Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.69 KB, 15 trang )

NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh là một nhu cầu cấp thiết mà chủ
trương đường lối của Đảng và Nhà nước đã xác định và chỉ rõ. Giáo dục
thẩm mỹ là giáo dục cái đẹp và hướng học sinh vươn tới cái "chân - thiện
- mỹ" nghĩa là vươn lên để sáng tạo bằng khát khao nghệ thuật nhằmo hái
lấy những cái đẹp trong kho tàng nghệ thuật vô cùng rộng lớn.
"Cái đẹp" trong nghệ thuận của mỗi dân tộc xét cho cùng thì nó đều
có nguồn gốc căn nguyên từ nghệ thuật của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam
ta là một dân tộc có hơn bốn nghìn năm văn hiến, một dân tộc không chỉ
kiên cường anh dũng trong chống giặc ngoại xâm mà còn rất giàu trong
sáng tạo nghệ thuật để lại cho hậu thế một kho tàng vốn cổ đồ sồ, thất
đáng khâm phục. Vốn cổ dânt ộc đó thật phong phú và đa dạng, nó ẩn
chứa trong mình những nét độc đáo thật bất ngờ !
Trong nền nghệ thuật cổ Việt Nam, tranh dân gian là một giá trị
được nói đến khá nhiều bởi tự thân những bức tranh dân gian mang trên
mình những nét độc đáo, đặc sắc. Từ góc độ tìm tòi, trau dồi chuyên môn,
bằng hiểu biết riêng của mình tôi muốn đi sâu vào nghiên cứu về "nét độc
đáo trong tranh dân gian Việt Nam" lấy đó làm cơ sở cho bài giảng về
tranh dân gian Việt Nam trong chương trình mỹ thuật lớp 6 THCS. Ngoài
ra bài viết này còn cung cấp cho học sinh những điều ma các em chưa
được đọc trong SGK, những điều các em còn mơ hồ. Mặt khác lầy đó làm
phong phú thêm cho hiểu biết về Mỹ thuật dân tộc trong mỗi học sinh
bằng những giờ ngoại khoá - nói chuyện Mỹ thuật.
Là một giáo viên đang giảng dạy Mỹ thuật, tôi mong muốn bài viết
sáng kiến kinh nghiệm này sẽ góp thêm một tiếng nói trong công cuộc giữ
gìn, bảo tồn, phát huy "Nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc".
- 1 -
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
Đất nước ta đã trải qua biết bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử. Với


niềm tự hào là một dân tộc có nền văn hoá lâu đời và đậm đà bản sắc riêng.
Với truyền thống kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm và những tâm
hồn chân chất, giản dị, luôn khát khao cái đẹp. những con người, cháu chắt hiền
hậu của xứ sở "Lúa nước" đã để lại cho hậu thế một kho tàng tranh đủ màu sắc,
những bản khắc gỗ quý giá. Đó là di sản văn hoá - nghệ thuật của dân tộc, của
nền mỹ thuật cổ Việt Nam.
Những hình ảnh ngày xưa ấy có thể bị phủ nhoà bởi thời gian, song
những nét độc đáo, cái đẹp sâu lắng tâm hồn dân tộc thì bao giờ cũng trường tồn
theo thời gian bởi tự thân mỗi bức tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống đã
chứa đựng những nét độc đáo của chúng.
Tranh dân gian xuất hiện nhằm phục vụ nhu cầu thẩm mỹ dân gian, trở
thành một bộ phần nghệ thuật riêng biệt "nghệ thuật dân gian". Đến nay nhân
dân ta vẫn còn yêu thích nâng niu và giữ gìn những tranh dân gian quen thuộc .
Tranh dân gian tồn tại thực sự trong đời sống nhân dân như một tập hợp
nhất định những hiện tượng của văn hoá tinh thần với ý nghĩa là loại hình nghệ
thuật dân gian có 2 đặc trưng là tính nhân dân và tính sáng tạo.
Là sáng tác của nhân dân, nghệ thuật dân gian còn được sáng tác tập thể
với ý nghĩa là do một cá nhân có tài trong một cộng đồng sáng tạo ra đầu tiên
sau đó cùng phát triển đến chỗ hoàn chỉnh. Đó là một nét độc đáo của tranh dân
gian Việt Nam.
Thoạt nghe: "Tranh Tết", "Tranh Thờ" chừng nào ta cũng nghĩ đến cái
chân chất, dân dã chứa đựng trong nó. Đó là sản phẩm nghệ thuật không chuyên
nghiệp. Người sáng tạo cũng như người thưởng ngoạn những tác phẩm ấy phần
lớn là tầng lớp lao động Việt Nam - mà hầu hết là nông dân. Chính vì vậy mà
tranh dân gian Việt Nam phảng phất đâu đây mùi vị, âm thanh đồng nội của
những vùng đất trù phú, màu mỡ. Những tờ "Tranh Tết", "tranh Thờ" là những
khao khát thanh bình, hạnh phúc, những ước nguyện tâm linh chân thành và sâu
sắc.
Cứ mỗi độ Tết đến, xuân về trên những vách đất, tường tre trong căn nhà
lịp xụp, màu sắc tươi ấm của những bức tranh như thổi hồn vào một hơi ấm sưởi

