Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Giao trinh KTCT T1 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (674.48 KB, 139 trang )

Giáo Dục Nghĩa Hưng
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ
GIÁO TRÌNH
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC - LÊNIN
TẬP I
HÀ NỘI - 2001
LỜI MỞ ĐẦU
1
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Khoa Kinh tế - Đại học quốc gia Hà Nội là một trong số rất ít cơ sở
đào tạo bậc đại học và sau đại học chuyên ngành Kinh tế chính trị. Vì thế,
theo lẽ tự nhiên, Kinh tế chính trị Mác-Lênin là môn học được đặc biệt coi
trọng trong tất cả các chuyên ngành đào tạo của Khoa.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảng dạy và học tập của giáo viên
và sinh viên trong Khoa, đã từ lâu, Bộ môn Kinh tế chính trị đã tổ chức biên
soạn giáo trình Kinh tế chính trị Mác - Lênin. Tuy nhiên, do tính chất phức
tạp của môn học và do sự vận động không ngừng của sản xuất xã hội, nhiều
vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu, bổ xung để giáo trình được hoàn thiện
hơn. Do đó, việc biên soạn lại giáo trình môn học này là hết sức cần thiết.
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chủ nhiệm Khoa kinh tế, Bộ môn
Kinh tế chính trị tổ chức biên soạn lại giáo trình Kinh tế chính trị Mác-
Lênin. Đây là giáo trình cơ sở, được biên soạn cho sinh viên Khoa Kinh tế
với thời lượng là sáu đơn vị học trình.
Biên soạn giáo trình, một mặt chúng tôi căn cứ vào các luận điểm của
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm, đường lối của
Đảng cộng sản Việt Nam, giáo trình chuẩn quốc gia và mặt khác, chúng
tôi cũng xuất phát từ thực tiễn để giải đáp những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Trong phần thứ hai của giáo trình: Kinh tế chính trị thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sau khi trình bày những nguyên lý kinh tế


chính trị Mác - Lênin, chúng tôi đưa ra những vấn đề có tính nguyên tắc
trong việc vận dụng những nguyên lý đó. Bởi vậy, các chính sách kinh tế
được trình bày dưới góc độ: vừa là công cụ mà nhà nước phải sử dụng để
giải quyết những vấn đề mà kinh tế chính trị đặt ra, vừa phải được hoạch
định trên cơ sở những nguyên lý của kinh tế chính trị.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng chắc chắn giáo trình này không
tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi trân trọng cảm ơn mọi sự góp ý, phê
bình của độc giả và xin tiếp thu để sửa chữa trong lần xuất bản sau.
Tập thể tácgiả
TS. Nguyễn Bích
TS. Phạm Văn Dũng (chủ biên)
TS. Phan Huy Đường
ThS. Lê Thị Huê
ThS. Mai Thị Thanh Xuân
CN. Lưu Khắc Thịnh
2
Giáo Dục Nghĩa Hưng
CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ CHỨC
NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN
I. SẢN XUẤT XÃ HỘI
1. Khái niệm
Để thoả mãn các nhu cầu như: ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh,
giải trí , con người không thể trông chờ vào những gì có sẵn trong tự nhiên,
mà phải tiến hành lao động sản xuất.
Mức độ đáp ứng các nhu cầu của con người phụ thuộc vào trình độ
phát triển của sản xuất vật chất. Sản xuất vật chất là sự tác động của con
người vào tự nhiên, biến đổi các vật liệu của tự nhiên để tạo ra các sản phẩm
phù hợp với các nhu cầu của con người. Sản xuất vật chất bao giờ cũng
mang tính chất xã hội vì muốn tạo ra sản phẩm, con người không chỉ phải

quan hệ với tự nhiên, mà còn phải quan hệ với nhau.
Sản xuất xã hội có lịch sử phát triển lâu dài, đã lần lượt trải qua các
phương thức sản xuất: Cộng sản nguyên thuỷ, Chiếm hữu nô lệ, Phong kiến,
Tư bản chủ nghĩa. Theo C.Mác, sau phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
sẽ là phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa. Những phương thức sản
xuất sau cao hơn các phương thức sản xuất trước cả về lực lượng sản xuất,
cả về quan hệ sản xuất. Theo cách phân chia khác, cho đến nay, sản xuất xã
hội lần lượt trải qua kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá.
2. Vai trò của sản xuất xã hội
Các nhu cầu của con người về ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh,
giải trí ngày càng tăng lên và đòi hỏi phải được thoả mãn thường xuyên.
Phương thức và mức độ thoả mãn các nhu cầu đó phụ thuộc vào trình độ
phát triển của sản xuất xã hội. Sự phát triển của sản xuất xã hội là nhân tố có
ý nghĩa quyết định đối với việc đáp ứng các nhu cầu của con người, cả về số
lượng và chất lượng.
Con người có nhiều hoạt động khác nhau: hoạt động lao động sản
xuất, hoạt động chính trị, tôn giáo, khoa học, giáo dục, quân sự, thể dục thể
thao Mỗi mặt hoạt động có tính độc lập tương đối nhưng đều có quan hệ
với sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất xã hội cung cấp các phương
tiện vật chất cho con người để phát triển các mặt hoạt động khác. Do đó, sự
phát triển của các mặt hoạt động của con người tuỳ thuộc rất nhiều vào sự
phát triển của sản xuất xã hội.
Từ những điều trình bày trên đây có thể rút ra kết luận: sản xuất của
3
Giáo Dục Nghĩa Hưng
cải vật chất là cơ sở, nền tảng của đời sống xã hội; sự phát triển của sản xuất
xã hội là cơ sở phát triển tất cả các mặt của đời sống kinh tế- xã hội.
3. Các yếu tố cơ bản của quá trình lao động sản xuất
Lao động sản xuất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động
tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên nhằm biến đổi các dạng vật

