫn thực hiện luật quá chậm
Kết luận
Ở những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, Chế định luật “vỡ nợ” hay
“phá sản” luôn là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp luật về kinh
doanh. Bởi lẽ, trong bối cảnh của môi trường cạnh tranh gắt gao thì việc hiện
tượng phá sản ngày càng trở nên phổ biến hơn là một điều dễ hiểu và dường như
dưới một góc độ nào đó nó còn biểu thị cho mức độ tự do cạnh tranh và sự phát

triển của nền kinh tế. Một chủ thể nào đó có thể bước vào thương trường với sự
công nhận của luật pháp thì họ cũng có thể ra đi khỏi thương trường một cách hợp
pháp khi công việc kinh doanh thua lỗ mà không còn khả năng phục hồi. Việc tòa
án tuyên bố phá sản một chủ thể không còn đủ tư cách kinh doanh trong thương
trường không chỉ có ý nghĩa là bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ và sự an toàn cho
bản thân con nợ mà còn nhằm dọn dẹp và làm sạch môi trường kinh doanh, bảo
đảm sự ổn định của xã hội và kích thích đầu tư.
Pháp luật về phá sản luôn là một hệ thống mở và vận động để phù hợp với các
yêu cầu của mỗi nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau. Tuy nhiên sự hình thành
nhanh chóng các công ty đa quốc gia cùng với toàn cầu hoá trong điều kiện hiện
nay đòi hỏi các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận hiện tượng phá sản một cách
thống nhất, và sư hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia để bảo đảm an ninh kinh tế
chung trên cơ sở giảm thiểu các bất lợi bắt nguồn từ phá sản. Để Luật phá sản thực
sự có tính khả thi thì cần phải đơn giản hóa, rút ngắn thời gian xử lý một vụ phá
sản và nâng cao giá trị thu hồi thực tế. Để làm được việc này cần phải tiếp tục cải
cách hành chính, bổ sung các hướng dẫn cần thiết cũng như cần sự vận hành hiệu
quả của một thị trường thứ cấp cho việc thanh lý các tài sản của các DN bị kiệt quệ
tài chính đến mức phải xử lý phá sản.để tăng cường tính thực thi của Luật phá sản.
Vì vậy, em đã tìm hiểu về Luật phá sản của doanh nghiệp cũng là để biết thêm
về luật kinh doanh của nhà nước, nắm bắt được thêm kiến thức về luật nhà nước
Việt Nam nhiều hơn để có thể áp dụng vào thực tế để không sai sót, không làm trái
luật pháp đã quy định. Là một trong những sinh viên kế toán thì em cần phải có
nhiều kiến thức về chuyên môn kế toán mà còn phải có kiến thức về luật pháp đề
làm việc tránh sai sót gây ra hậu quả không tốt cho công việc sau này của mình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Luật kinh doanh – Trường Đại học công nghiệp TP.HCM.
-Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993
-Luật Phá sản doanh nghiệp năm 2004
-Hỏi đáp về Luật kinh tế_Nguyễn Thị Khế(NXB Thống kê )

-Tài liệu ở các trang web:
- />nghiep 302166.html
- />- />- />duoc.htm?OpenDocument

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×