ấm cho những tâm hồn luôn hướng thiện. Những màu sắc như nóng dần lên, dấy
lên những nỗi niềm hy vọng cuộc sống. Tờ tranh đã góp phần tạo nên không khí
- 2 -
Tết cổ truyền của dân tộc. Nếu như về vật chất có bánh chưng, bánh dày, thịt
mỡ, dưa hành thì về tinh thần không thể thiếu vắng tờ tranh, câu đối.
Trải qua mấy trăm năm tồn tại và phát triển, đến nay tranh dân gian vẫn
còn mang ý nghĩa thời đại to lớn. Song hiện nay tranh dân gian không còn phát
triển rầm rộ như ngày xưa nữa. Một phần do các nghệ nhân giỏi ít dần đi, một
phần do thị trường tiêu thụ tranh bị thu hẹp, tranh dân gian đang dần bị mai một
do cuộc sống hiện đại.
Trong hoàn cảnh như vậy, việc nghiên cứu nét độc đáo trong tranh dân
gian nhằm góp thêm một tiếng nói trong công cuộc xây dựng ý thức gìn giữ bảo
tồn và phát huy tính sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật của cha ông ta.
Quá trình hình thành và phát triển của những dòng tranh chính ở Việt
Nam: Tranh dân gian đã tồn tại rất lâu trong phạm vi cả nước, song nói đến
tranh dân gian Việt Nam ta nghĩ ngay đến hai dòng tranh chính:
• Tranh Đông Hồ hay tranh Làng Mái (ở Hà Bắc)
• Tranh Hàng Trống (ở Hà Nội).
Đó là hai dòng tranh tiêu biểu của tranh dân gian Việt Nam, ngoài ra ở
Huế có làng tranh Sình cũng được biết đến từ lâu. Song phạm vi của đề tài này
chỉ tìm hiểu những bức tranh quen thuộc của hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng
Trống.
• Tranh Đông Hồ:
Nổi bật tranh tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam với nhiều giá trị dân tộc
xứng đáng là đại biểu của tranh dân gian Việt Nam, tham gia trong kho tàng
tranh dân gian thế giới (các trưng bày ở Pháp, Nga). Một số nhà nghiên cứu
nghệ thuật cho rằng tranh dân gian Việt Nam nói chung và tranh Đông Hồ nói
riêng có thể ra đời từ thời Lý (1010 - 1225) và thời Hồ (1400 - 1470) được duy
trì và phát triển vào thời Hậu Lê (1427 - 1788), song rõ ràng hơn và được nhiều
người khẳng định: Tranh dân gian Việt Nam được phát triển vào thế kỷ XVII và

sản xuất rầm rộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, cũng từ đây tranh Đông
Hồ được lưu hành gần như khắp cả nước.
Tranh dân gian Đông Hồ được sáng tác tại làng Đông Mại, nhân dân
trong vùng thường gọi nôm na là làng Mái, thuộc xã Hồ Tú, tổng Đông Hồ,
huyện Thuận Thành, tỉnh Kinh Bắc nay là thôn Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc.
- 3 -
Làng Hồ là một làng nhỏ nằm hiền lành bên dòng sông Đuống, làng Hồ
xưa ở bãi bồi sát dòng sông Đuống luôn bị ngập lụt phải nhiều lần chuyển cư
mới vượt đê đến địa điểm ngày nay. Người dân làng Hồ tự hào về nghề nghiệp
của làng quê mình.
"Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có về làng Mái với anh thì về
Làng Mái có lịch có lề
Có ao tắm mát, có nghề làm tranh".
Họ sống một cuộc sống êm đềm, giản dị, trong sáng như những bức tranh
"con đẻ" của họ, nếp sống ấy hãy còn đọng lại trong ký ức của nhiều người.
• Tranh Hàng Trống:
Cũng là một dòng tranh được nhiều người biết đến. Những loại tranh
thuộc dòng này trước kia được sx và bày bán tập trung ở trong mấy phố Hàng
Trống, Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Quạt nhưng nhiều nhất là ở Hàng Trống
- Hà Nội ngày nay.
Một số nghệ nhân Hàng Trống quen cần bút vẽ trực tiếp cả nét và màu
lên giấy. Tuy nhiên phần lớn tranh Hàng Trống sau khi đã in nét thì vẽ màu
bằng tay vì thế ở mỗi tờ tranh đều có nét sáng tạo riêng, vì vậy kết quả bên cạnh
những tờ tranh đẹp, sinh động cũng hông tránh khỏi những tờ tranh khá tuỳ tiện
và xa dần bản mẫu.
Tranh Hàng Trống chủ yếu là "Tranh Thờ" phục vụ cho những điện có
màu sắc đạo giáo như các "thần tướng" Bạch Hổ, Hắc Hổ, Ngũ Hổ uy nghi, Đức
Thánh Trần, ông Hoàng Ba hình tượng gần gũi mà thần bí.

Do nghệ nhân Hàng Trống chiều theo thị hiếu của thị dân lại có ý bắt
chước tranh dân gian Trung Quốc nên cái chất phác hồn hậu của nghệ thuật dân
gian phần nào không được giữ nguyên, tuy vậy tranh Hàng Trống lại có tinh tế
về cả nét và màu
Trong khuôn khổ tiểu luận này chỉ có ở mức tìm hiểu, phân tích khái quát
một số bức tranh quen thuộc nhằm nêu được nét độc đáo đặc sắc trong tranh dân
gian Việt Nam.
II. NỘI DUNG:
- 4 -
Đánh giá về tranh dân gian có nhiều ý kiến khacsnhau. Để thấy được cái
đẹp, cái độc đáo hiện hữu trong tranh dân gian chúng ta cần giải quyết các quan
hệ đã được đặt ra.
• Độc đáo ở chỗ nào ?
• Phải chăng tranh dân gian là một phần bản sắc văn hoá của dân
tộc ?
Tranh dân gian Việt Nam từ trong nhân dân lao động mà ra, nó phục vụ
đắc lực, kịp thời đúng lúc nên được ưa thích trở thành món ăn tinh thần không
thể thiếu. Hình ảnh những bức tranh dân gian đã in sâu vào tâm hồn người dân
Việt Nam và lưu truyền qua biết bao thế hệ ắt hẳn phải thật là độc đáo đáng để
gìn giữ. Cái đẹp thanh cao trong truyền thống dân tộc sẽ tồn tại vĩnh hằng với
thời gian.
1, Tính độc đáo trong nội dung thẩm mỹ - tư tưởng giáo dục sâu sắc:
Qua nghiên cứu, tìm hiểu chúng ta thấy rõ tranh dân gian Việt Nam rất
đẹp -độc đáo và có sức hấp dẫn mạnh mẽ. Bởi đã phản ánh những tâm tư
nguyện vọng, hoài bão chính đáng mà bao đời họ hằng mong ước là có được
cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Nói đến giá trị nội dung của bức tranh khắc gồ dân gian Việt Nam trong
bản báo cáo "Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam", đồng chí Trường
Chinh đã nói: " bên cạnh văn hoá chính thống của các thời đại, có cả một nền
văn hoá nhân dân còn lưu lại trong phương ngôn, ngạn ngữ, Cao dao, truyện cổ