chất của tự nhiên thành sản phẩm thoả mãn các nhu cầu của mình.
Muốn tiến hành lao động sản xuất trước hết phải có các yếu tố cơ bản
sau đây:
Sức lao động: là toàn bộ thể lực và trí lực của con người có thể sử
dụng để tiến hành quá trình lao động sản xuất. Như vậy, sức lao động mới
chỉ là khả năng lao động. Sức lao động là yếu tố quan trọng nhất của qúa
trình lao động sản xuất, vì sức lao động thuộc về con người - vừa là khách
thể, vừa là chủ thể của qúa trình lao động sản xuất.
Khả năng lao động của con người không chỉ tuỳ thuộc vào sức khoẻ,
thể lực mà còn tuỳ thuộc vào tri thức, kỹ năng lao động. Nền sản xuất càng
hiện đại thì tri thức càng trở nên quan trọng tức là đòi hỏi chất lượng sức lao
động càng cao. Vì vậy, trong điều kiện hiện đại, giáo dục, đào tạo có vị trí
đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của sản xuất xã hội.
Đối tượng lao động là tất cả những vật mà lao động của con người
tác động vào, nhằm biến đổi chúng cho phù hợp với nhu cầu của mình. Đó
chính là những vật liệu có sẵn trong tự nhiên, hay các nguồn tài nguyên
thiên nhiên.
Đối tượng lao động có hai loại: thứ nhất là những vật liệu có sẵn
trong tự nhiên như quặng trong lòng đất, cá dưới biển, gỗ trong rừng nguyên
thuỷ ; thứ hai là những vật liệu đã qua chế biến như gang trong lò luyện
thép, sợi trong nhà máy dệt, bột gỗ trong nhà máy giấy Đối tượng lao
động đã qua chế biến gọi là nguyên liệu.
Quy mô sản xuất càng to lớn thì nhu cầu về đối tượng lao động hay
tài nguyên càng tăng. Trong khi đó, trữ lượng các nguồn tài nguyên là có
hạn; sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên là khó tránh khỏi. Vì vậy, bảo vệ các
nguồn tài nguyên; khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên tiết kiệm, có
hiệu quả trở thành yêu cầu cấp bách trong giai đoạn hiện nay.
Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ
truyền dẫn sự tác động của con người vào đối tượng lao động nhằm biến đổi
chúng thành sản phẩm để thoả mãn các nhu cầu của con người.

Tư liệu lao động bao gồm:
- Công cụ lao động là những tư liệu lao động trực tiếp tác động vào
đối tượng lao động, chẳng hạn như: cái cày, cái cuốc, máy móc, thiết bị
4
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Công cụ lao động giữ vai trò đặc biệt quan trọng, đánh dấu sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sở dĩ như vậy là vì, công cụ lao động là sự kết tinh tri
thức và kinh nghiệm của người lao động, trực tiếp quyết định năng suất lao
động và chất lượng sản phẩm. Vì vậy, cải tiến công cụ lao động trở thành
đòi hỏi khách quan và là biểu hiện của sự phát triển của sản xuất xã hội.
- Tư liệu lao động dùng để bảo quản những đối tượng lao động, gọi
chung là hệ thống bình chứa của sản xuất, như là thùng đựng, bể chứa
- Tư liệu lao động còn bao gồm những phương tiện vật chất trực tiếp
hoặc gián tiếp phục vụ chung cho qúa trình sản xuất như: kho tàng, bến bãi,
đường sá, phương tiện vận chuyển, phương tiện thông tin liên lạc hay còn
gọi là kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, kết cấu
hạ tầng được coi là điều kiện không thể thiếu để phát triển kinh tế - xã hội.
Vì thế, xây dựng và hiện đại hoá kết cấu hạ tầng là một nội dung quan trọng
trong phát triển sản xuất xã hội.
4. Hai mặt của sản xuất xã hội
Sản xuất xã hội bao gồm hai mặt: lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất.
a) Lực lượng sản xuất
Sản xuất vật chất, như trên đã trình bày, là sự tác động của con người
vào tự nhiên, biến đổi những vật liệu của tự nhiên để tạo ra các sản phẩm
phù hợp với các nhu cầu của con người. Như vậy, để sản xuất ra của cải vật
chất, con người phải quan hệ với tự nhiên. Quan hệ này được gọi là lực
lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã
hội nhất định, ở một thời điểm nhất định.