tích, tranh gà, lợn văn hoá này tả sự phấn đấu của những người sản xuất, lòng
mong mỏi, hay chí phản kháng của nhân dân chế diễu hủ tục hay khuyên răn
điều thiện. Đó là kho tàng rất quý, các nhà văn hoá, sử học là khảo cổ nước ta
còn phải dày công tìm bới mới hiểu hết được " (tranh dân gian Việt Nam -
Nguyễn Bá Vân - Chu Quang Trứ - NXB Văn hoá,. 1984).
Thực vậy, muốn hiểu biết được cái đẹp, cái quý của tranh Tết, tranh thờ
chúng ta phải hoà vào với tâm hồn, tình cảm của nhân dân, phải hiểu được hoàn
cảnh lịch sử xã hội cùng những ước mơ nguyện vọng vì cuộc sống của nhân dân
ta thửa trước ta mới thấy được ý nghĩa giá trị của tranh.
Tranh dân gian Việt Nam là một loại hình nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của
nhân dân, tác giả của những bức tranh ấy là những "nghệ sĩ - nông dân", sống ở
ruộng đồng nên họ đã nắm được cái mỹ cảm, hiểu thấu được tình cảm chung
của nhân dân, của dân tộc thể hiện trong tranh. Chính vì vậy mà tranh dân gian
thu hút tình cảm của đông đảo quần chung nhân dân, mà chính họ những người
- 5 -
thưởng ngoạn ấy cũng là những người lao động, những người nông dân quanh
năm quen với cuộc sống ruộng vườn, đồng quê. Chính cái đồng cảm ấy cùng
hoà nên một giai điệu hài hoà, thống nhất trong nội dung của những bức tranh,
nó ăn nhập đi sâu vào lòng người. Một nét độc đáo và rất quý báu !
Nội dung của tranh có tác dụng khích lệ tinh thần yêu nước, giáo dục
khuyên răn mọi người từ nhỏ đến lớn làm điều tốt về lao động sản xuất, về đạo
đức con người, biết yêu những điều hay lẽ phải, yêu chính nghĩa, ghét phi nghĩa,
đồng thời còn tích cực phê phán đấu tranh với những mặt tiêu cực, thói hư tật
xấu của tầng lớp thống trị và trong nội bộ nhân dân.
Nội dung thẩm mỹ trong tranh dân gian mang khá nhiều yếu tố, đặc điểm
dân tộc, mang những nét độc đáo riêng phù hợp với đạo lý, truyền thống dân tộc
(á Đông).
Để chúc tụng nhau và luôn cầu mong một cuộc sống bình yên, luôn được
may mắn giàu sang, con cháu đầy nhà … các nghệ sĩ nông dân đã vẽ nên các
tranh "Đại cát", "tử vi chấn trách", "tiến tài tiến lộc", "vinh hoa, phú quý", "gà

đàn", "lợn đàn"…
Hay để chúc tụng một cuộc sống hạnh phúc vợ chồng con cái sum họp
đoàn tụ, ấm no, thuận hoà quấn quýt bên nhau thì có tranh: "Trống - mái và đàn
gà con" hay còn gọi là "Gà thư hùng". Xưa kia mọi người đều có quan niệm
đông con nhiều cháu là có hạnh phúc và họ luoono cầu mong cho con cái luôn
mạnh khoẻ, có tranh "Thất đồng" (tranh Hàng Trống) vẽ những em bé vui chơi
bên gốc cây đào, thật khoẻ mạnh vui tươi. Tất cả biểu hiện sự dồi dào sung túc
có tư thế tự hào, tự lực như muốn giáo dục với thế hệ sau rằng: hạnh phúc và ấm
no do mình tự tạo ra bằng sức lao động của chính mình. Những bức tranh dân
gian mang trên mình nội dung thẩm mỹ hết sức độc đáo, nó được hình thành
nên từ các nghệ nhân vô danh, họ hập thu từ cuộc sống thực tế, nhận thức và
hiểu một cách thấu đáo rồi chuyển thành những nội dung cô đọng nhất, súc tích
nhất mang đến cho người xem những bức tranh vui tươi, hóm hỉnh mà thật sâu
lắng.
Để tỏ lòng biết ơn và ca tụng công đức của người xưa đồng thời để giáo
dục tư tưởng tinh thần yêu nước, đấu tranh dân tộc trong quần chúng nhân dân
các nghệ nhân đã đem lại cho người xem những dấu ấn lịch sử oanh liệt, hiển
hách của dân tộc như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo,
v.v và mảng tranh theo truyền thuyết thần thoại như: "Phù đồng Thiên Vương
đại phá giặc Âu", "Thạch Sanh" giáo dục cho mọi người biết sống vì chính
- 6 -
nghĩa, lấy điều thiện làm gốc, làm lẽ sống. ấy là tinh thần hiếu nghĩa của dân tộc
Việt Nam ta mấy ngàn năm lịch sử.
Bên cạnh truyền thống lâu đời của dân tộc mà ông cha ta muốn gửi gắm
đến mọi người qua những tờ tranh nhỏ họ còn gửi đến những bức thông điệp về
sự hăng hái, say sưa, nhiệt tình trong lao động sản xuất. Mưu cầu một cuộc sống
đầy đủ về vật chất, thoải mái về tinh thần, sức khoẻ. Những bức tranh tát nước,
cày cấy, chăn nuôi gà lợn, những chú lợn no tròn ủn ỉn bên hông nói lên điều
mong ước những vụ mùa bội thu. Cùng với hoạt động sản xuất thì cũng dành thì
giờ cho những sinh hoạt hội hè một cách vui vẻ, đầm ấm như: "Chợ quê", "ngày

hội", "rước rồng", "đánh đu", "đánh vật", "hứng dừa", "tranh tứ quý", "Xuân Hạ
Thu Đông". Những bức tranh ấy đã nêu bật một cái nhìn toàn cảnh về cuộc sống
bình dị, êm đềm của người dân Việt Nam.
Nếu như chúng ta yếu những cảnh "đánh đu", "đánh vật" bởi chúng ta tìm
thấy ở đó những chàng trai vạm vỡ, khoẻ mạnh, lạc quan, không khí vui tươi
đầm ấm ở những trò chơi lành mạnh, có tính truyền thóng của dân tộc. Chúng ta
rung cảm được trước các cảnh: "Hứng dừa", "đu đôi" bởi vì chúng ta tìm thấy ở
những tranh này tình cảm trai gái êm đẹp, nảy nở từ trong lao động sản xuất, từ
trong lòng trung thực bất chấp mọi nghi lễ phong kiến. Và ngược lại ta khó lòng
chấp nhận cái cảnh rối rắm trăm bề của "kiếp chồng chung" trong bức "đánh
ghen". Hai cảnh ngộ, hai vấn đề trái ngược nhau nhưng cả hai đều có tác dụng
giáo dục con người hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ thuộc phạm trù đạo
đức dân tộc. Những người nghệ sĩ nông dân ấy đã sử dụng một hình thức giáo
dục khuyên răn hết sức tế nhị, sâu sắc và rất độc đáo.
Ngoài ra các bức "thầy đồ cóc", "đám cưới chuột", "Hội Tây - nhảy đầm",
"trai tứ khoái - gái bảy nghề" được sử dụng như là một công cụ để đả kích
những thói hư tật xấu, tệ nạn bóc lột, tạo nên một tiếng cười châm biếm sâu cay
trong quần chúng nhân dân, tiếng cười đó hãy còn vang mãi đến hôm nay trong
sự nghiệp xây dựng những con người mới, cuộc sống mới, nền văn hoá mới hay
nói rộng ra trong cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù của nhân dân. Qua đây ta còn
thấy rõ tầm nhìn thời đại hết sức độc đáo, sâu sắc của những nghệ nhân làng Hồ
những con người suốt đời một nắng hai sương vất vả chăm lo từng hạt gạo, củ
khoai nhưng lúc nào cũng lạc quan yêu đời, yêu cỏ cây tha thiết, lúc nào cũng
ánh lên trong khoẻ mắt niềm tự hào về công việc của mình làm, về sức lực, trí
tuệ mình tạo ra vô vàn của cải vật chất và tinht hần cho xã hội.
Đối với dòng tranh Hàng Trống cũng mang nét tự hào độc đáo tiêu biểu
cho "thẩm mỹ đô thị" dân tộc. Hai dòng tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống
- 7 -
bao đời luôn bổ sung cho nhau nhưng không hề làm cho người quen lẫn lộn. Cái
quý của nghệ thuật là ở chỗ đó. Một chân quê mộc mạc, một thành thị hoa mỹ

nhẹ nhàng hoà quyện vào nhau tạo nên một bộ mặt hết sức độc đáo cho tranh
dân gian Việt Nam. Cũng như tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống gồm nhiều
loại: tranh sinh hoạt, tranh lịch sử, tranh thờ, tranh cảnh vật và tranh minh họa.
Mỗi loại có hàng trăm bức, mỗi bức có một vẻ đẹp khác nhau về nội dung lẫn
cách diễn đạt. Tất cả tạo thành một nét riêng độc đáo, một thẩm mỹ mang tính
chất đô thị dân tộc.
Ở thành thị vốn là nơi "văn hay, chữ giỏi" các nghệ nhân đã dùng chữ tạo
thành tranh, hay cao hơn có chữ ngay trên từng nét. Nghệ nhân dân gian vẽ
hình, khi thì người hoạt động theo một câu chuyền kể, khi thì vật tượng trưng
như rồng, cá, công, nước, mây, trời ngoài việc dùng chữ Hán, chữ Nôm, nghệ
nhận dân gian Hà Nội còn dùng vật tượng trưng và người để tạo nên những bức
tranh đặc sắc. Chỉ nêu lên đây một số hình ảnh thì chúng ta cũng thấy được
nghệ thuật diễn tả của người xưa phong phú và độc đáo biết chừng nào. xin chú
ý đến "tranh gà" hình dáng con gà trống gáy sáng trông đầy oai vệ, đầu ngẩng
lên, mắt mở to, ức ưỡn ra, đuôi xoè rộng đó là lúc đang chuẩn bị cất tiếng gày
chào buổi bình minh. Xung quanh con gà chỉ có cúc và tảng đá đủ để nói lên
được bối cảnh thiên nhiên. Trong tranh dân gian Việt Nam thiên nhiên dường
như đóng vai trò thiết yếu, dù đôi khji chỉ mang tính trang trí nhưng nó đủ để
giải thích quan niệm thẩm mỹ của dân tộc. Thiên nhiên gắn kết hoạt động sinh
hoạt giữa con người và loài vật làm tôn lên vẻ đẹp nghìn đời: thiếu thiên nhiên
là thiếu cuộc sống !
Một nét đặc đặc sắc nữa của tranh Hàng Trống là loại "tranh thờ" đặc biệt
là loại tranh Hổ: "Hắc Hổ", "Bạch Hổ", "Ngũ Hổ" vì được dùng để thờ nên có
danh từ kèm theo là "Thần Tướng" nếu vứt bỏ phương diện mê tín thì ta thấy ở
những bức tranh ấy là một sức sống mãnh liệt, ấn tượng thân thuộc và gần gũi.
Nhìn chung tranh Hàng Trống chuyên vẽ những đề tài đô thị, nó không
chỉ là những bức tranh chúc tụng đơn thuần mà còn phản ánh sinh hoạt của thị
dân, thể hiện ước mơ quan niệm về cuộc sống, nhận thức về vẻ đẹp cuả cha ông
thủơ trước một cách phóng khoáng, mạnh bạo và mang nét độc đáo riêng. Vài
nét khái quát chừng nào ta thấy được sức sáng tạo hết sức độc đáo về nội dung