Lực lượng sản xuất trước hết bao gồm người lao động với những khả
năng nhất định về sức khoẻ, thể lực cùng những tri thức, kỹ năng lao động.
Với sức lực và trí tuệ của mình, con người sử dụng các tư liệu lao động để
khai thác và làm biến đổi những vật liệu của tự nhiên thành những sản phẩm
phù hợp với nhu cầu của mình. Trong lực lượng sản xuất, nhân tố con người
là quan trọng nhất. “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động”.
1
Đối tượng lao động và tư liệu lao động hợp thành tư liệu sản xuất. Đó
là nhân tố thứ hai của lực lượng sản xuất. Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao
động có vị trí đặc biệt. Công cụ lao động, theo Ph.Ăngghen, là “khí quan
của bộ óc con người”, “là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” có tác
dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Trong
1
V.I. Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.38, tr.430
5
Giáo Dục Nghĩa Hưng
nền kinh tế tự động hoá, tin học hoá các công cụ lao động tạo ra sức mạnh
thần kỳ cho con người trong việc chinh phục, chế ngự tự nhiên.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất thể hiện khả năng của con người
trong việc chiếm lĩnh tự nhiên, giải quyết quan hệ của mình với tự nhiên.
Lực lượng sản xuất càng phát triển cao bao nhiêu cũng có nghĩa là năng lực
sản xuất ra của cải vật chất to lớn bấy nhiêu.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học cũng không ngừng phát
triển và có vai trò ngày càng to lớn với sản xuất. Sau thời kỳ phát triển lâu
dài và sự phát triển nhanh chóng mang tính cách mạng trong những thập
niên gần đây, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những
thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ là cơ sở cho sự
xuất hiện nền kinh tế mới, nền kinh tế tri thức.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam đã vạch ra những

mục tiêu chung cho sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học, công
nghệ ở nước ta trong những năm tới là “ xây dựng nước ta thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại Từ nay đến năm 2020, ra
sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Lực lượng sản xuất của đất nước ta đến lúc đó sẽ đạt trình độ tương
đối hiện đại, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử
dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng
suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn nhiều so với
hiện nay
Khoa học tự nhiên và công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng
được nhiều thành tựu mới nhất của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ.
Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình
thái ý thức xã hội mới. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ
cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển”.
1

b) Quan hệ sản xuất
Để sản xuất của cải vật chất, con người không chỉ phải quan hệ với tự
nhiên, mà còn phải quan hệ với nhau. C.Mác viết: “Trong sản xuất, người ta
không chỉ quan hệ với tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu
không kết kợp vơí nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao
đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối
liên hệ và quan hệ nhất định với nhau và quan hệ của họ với giới tự nhiên,
tức là việc sản xuất”.
2
1
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia.Hà
Nội. 1996, tr.80, 81.
2
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1993, tập 6, tr. 552

6
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Như vậy, quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất là
khách quan, không phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng của chính con người.
Đó chính là một mặt của quá trình sản xuất.
Quan hệ giữa người và người trong qúa trình sản xuất gọi là quan hệ
sản xuất.
Quan hệ sản xuất gồm ba mặt cơ bản: quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối sản phẩm. Quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh
thần xã hội. Mỗi mặt của quan hệ sản xuất có vai trò vị trí riêng, xác định
khi nó tác động tới sản xuất xã hội. Nhưng ba mặt đó luôn gắn bó với nhau,
tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động
không ngừng của lực lượng sản xuất.
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ
sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của
một xã hội nhất định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất luôn giữ vai trò
quyết định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sở hữu tư liệu
sản xuất chính là quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn người trong việc
chiếm hữu tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng giai cấp, tập đoàn
người trong sản xuất xã hội. Đến lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người,
từng giai cấp lại quy định cách thức mà họ trao đổi hoạt động cho nhau,
cách thức mà họ tổ chức quản lý quá trình sản xuất. Sau cùng, chính quan hệ
sở hữu quyết định phương thức phân phối kết qủa sản xuất. Địa vị của từng
tập đoàn người, từng giai cấp đối với tư liệu sản xuất sẽ quyết định phần mà
họ nhận được trong kết qủa của sản xuất xã hội.
Trong các phương thức sản xuất, hai chế độ sở hữu cơ bản với tư liệu
sản xuất đã tồn tại là chế độ sở hữu tư nhân và chế độ sở hữu công cộng.
Ngoài hai chế độ sở hữu đó còn có sở hữu hỗn hợp. Sở hữu công cộng là
chế độ sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về tất cả các thành viên của cộng

đồng. Vì tư liệu sản xuất là tài sản chung nên các thành viên của cộng đồng
bình đẳng với nhau trong tổ chức quản lý sản xuất và trong phân phối sản
phẩm; quan hệ giữa họ với nhau là hợp tác, tương trợ. Trong các chế độ tư
hữu, tư liệu sản xuất thuộc về một nhóm ít người. Nhóm người này giữ địa
vị thống trị trong sản xuất và trong xã hội. Những người không có tư liệu
sản xuất ở vào địa vị bị trị. Bởi vậy, trong xã hội dựa trên chế độ tư hữu, mất
bình đẳng, đối kháng về giai cấp là không tránh khỏi.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng, chế độ tư hữu với đỉnh
cao là chủ nghĩa tư bản sẽ được thay thế bằng chế độ công hữu, xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
7
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất xã hội, quan hệ tổ chức quản lý
sản xuất, mặc dù chịu sự chi phối của quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất nhưng
có tác động trở lại mạnh mẽ đến quan hệ sở hữu và quan hệ phân phối. Sở dĩ
như vậy là vì, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất trực tiếp quyết định hiệu quả
sử dụng các nguồn lực: vốn, lao động, tài nguyên, khoa học - công nghệ;
quyết định kết qủa của quá trình sản xuất. Hiệu quả sử dụng các nguồn lực
càng cao, kết qủa quá trình sản xuất càng lớn càng khẳng định tính tất yếu
tồn tại của hình thức sở hữu tương ứng. Trong trường hợp ngược lại, quan
hệ tổ chức quản lý sản xuất có thể làm biến dạng, thậm chí phá vỡ quan hệ
sở hữu. Bởi vậy, trong bất kỳ hình thức sở hữu nào, các chủ sở hữu cũng
phải quan tâm vấn đề tổ chức quản lý, cả ở tầm vi mô và vĩ mô.
Bằng tác động trực tiếp đến hiệu quả sử dụng các nguồn lực và kết
qủa của quá trình sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý trực tiếp tác động đến
các quan hệ phân phối.
Quan hệ phân phối, mặc dù bị phụ thuộc vào quan hệ sở hữu và vào
trình độ tổ chức quản lý nhưng cũng có vị trí độc lập tương đối. Phân phối
kết qủa của sản xuất xã hội trực tiếp quyết định mức độ thực hiện các lợi
ích kinh tế, tức là quan hệ phân phối trực tiếp ảnh hưởng đến động lực của

các hoạt động kinh tế. Như vậy, quan hệ phân phối có thể thúc đẩy hoặc kìm
hãm sự phát triển của sản xuất xã hội. Do đó, khi xây dựng và củng cố quan
hệ sản xuất, nếu chỉ chú ý tới quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý là không đủ,
mà còn phải rất chú ý tới quan hệ phân phối. Bởi vậy, trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay “ phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích
của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu
phi pháp, vừa coi trọng xoá đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng
xã hội ”.
1

5. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất
Hai mặt của sản xuất xã hội là lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất không tồn tại biệt lập mà có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó
lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định.
Phát triển là quy luật phổ biến của tự nhiên, xã hội và tư duy. Bởi vậy,
sự phát triển của sản xuất xã hội là quy luật. Sự phát triển của sản xuất xã
hội trước hết từ công cụ lao động. Sở dĩ như vậy là vì, trong quá trình lao
động sản xuất, con người không ngừng tích luỹ tri thức, kinh nghiệm sản
xuất. Những tri thức, kinh nghiệm đó là cơ sở cho việc cải tiến công cụ lao
1
.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia.
Hà Nội, 1996, tr.73
8
Giáo Dục Nghĩa Hưng
động. Khi công cụ lao động được cải tiến, phương thức lao động thay đổi,
năng suất lao động tăng lên tức là lực lượng sản xuất phát triển. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất làm cho quan hệ giữa con người với nhau trong
việc chiếm hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý, phân phối sản phẩm cũng
thay đổi. Như vậy, sự thay đổi của lực lượng sản xuất kéo theo sự thay đổi

của quan hệ sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất vừa tiệm tiến, vừa nhảy vọt, theo
từng nấc thang hay trình độ khác nhau. Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện
ở: trình độ của công cụ lao động; trình độ tổ chức lao động xã hội; trình độ
ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất; kinh nghiệm và kỹ năng lao
động của con người; trình độ phân công lao động xã hội.
Khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp kém, phân công lao động
không phát triển; cá nhân có thể tiến hành quá trình sản xuất tương đối độc
lập tức là lực lượng sản xuất mang tính chất cá nhân. Khi lực lượng sản
xuất phát triển ở trình độ cao hơn, phân công lao động trở nên sâu sắc; hoạt
động sản xuất của mỗi cá nhân phụ thuộc chặt chẽ vào các cá nhân khác
tức là lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội. Như vậy, tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất thay đổi thì cách thức mà con người quan hệ với
nhau trong sản xuất cũng phải thay đổi. Nói cách khác, quan hệ sản xuất phụ
thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn là nhân tố quyết định đối với
sự thay đổi của các quan hệ xã hội. C.Mác viết: “Những quan hệ xã hội đều
gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được những lực
lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và
do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống cuả mình, loài người thay
đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại
xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư
bản công nghiệp”.
1

Tuy nhiên, quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và có tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển cuả lực lượng sản xuất. Chỉ khi nào quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì
các hoạt động sản xuất mới có thể tiến hành một cách bình thường, sản xuất

xã hội mới có thể phát triển. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất
và trình độ lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản
xuất là “hình thức phát triển” tất yếu của lực lượng sản xuất, cả ba mặt của
quan hệ sản xuất tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng và kết hợp tư liệu
1
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1993, tập 4, tr. 187
9
Giáo Dục Nghĩa Hưng
sản xuất với sức lao động. Với trạng thái phù hợp như vậy, lực lượng sản
xuất sẽ có điều kiện phát triển tất cả các khả năng của nó. Ngược lại, khi
quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất, các yếu tố cấu
thành của lực lượng sản xuất sẽ không được sử dụng và phát huy hết các khả
năng. Điều đó có nghĩa là sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ bị kìm
hãm. Vì vậy, đảm bảo sự phù hợp giữa hai mặt của sản xuất xã hội là đòi hỏi
khách quan trong mọi giai đoạn phát triển của sản xuất xã hội.
Lực lượng sản xuất không ngừng vận động, phát triển. Do đó, quan hệ
sản xuất từ chỗ phù hợp với lực lượng sản xuất, tạo điều kiện cho lực lượng
sản xuất phát triển dần dần trở nên không phù hợp, mâu thuẫn với lực lượng
sản xuất, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn đó sẽ
phát triển và ngày càng trở nên gay gắt và phải được giải quyết bằng việc
thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới, phù hợp với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển.
“Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản
xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có
trong đó các lực lượng sản xuất từ trước đến nay vẫn phát triển. Từ chỗ là
những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở
thành những xiềng xích của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu một cuộc
cách mạng xã hội”.
1

Đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật này
tồn tại, hoạt động trong tất cả các giai đoạn phát triển của sản xuất xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, có ý nghĩa quyết định đối với sự
phát triển của xã hội loài người, từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, qua chế độ
chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội
cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Như trên đã trình bày, sản xuất xã hội có vai trò hết sức to lớn đối với
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, tiến bộ của sản xuất xã
hội trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhân loại và sản xuất xã hội trở
thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Nhưng sản xuất xã
hội lại hết sức rộng lớn và phức tạp. Do vậy, mỗi ngành khoa học chỉ có thể
nghiên cứu sản xuất xã hội trên một góc độ nhất định. Nghiên cứu mặt kỹ
thuật của sản xuất xã hội là nhiệm vụ của các ngành khoa học tự nhiên. Kinh
1
.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.13, tr.15
10
Giáo Dục Nghĩa Hưng
tế chính trị là khoa học xã hội và vì vậy, đối tượng nghiên cứu của nó
không phải là sự sản xuất nói chung, mà là mặt xã hội của nền sản xuất tức
là quan hệ giữa người và người trong qúa trình sản xuất.
Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị là quan hệ sản xuất có
nghĩa là Kinh tế chính trị phải nghiên cứu quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất,
quan hệ quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm và mối liên hệ giữa các mặt
đó với nhau. Mục đích của việc nghiên cứu đó là để tìm ra các quy luật kinh
tế hoạt động trên các lĩnh vực đó. “Kinh tế chính trị, theo nghĩa rộng nhất, là
khoa học về những quy luật chi phối sự sản xuất và sự trao đổi những tư liệu
sinh hoạt vật chất trong xã hội loài người ”

1
.
Quy luật kinh tế là những mối liên hệ bên trong, bản chất, tất yếu, ổn
định, lặp đi lặp lại của các hiện tượng và qúa trình kinh tế. Cũng giống như
các quy luật tự nhiên, quy luật kinh tế mang tính khách quan tức là sự tồn tại
và hoạt động của chúng không tuỳ thuộc vào ý chí con người. Tuy nhiên,
nếu con người hành động phù hợp với quy luật thì mới đạt được hiệu quả
mong muốn. Do đó, nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong các hoạt động kinh tế.
Quy luật kinh tế ra đời và hoạt động trên cơ sở quan hệ sản xuất nhất
định. Điều đó có nghĩa là mỗi phương thức sản xuất sẽ có những quy luật
kinh tế đặc thù. Chẳng hạn, trong chủ nghĩa tư bản có quy luật giá trị thặng
dư, quy luật tích luỹ tư bản, quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
sút Trên một góc độ nhất định, kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là
những kiểu nhất định con người ta quan hệ với nhau trong qúa trình sản
xuất. Do đó, kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá có những quy luật kinh tế
riêng, đặc thù. Trong bất kỳ nền sản xuất nào, quan hệ giữa người và người
trong qúa trình sản xuất đều bị chi phối bởi những nhân tố chung, giống
nhau. Do đó, bên cạnh các quy luật đặc thù còn có quy luật kinh tế chung
cho mọi nền sản xuất (quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất
và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật phân phối tổng sản
phẩm xã hội, quy luật tái sản xuất mở rộng ).
Các quy luật kinh tế, bao gồm các quy luật chung và các quy luật đặc
thù lại có những biểu hiện không hoàn toàn giống nhau, tuỳ điều kiện cụ thể
của mỗi nước. Theo Ph.Ăngghen thì những điều kiện của sản xuất và trao
đổi lại thay đổi theo từng nước và trong từng nước lại thay đổi tuỳ từng thời
đại. Bởi vậy, “ không thể có cùng một môn kinh tế chính trị duy nhất cho
tất cả mọi nước và tất cả mọi thời đại lịch sử môn kinh tế chính trị , về thực
1
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 207.

11
Giáo Dục Nghĩa Hưng
chất là môn khoa học có tính chất lịch sử ”.
2
Do vậy, việc nghiên cứu Kinh
tế chính trị đòi hỏi phải đặc biệt chú ý tính lịch sử, cụ thể của các vấn đề,
tránh rập khuôn, giáo điều.
Quy luật kinh tế, cũng giống như các quy luật xã hội khác, có đặc
điểm là sự hoạt động và phát huy tác dụng của nó phải thông qua hành động
của con người. Dù nhận thức được hay không nhận thức được, hoạt động
của con người đều bị chi phối bởi các quy luật. Việc nghiên cứu quy luật
kinh tế phải được thực hiện trên cơ sở xem xét các hoạt động kinh tế.
Quan hệ sản xuất không tồn tại biệt lập mà có quan hệ biện chứng với
lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định.
Những biến đổi của lực lượng sản xuất tất yếu sẽ làm cho quan hệ sản xuất
phải thay đổi. Do đó, Kinh tế chính trị phải nghiên cứu quan hệ sản xuất
trong mối liên hệ với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất còn có quan hệ
biện chứng với kiến trúc thượng tầng. Trong mối liên hệ này, mặc dù quan
hệ sản xuất giữ vai trò quyết định nhưng sự tác động trở lại của kiến trúc
thượng tầng cũng hết sức mạnh mẽ, có thể làm cho quan hệ sản xuất thay
đổi, thậm chí biến dạng. Do đó, Kinh tế chính trị còn phải nghiên cứu quan
hệ sản xuất trong sự tác động qua lại với kiến trúc thượng tầng.
Là cơ sở của đời sống xã hội, sản xuất vật chất trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều khoa học kinh tế khác. Do đó, các khoa học kinh tế có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, do góc độ nghiên cứu khác nhau, các
khoa học kinh tế độc lập tương đối với nhau.
Nếu như Kinh tế chính trị nghiên cứu mặt xã hội của nền sản xuất,
nhằm phát hiện ra các quy luật hoạt động trong nền kinh tế thì các khoa học
kinh tế như: kinh tế công nghiệp , kinh tế nông nghiệp, kinh tế lao động
chỉ nghiên cứu một lĩnh vực của nền sản xuất, nhằm tìm ra những quy luật