thẩm mỹ, lân tư tưởng giáo dục trong tài năng ông cha ta đã để lại cho hậu thế.
2, Tính độc đáo của ngôn ngữ nghệ thuật:
Bên cạnh những giá trị độc đáo trong nội dung thẩm mỹ, tính giáo dục
sâu sắc, tranh dân gian còn tồn tại một hình thức tạo hình thật là phong phú,
- 8 -
không kém phần độc đáo. Đó chính là ngôn ngữ nghệ thuật được thể hiện qua
từng bức tranh.
Tranh dân gian xây dựng các hình tượng không phụ thuộc vào mẫu trong
tự nhiên mà cốt gây ấn tượng mạnh theo yêu cầu của chủ đề. Trong quá trình
xây dựng hình tượng, nghệ nhân không bị ràng buộc bởi những cái vụn vặt của
hình mẫu. Từ những cái họ thường gặp đã dần đọng lại trong đầu một hình
tượng không cá thể mà thật tiêu biểu. Các nghệ nhân không bị ràng buộc bởi
quy luật, phép tắc trường quy nào cả mà họ được tự do sáng tác theo sự suy nghĩ
thôi thúc của tình cảm. vốn bản chất họ là những người nông dân Việt Nam nên
những tư tưởng, tình cảm của họ thật là chất phác, hồn hậu mà thâm thuý, ý nhị
rất là Việt Nam.
Đúng vậy ! Cái tư tưởng triết học Phương Đông luôn đâu đây phảng phất
trong từng nét vẽ bay lượn trên giấy, trên bản khắc. Tất cả đều nêu lên tính nhân
văn, nhân đạo của một dân tộc vốn giàu truyền thống yêu nước, thương nòi.
Cách sống giản gị, vô tư, luôn yêu đời cũng thể hiện qua những bức tranh
rất vui tươi hóm hỉnh mà hết sức ý nhị. Cái bản chất lối sống và phong thái
"nghệ sĩ" đã quyện vào nhau cùng làm sáng tỏ chủ đề tư tưởng bằng những hình
tượng gây ấn tượng mạnh mẽ cho người xem. Do khái quát tượng trưng cao nên
hình trong tranh vừa hư, vừa thực, khiến cho người xem nhìn thuận mắt nghĩ
thuận tình ngắm mãi không chán.
• Phân tích khái quát một số bức tranh:
* Tranh đánh vật:
Có bố cục cân xứng, thoán hoạt, hình tượng chắc khoẻ, đơn giản trong
cách sắp đặt. Hình ảnh các đôi vật với vóc dáng lực lưỡng đang đấu trí, đấu sức
quyết liệt, tìm các thế miếng vật để quật ngã đối phương quyết dành phần thắng

về mình đã mô tả rõ chủ đề. Các nhân vật được sắp đặt ở những vị trí xứng đáng
càng tôn thêm vẻ đẹp tinh thần thượng võ và gợi được không khí đua tài trong
ngày hội vật. Cảnh hai đô vật đang ngồi ôm đùi thu trước ngực gợi lên tiết trời
xuân còn se lạnh với ánh mắt, nét mặt chăm chú theo dõi cuộc đua tài. Phía trên
hai xâu tiền thưởng hay tràng pháo treo hai bên như đang treo ở trước sân đình
chỉ bằng vài chi tiết đó đã tạo được không gian và không khí của ngày hội vật
một cách tài tình và độc đáo.
* Tranh đánh ghen:
Mảnh hình và màng trống cân đối nhịp nhàng. Tranh không diễn tả chiều
sâu không gian và thời gian diễn ra sự việc khắc hoạ được thái độ ghen tuông
- 9 -
quyết liệt của người vợ cả, dáng vẻ vênh váo chanh chua của người vợ lẽ được
chồng yêu và chân dung điệu bộ của anh chàng đa thê muốn dàn hoà mâu thuẫn
trong gia đình với triết lý ích kỷ "thôi thôi bớt giận làm lành, chi điều sinh sự
nhục mình, nhục ta". Tranh miêu tả khái quát nhưng lại rất thực, toàn bộ cảnh
kịch chiến được đặt trên nền đỏ tươi của nền tranh làm tăng thêm sức mạnh của
chủ đề, nêu bật tiếng cười thâm thuý, mỉa mai của quần chúng nhân dân với lối
sống đa thê nhiều thiếp.
* Tranh hứng dừa:
Miêu tả bằng khía cạnh trào lộng, vui vẻ và hóm hỉnh. Hình ảnh vững
chãi của cây dừa và nét uyển chuyển của hai nhân vật làm cho khung cảnh thêm
sinh động, hồn nhiên mộc mạc. Với không gian miêu tả ước lệ, ý nhị đã nêu bật
tình cảm sôi nổi, chân thật của tuổi trẻ không muốn bị gò bó trói buộc. Trong
khuôn khổ của xã hội phong kiến.
Khen ai khéo dựng nên dừa.
Đấy trèo đây hứng cho vừa một đôi.
Hình ảnh và lời thơ quyện chặt lấy nhau phản ánh tình cảm lứa đôi trong
sáng, mộc mạc, một lối sống đẹp của thanh niên nam mữ lúc bấy giờ. Một cái
nhìn mới mẻ, độc đáo của các nghệ nhân ta.
Bên cạnh yếu tố thâm thuý giản đơn mà hồn hậu hóm hỉnh các nghệ nhân

đã đi đến nắm bắt được yếu tố tạo hình ở mức độ cao hết sức độc đáo trong
tranh: Đó là "ước lệ tạo hình dân gian". Trong hầu hết các bức tranh dân gian cả
ánh sáng, không gian, con người và cảnh vật đều được ước lệ. Không gian ước
đòi hỏi ở trên nó cũng phải ước lệ để làm sao gợi được nhiều nhất vì thế hình
được thể hiện nhìn từ nhiều góc độ, từ nhiều khoảng cách để có thể phô diễn
được đầy đủ nhất.
Con lợn muốn rõ nhất phỉa được vẽ ở thế nhìn ngang như mõm lại như
nhìn từ phía trước. Cảnh hứng dừa, cây dừa được thu nhỏ lại để tương ứng với
người trèo và người hứng. Trong cảnh chuột vinh quy: Chuột tiến sĩ cưỡi con
ngựa chỉ nhấp nhỉnh nó nhưng vẫn thấy thuận mắt. cái thế giới trong tranh gồm
đủ cả 3 tầng: trời, trần và dưới đất. Chỉ cần vài chi tiết là gợi ra cái không gian
cần cho sự việc xẩy ra. Muốn đạt tới mức nhập tâm đó người nghệ sĩ buộc phải
quan sát rất nhiều lần con người và cuộc sống xung quanh, phải thấu hiểu trạng
thái bên trong lẫn bên ngoài của con người và cuộc sống đó.
Lấy "đơn tuyến bình đồ" làm nền tảng, lấy "ước lệ tạo hình dân gian" làm
tiêu chuẩn, nghệ nhân xưa đã tạo được nhiều bốc cục tranh phong phú. Tranh lá
- 10 -
mét, tranh phá ba, tranh cỡ lớn hay tranh nhị bình, tứ bình, tranh đơn hay tranh
đối, tranh có khung viền hay không có khung viền ngoài hầu hết đều theo hình
chữ nhật nằm dọc hay ngang, trên đó các hình tượng được vẽ ra theo ước định
nhất định cả về không gian lẫn thời gian.
Tính "ước lệ tạo hình dân gian" thật đa dạng:
- Có lúc đặt từng nhân vật, hình tượng trên mặt phẳng tưởng chừng không
chú ý gì đến tỷ lệ xa gần, lớn bé như trong tranh đánh vật.
- Có lúc từng hoạt cảnh riêng lẻ của mọi công việc diễn ra từ dưới bức
tranh và tuần tự ngược dần lên trên đầu bức tranh trong bản đồ canh nông.
Nhưng cũng có lúc bố cục tranh tuân thủ chặt chữ "ước lệ tạo hình dân
gian" hình tượng ơ rgần to hơn hình tượng ở xa, người lớn được vẽ to hơn đưa
bé, hình tượng chủ yếu được đặt ở vị trí xứng đáng trên mặt tranh. "ước lệ tạo
tạo hình dân gian" còn được thể hiện ở cách tả người, tả vật:

Ví dụ: người thiện với gương mặt tròn bầu hiền tư, dáng người khoan thai
nho nhã. Người ác: được miêu tả má bạnh, mày xách mắt trợn, tay đao tay kiến,
chân chữ bát
- Con trai: vai to nở nang, mạnh khoẻ.
- Con gái: yếm thắm, váy dài, vai xuối lẳng.
- Trẻ em: Tóc chỏm đoà, mày lá liễu, trán thông minh, đôi mắt sắc, mồm
mím lại như đang cười mĩm, mặt tròn đầy như trăng rằm đôi vai cong xuôi liền
với hai cánh tay tròn chắc.
Diễn tả vật cũng vật "ước lệ tạo hình dân gian" lâu dần trở thành "phong
cách tạo hình dân gian".
Lấy việc tả "con lợn ăn cây ráy" làm thí dụ: toàn thân con lợn được cách
điệu khá cao về mặt nghệ thuật trông như nửa thực nửa hư. Dáng đứng bình
thản, bốn chân dạng ra, bụng xề xuống, lưng cong, mũi như nhìn từ ở thế đối
mặt, đuôi xoà như chiếc quạt, cái xoáy âm dương nhỏ to trên lưng (theo quan
niệm á Đông xoáy âm dương tượng tưng cho sự sinh tồn).
Lối cách điệu này trông thật táo bạo, nhưng là cái táo bạo có suy nghĩ tìm
tòi, có chủ định nghệ thuật rõ ràng.
Chính những yếu tố mang đậm chất tạo hình như vậy đã lưu lại trong
người xem những ấn tượng sâu sắc và tranh dân gian Việt Nam đã tìm được chỗ
đứng cao trên diễn đàn văn hoá dân gian trong nước và trên thế giới.
- 11 -
3, Tính độc đáo trong "ngôn ngữ tạo hình" (màu sắc - đường nét -
hình mảng) chất liệu và hình thức thể hiện:
* Chất liệu: (giấy in và bảng màu):
Giấy in: Một nét độc đáo nữa trong tranh dân gian Việt Nam và Đông Hồ
nói riêng và loại Giấy Dó, một loại giấy mang tính biểu cảm cao. Đây là loại
giấy có thể tạo ra và giữ được cái tươi mát, sáng sủa mịn màng của hình, nét và
màu sắc. Trước kia những tờ tranh làm bằng giấy dó thường chỉ có 3 nền màu:
vàng - hồng - trắng (điệp). Giấy có nền màu trắng sáng gọi là giấy điệp vì được
phủ lên một lớp hồ điệp trắng óng ánh. Dung dịch pha chế này được khuấy,