vận động trong từng lĩnh vực kinh tế, hay là biểu hiện của quy luật chung
trong từng lĩnh vực kinh tế. Cũng vì thế, Kinh tế chính trị là cơ sở của các
khoa học kinh tế ngành; các khoa học kinh tế ngành cụ thể hoá và làm
phong phú hơn những nguyên lý và những quy luật mà Kinh tế chính trị đã
phát hiện ra.
Chỉ khi nào hoạt động của con người phù hợp với quy luật mới có kết
qủa tốt và ngược lại. Do đó, nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với hoạt động kinh tế của con người, với sự phát
triển của sản xuất xã hội. Nhà nước vận dụng các quy luật kinh tế để điều
tiết kinh tế vĩ mô thể hiện ở việc vạch ra đường lối, chính sách kinh tế.
2
C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 208.
12
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Đối tượng nghiên cứu quy định những nội dung cơ bản của môn học.
Thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới. Do đó, Kinh tế chính trị Mác-Lênin trước hết
nghiên cứu những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa tư bản, từ đó tìm ra bản chất
và các quy luật vận động của phương thức sản xuất này. Đây là phần thứ
nhất của giáo trình. Phần thứ nhất có tựa đề: “ Phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa” và được bắt đầu bằng việc nghiên cứu tế bào kinh tế của chủ
nghĩa tư bản là hàng hoá. Nghiên cứu hàng hoá và xây dựng lý thuyết về
nền kinh tế hàng hoá có ý nghĩa to lớn đối với việc nhận thức những vấn đề
kinh tế của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và của cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Để làm rõ được bản chất, các quy luật vận động của
chủ nghĩa tư bản, phần thứ nhất tập trung nghiên cứu hai phạm trù kinh tế cơ
bản là tư bản và giá trị thặng dư (quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối
giá trị thặng dư). Sau khi nghiên cứu những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa tư
bản tự do cạnh tranh, giáo trình trình bày lý thuyết của Lênin về chủ nghĩa
tư bản độc quyền và những biểu hiện mới của nó trong giai đoạn hiện nay.

Phần thứ hai của giáo trình: Kinh tế chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Trong phần này, những nội dung chủ yếu được nghiên
cứu là: bản chất, đặc điểm, nội dung kinh tế của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội nói chung, của Việt Nam nói riêng; những vấn
đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như:
cơ cấu các thành phần kinh tế; kinh tế hàng hoá; công nghiệp hoá nền kinh
tế quốc dân; nông nghiệp, nông thôn; quan hệ tài chính; quan hệ phân phối;
quan hệ kinh tế quốc tế
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Bầt kỳ ngành khoa học nào cũng phải sử dụng hàng loạt phương pháp
nghiên cứu, có những phương pháp chung cho nhiều ngành khoa học nhưng
cũng có những phương pháp đặc thù cho từng ngành khoa học. Để nghiên
cứu quan hệ sản xuất, Kinh tế chính trị sử dụng phương pháp biện chứng
duy vật. Phương pháp này đòi hỏi phải xem xét các hiện tượng và quá trình
kinh tế một cách khách quan, như nó vốn có; phải đặt các sự vật, hiện tượng
trong mối liên hệ phổ biến, không ngừng vận động và phát triển; cội nguồn
của sự phát triển là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật
Phương pháp duy vật biện chứng được cụ thể bằng một loạt các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
1. Trừu tượng hoá khoa học
13
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Trừu tượng hoá khoa học là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng
bằng cách gạt bỏ những những yêú tố ngẫu nhiên, không bản chất, không ổn
định. Điều đó cho phép tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng hơn với bản chất,
các quy luật vận động của sự vật, hiện tượng. Đây là phương pháp được sử
dụng phổ biến trong khoa học xã hội, đặc biệt là Kinh tế chính trị. Sở dĩ
như vậy là vì các hiện tượng và qúa trình kinh tế hết sức phong phú và đa
dạng. Nhìn bề ngoài, những hiện tượng và qúa trình đó rất khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau. Do đó, muốn nhận thức được bản chất, quy luật vận