đánh cẩn thận từ trạng thái nóng đến trạng thái nguội sau đó dùng chổi thông
quét nhẹ mấy lượt điệp lên giấy dó. Nhờ chổi thông mềm giấy điệp có được
những đường vạch tinh tế mềm mại như những thớ gỗ, thớ tre trông vừa tự
nhiên vừa mang tính nghệ thuật cao mà bản thân giáy và điệp không thể tạo ra
được. Chính loại giấy này đã góp phần không nhỏ đến tính thẩm mỹ độc đáo
của những bức tranh.
Bảng màu: (màu in tranh) bảng màu cổ truyền được lấy và pha chế để sử
dụng in tranh chủ yếu từ cỏ cây, thảo mộc thiên nhiên sẵn có, màu in này được
gọi là "thuốc cái". Đó là kết quả của công trình lao động, sự độc đáo trong tìm
tòi qua nhiều năm và nhiều thế hệ.
Bảng màu cổ truyền gồm có:
- Màu son đỏ thắm được nghiền ra từ đất đồi.
- Màu đỏ vang được lấy từ gỗ cây vang (đun kỹ, cô đặc).
- Màu đen được lấy từ than rơm, than lá tre khô.
- Màu xanh chàm được lấy từ lá cây chàm (ngâm vôi, lọc kỹ).
- Màu vàng được lấy từ hoa hiên.
- Màu trắng điệp được lấy từ vỏ con điệp, tán nhỏ mịn.
Đây là những màu nghiên chất tươi sáng, nó gắn liền với vẻ đẹp thiên
nhiên màu sắc của đất nước chúng ta. Đồng thời lại phù hợp với những căn nhà
thấp tối củă người dân lao động ngày trước.
* Đường nét và màu sắc trong tranh dân gian Việt Nam:
Hầu hết tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam rất chú trọng về đường nét.
Chính đường nét làm nên hình cho tranh, đường nết khoanh lấy các mảng màu
và giữ cho màu đằm trên giấy. Đường nét được xem là "dáng" còn màu là
"men", tất nhiên phải có "dáng" đẹp và "men" hay thì tác phẩm mới giá trị
- 12 -
nhưng đóng góp vào thành công thì dáng là chủ đạo. "nhất dáng nhì men" là thế.
Đường nét đã ổn định thì từng mảng màu sẽ ổn định, toàn bộ hình cũng ổn định
tạo nên sự ăn nhịp với mảng màu gây hiệu quả hài hoà.
Cách sử dụng màu sắc và điển hình dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ

nhân tạo nên sự nhất quán giữa nội dung và hình thức diễn tả tình cảm, tính
cách nhân vật như tranh: Đánh vật, hứng dừa, đánh ghen, gà đàn, đám cưới
chuột với những nét khắc viền đậm dứt khoát, khoẻ mà không khô cứng, chức
nhưng mềm mại của tranh Đông Hồ, nét viền thanh mảnh và uyển chuyển nhẹ
nhàng, mượt mà của tranh Hàng Trống như: công chúa, cá chép ngắm trăng,
tam đa, thất đồng và những hình ảnh của xã hội đương thời đã được tái tạo rất
điển hình trong phong cách truyền thống càng tăng thêm vẻ đẹp của tranh.
Hình ảnh cô đọng, đường nét đã được chọn lọc rồi, các nghệ nhân thể
hiện ra bằng các vạch mạnh, dứt khoát và lưu loát đặt đâu trúng đấy, tạo ra
những hình tượng đi thẳng vào nghệ thuật cảm thụ của người xem.
Đường nét trong tranh dân gian chẳng những tạo ra dáng hình mà còn gợi
ra được tính cách và thể chất của đối tượng. Trong tranh hứng dừa, đường con
của người trèo và người hứng đều mơn mởn, nhởn nhơ đầy chất rỡ tình, toát lên
sự êm ái của da thịt, lạc quan hồ hỡi của tâm trí.
Việc sử dụng màu sắc rất tài tình có thể nói đã đạt tới chuẩn mực tuyệt
mỹ, mỗi tranh mỗi vẽ. Những hoà sắc tương phản, rực rõ mà không sặc rõ loè
loẹt.
Những đường nét - hình mảng được đặt ra hợp lý đúng lúc, đúng nơi càng
làm tăng thêm vẻ đẹp đầy tính thẩm mỹ của những bức tranh khắc gỗ Việt Nam,
vẻ đẹp ấy vẫn tồn tại cho đến ngày nay và là nền tảng cho việc phát triển nền
nghệ thuật dân tộc.
* Hình thức thể hiện:
Một trong những nét độc đáo khác mang đặc điểm dân tộc của tranh khắc
gỗ dân gian Việt Nam là nghệ thuật, kỹ thuật khắc - in tranh. Cho đến nay
chúng ta mới rút ra được 3 phương pháp chủ yếu:
- Sử dụng nhiều bản gổ: một bản nét và nhiều bản gỗ màu.
- Chỉ sử dụng 1 bản gỗ nét (không có bản gỗ màu) và tô màu.
- Không sử dụng gỗ nào, chủ dùng bút lông hoặc cọ mềm vẽ trực tiếp lên
tờ tranh theo thói quen nhà nghề.
- 13 -