động của các sự vật, hiện tượng thì phải gạt bỏ những nhân tố ngẫu nhiên,
không ổn định, không bản chất, chỉ giữ lại những nhân tố bên trong, ổn
định, bền vững để nghiên cứu.
2. Lô-gích và lịch sử
Lô-gích là phương pháp nghiên cứu sự vật, hiện tượng bằng cách sử
dụng hệ thống các khái niệm, phạm trù và sức mạnh của tư duy để tìm ra
bản chất của các hiện tượng kinh tế, các quy luật kinh tế. Đây là phương
pháp được sử dụng khá phổ biến trong các ngành khoa học xã hội. Sở dĩ như
vậy là vì các hiện tượng xã hội hết sức đa dạng và phức tạp. Bản chất của
các sự vật có thể bị che lấp, thậm chí xuyên tạc. Bằng lô-gích, con người có
thể thấy được mối liên hệ bên trong, bản chất của các sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên, phương pháp này phụ thuộc rất nhiều vào chủ quan của người
nghiên cứu, và do đó rất có thể sai lầm. Để khắc phục nhược điểm đó, người
ta thường kết hợp phương pháp này với phương pháp lịch sử.
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu căn cứ vào những sự
kiện, hiện tượng đã xảy ra để tìm các quy luật. Các sự kiện, hiện tượng xã
hội nói chung và kinh tế nói riêng xảy ra không ngẫu nhiên mà mang tính
quy luật và theo quy luật. Lịch sử bắt đầu từ đâu thì tư duy bắt đầu từ đó. Do
đó, phương pháp lịch sử có ưu điểm nổi bật là khách quan, có thể khắc phục
được nhược điểm của phương pháp lô-gích. Tuy nhiên phương pháp lịch sử
lại có nhược điểm riêng. Các sự kiện và hiện tượng đã xảy ra hết sức phong
phú và hỗn độn. Nếu chỉ căn cứ vào các sự kiện và hiện tượng đã xảy ra khó
có thể thấy được bản chất, quy luật vận động. Do vậy phải kết hợp hai
phương pháp này.
3. Phân tích và tổng hợp
Để nhận thức được sự vật, hiện tượng, trước hết cần phải hiểu được
từng mặt, từng bộ phận, từng thuộc tính của chúng. Muốn vậy người ta
phải sử dụng phương pháp phân tích. Phân tích là phương pháp nghiên cứu
được thực hiện bằng cách mổ xẻ các sự vật, hiện tượng để tìm ra cấu trúc
bên trong, để làm rõ từng thuộc tính, tính chất của mỗi sự vật, hiện tượng.

14
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Tuy nhiên, phương pháp này mới chỉ cho những hiểu biết về sự vật hiện
tượng một cách cắt rời, cô lập. Do vậy cần phải được bổ xung bằng phương
pháp tổng hợp.
Tổng hợp là phương pháp nghiên cứu để nhận thức sự vật hiện tượng
bằng cách đặt các mặt, các bộ phận của chúng trong mối liên hệ tổng thể;
đặt các sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với các sự vật hiện tượng khác.
Phương pháp này cho phép nhận thức sự vật, hiện tượng một cách toàn diện,
cả trong hiện tại và tương lai.
4. Các phương pháp khác
Ngoài các phương pháp trên đây, Kinh tế chính trị còn sử dụng một
loạt các phương pháp khác như: diễn dịch-quy nạp, phương pháp toán học,
thống kê Những phương pháp nghiên cứu khoa học đóng góp to lớn trong
việc phát hiện các quy luật kinh tế và trong sự phát triển của Kinh tế chính
trị Mác-Lênin.
IV. CHỨC NĂNG CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
1. Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất, tức là
quan hệ giữa người và người trong qúa trình sản xuất. Những quan hệ đó hết
sức phong phú, đa dạng, liên quan đến các mặt của đời sống con người. Vì
vậy, Kinh tế chính trị Mác - Lênin sẽ cung cấp những tri thức cần thiết để
hiểu sản xuất xã hội và xu thế phát triển tất yếu của nó; nhận thức được bản
chất kinh tế và chính trị của các chế độ xã hội; nhận thức được cơ sở khoa
học trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; hiểu được các hiện
tượng và qúa trình kinh tế xảy ra trong cuộc sống hàng ngày
Với tư cách khoa học cơ bản, Kinh tế chính trị Mác-Lênin còn cung
cấp những tri thức cần thiết, phục vụ cho việc học tập những môn kinh tế
ngành.
2. Chức năng tư tưởng

Từ việc cung cấp những tri thức khoa học, Kinh tế chính trị Mác-
Lênin giúp người học hiểu được xu thế phát triển tất yếu của xã hội loài
ngưòi, thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi cuối cùng
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên đất nước ta. Như thế, Kinh
tế chính trị Mác-Lênin góp phần xây dựng thế giới quan khoa học và cách
mạng.
3. Chức năng thực tiễn
Xuất phát từ thực tiễn và phục vụ cho hoạt động thực tiễn là một tính
chất quan trọng của Kinh tế chính trị Mác-Lênin. Việc nghiên cứu Kinh tế
15
Giáo Dục Nghĩa Hưng
chính trị Mác-Lênin trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế và chính trị,
nâng cao hiệu quả của các hoạt động này. Đồng thời, bất kỳ lĩnh vực hoạt
động nào của con người cũng liên quan tới các tới các vấn đề kinh tế và
chính trị. Do đó, việc học tập Kinh tế học chính trị Mác-Lênin còn giúp
cho người học có được nhãn quan kinh tế và chính trị để giải quyết thành
công những vấn đề chuyên môn của mình.
4. Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị Mác-Lênin không chỉ cung cấp những tri thức cần
thiết để hiểu các hiện tượng và qúa trình kinh tế trong hiện tại, mà còn giúp
cho người học có được phương pháp tư duy khoa học, từ đó có thể tự mình
xem xét, lý giải những vấn đề kinh tế mới nảy sinh. Đó là chức năng phương
pháp luận của Kinh tế chính trị Mác-Lênin.
V. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÁC- LÊNIN
Kinh tế chính trị ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản được hình thành sớm nhất
ở Tây Âu, thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII. Trong thời kỳ này thương
nghiệp đặc biệt phát triển và có vai trò hết sức to lớn trong tích luỹ ban đầu
của chủ nghĩa tư bản. Đó là cơ sở hình thành lý thuyết kinh tế đầu tiên: chủ