Phương pháp thứ 1 và phương pháp thứ 2 được dùng rộng rãi trong việc
in tranh, vẽ nên tranh cũng chính là một tranh những đặc điểm tạo ra nhiều
phong cách nghệ thuật khác nhau.
Việc khắc dán và in tranh là cả một quá trình phức tạp và nghiêm chỉnh.
Nó đòi hỏi ở mỗi nghệ nhân kỹ năng thành thực không chỉ trong việc khắc hình
trên gỗ hoặc tô màu trên tranh mà còn trong việc chọn gỗ, màu sắc, giấy in.
Nhiều tờ tranh, nhiều giấy in, ván khắc của mấy trăm năm trước còn lưu lại đến
ngày nay hãy còn dùng được, còn giữ được màu sắc tươi mát đậm đà chứng
thực điều đó.
Đây là một nét độc đáo nữa mà tranh dân gian Việt Nam đã và mãi mãi
về sau là di sản văn hoá nghệ thuật cho hậu thế, vĩnh hằng với thời gian.
III. TỔNG KẾT:
Tranh dân gian Việt Nam là những giá trị toả sáng trong kho tàng nghệ
thuật dân tộc, góp phần tô điểm cho cuộc sống, làm cho cuộc đời thêm xuân
bằng những tờ tranh Tết sặc sỡ sắc màu và hết sức độc đáo.
Hình ảnh các bức tranh dân gian đã in sâu vào tâm hồn người dân Việt
Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cái đẹp thanh cao trong truyền thống dân
tộc, cái độc đáo trong giá trị nghệ thuật lẫn nội dung thẩm mỹ thì muôn đời vẫn
đẹp, muôn đời vẫn đặc đắc và độc đáo.
Bằng lối tượng trưng, gợi tả trong miêu tả hình tượng nhân vật, kết hợp
nhuần nhuyễn với không gian ước lệ trong việc hình thành nên cái đặc sắc của
mình. Đó là những bức tranh của mình hiểu hẹp là của các nghệ nhân xưa kia,
hiểu rộng ra là của một tâm hồn dân tộc.
Những nghệ nhân dân gian sáng tạo ra những bức tranh nhằm phục vụ
nhu cầu thẩm mỹ dân gian và trở thành một dòng nghệ thuật riêng biệt đến nay
nhân dân ta vẫn còn yêu thích và gìn giữ. Tranh dân gian Việt Nam là một món
ăn tinh thần độc đáo của nhân dân. Nó là ngọn bút hiện thức, trữ tình, hài hước,
phê phán, đả kích sâu sắc, nó là bản dân ca bằng đường nét, màu sắc, hình vẽ,
độc đáo trong phong cách thể hiện. Trong tranh dân gian có những nụ cười
châm biếm đả kích hóm hỉnh mà thâm thuý, ý nhị phù hợp với quan niệm mỹ

học ở những người dân lao động Việt Nam, mang đậm màu sắc tư tưởng triết lý
Phương Đông rõ rệt.
Những bức tranh dân gian còn mang những ý nghĩa giáo dục to lớn, tràn
ngập tính nhân văn, tính thời đại hết sức độc đáo. từ những tờ giấy Dó, những tứ
màu in, "thuốc cái" tưởng chừng như bình thường dưới khối óc bàn tay của các
- 14 -
nghệ nhân đó đã trở thành những công cụ tạo hình thật độc đáo, không thể phủ
nhận.
Bằng nghệ thuật tạo hình, đơn giản về hình thức nhưng người xem cũng
đã thấy được cái thần, cái hồn thâm thuý sâu xa trong mỗi bức tranh kết hợp với
phương thức thể hiện độc đáo tạo thành "mảnh đất sống" của mỗi bức tranh.
Với mảng màu độc đáo trong sáng, rực rỡ. Những màu nguyên chất thô
sơ ấy biến hoà vô cùng phong phú hình thành quan niệm màu sắc độc đáo với
tính dân tộc, tính giai cấp, quyện thành một nguyên thể thống nhất trong vẻ đẹp
độc đáo của tranh. Đó là những giá trị nghệ thuật không bao giờ mất đi mà trái
lại khi xã hội ngày càng văn minh, con người ngày càng phát triển thì càng cần
thiết tìm về với cội nguồn, với văn hoá đặc sắc của dân tộc mà tranh dân gian
góp phần không nhỏ thời gian việc hình thành nên bản sắc văn hoá dân tộc.
Tranh dân gian là một di sản quý báu của nền văn hoá Việt Nam chứa
đựng tình dân tộc, chứa đựng cái đẹp phục vụ cho tư tưởng, tình cảm dân tộc.
Là tinh hoa "ngon ngọt" tích luỹ qua hàng trăm năm vì vậy những con người
hậu thế chúng ta cần trân trọng giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị tích
cực của tài sản vô giá ấy !
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình đồ hoạ - Khoa đồ họa trường mỹ thuật Hà Nội
2, Lược sử mỹ thuật và mỹ thuật học (đào tạo giáo viên THCS) - Chu
Quang Trứ, Phạm Thị Chỉnh, Nguyễn Thái Lai - NXB giáo dục - 1998.
3, Mỹ thuật tập II (giáo trình đào tạo giáo viên tiểu học) - Trình Thiệp -
ứng Thị Châu, Bộ giáo dục - đào tạo - Vụ giáo viên - Hà Nội - 1992.
4, Nghệ thuật đồ hoạ: Nguyễn Trân - NXB Mỹ thuật - Hà Nội - 1995.

5, Tranh dân gian Việt Nam: Nguyễn Bá Vân - Chu Quang Trứ, Nxb
văn hoá 1984.
- 15 -

×