nghĩa Trọng thương.
Các nhà Trọng thương, với những đại biểu nổi tiếng như: A.Mông-crê
-chiên, nhà kinh tế học người Pháp (1575-1629), Côn-be, nhà kinh tế học
người Pháp (1619-1682), Tô-mat Mun, nhà kinh tế học người Anh (1571-
1641), W. Satpho, nhà kinh tế học người Anh (1554-1612).
Với sự xuất hiện của trường phái Trọng thương, Kinh tế chính trị đã
manh nha. Các nhà kinh tế của trường phái Trọng thương đã đoạn tuyệt với
các tư tưởng kinh tế thời trung cổ giải thích các hiện tượng kinh tế dựa trên
những quan niệm về tôn giáo; họ giải thích các hiện tượng kinh tế trên cơ sở
hiện thực cuộc sống. A.Mông-crê-chiên là người đầu tiên đưa ra thuật ngữ
“Kinh tế chính trị”. Tuy nhiên, Kinh tế chính trị còn rất đơn sơ, ấu trĩ: đối
tượng nghiên cứu mới chỉ là quá trình lưu thông; những nội dung nghiên
cứu còn ít ỏi; phương pháp nghiên cứu nặng về quan sát những hiện tượng
bên ngoài.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản làm cho Kinh tế chính trị tiếp tục
phát triển. Từ nửa sau của thế kỷ XVII, chủ nghĩa tư bản ở Tây Âu đã vượt
qua thời kỳ tích luỹ ban đầu, bắt đầu phát triển trên cơ sở của chính nó:
16
Giáo Dục Nghĩa Hưng
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang dần được khẳng định. Một
trường phái kinh tế mới xuất hiện: trường phái Trọng nông.
Trường phái Trọng nông ra đời ở nước Pháp. Những đại biểu ưu tú
nhất của trường phái Trọng nông là P.Boa-ghin-be (Pierr Boisguillebert:
1646-1714); Ph.Kê-nê (Fransois Quesnay: 1694-1774); A.Tuyếc-gô (Anne
Robert Jacques Turgot: 1727-1771).
Đến trường phái Trọng nông, Kinh tế chính trị có bước phát triển
mới. Đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị lúc này là lĩnh vực sản
xuất. Trường phái Trọng nông cho rằng, nguồn gốc của của cải, của sự giàu
có không phải ở quá trình lưu thông mà ở quá trình sản xuất. Với trường
phái Trọng nông, Kinh tế chính trị có bước tiến quan trọng trong một số vấn

đề: phân tích một cách khoa học tư bản cố định và tư bản lưu động; phân
tích tái sản xuất trong “Biểu kinh tế” của Ph.Kê-nê; khẳng định lưu thông
không tạo ra giá trị, hàng hoá có giá trị trước khi trao đổi, trao đổi chỉ làm
thay đổi hình thái của giá trị Tuy nhiên, trường phái Trọng nông vẫn còn
rất nhiều hạn chế. Họ cho rằng chỉ có nông nghiệp mới là ngành sản xuất;
chưa có khái niệm đúng đắn về giá trị, còn lầm lẫn giá trị với giá trị sử dụng;
chưa có hệ thống khái niệm lý luận làm cơ sở
Từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, cách mạng công nghiệp ở Tây Âu đã
hoàn thành, chủ nghĩa tư bản đã phát triển trên cơ sở của chính mình. Quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã chín muồi, những quy luật kinh tế của
chủ nghĩa tư bản hoạt động mạnh hơn, những tác động và biểu hiện của nó
cũng đầy đủ và rõ ràng hơn. Hoàn cảnh lịch sử đó cho phép Kinh tế chính trị
thật sự trở thành khoa học.
Sự phát triển của Kinh tế chính trị trong giai đoạn này gắn liền với sự
xuất hiện của trường phái Cổ điển ở nước Anh. Trường phái này được bắt
đầu từ Uy-li - am Pét -ty (W.Petty: 1622-1687) và kết thúc ở đỉnh cao với A
- đam Smít (Adam Smith: 1723-1790) và Ri - Các - Đô (David Ricardo:
1772-1823).
Đến trường phái Cổ điển, đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị
được xác định là nguồn gốc, bản chất của của cải, sự giàu có của các dân tộc
và sự phân phối của cải đó giữa các tầng lớp xã hội. Mặc dù không hoàn
toàn giống với đối tượng nghiên cứu của Kinh tế chính trị Mác-Lênin nhưng
tính đến thời gian đó thì đây là một bước tiến lớn.
Trường phái Cổ điển đã xây dựng được một hệ thống các lý thuyết
kinh tế: lý thuyết giá trị, lý thuyết tiền tệ, lý thuyết về tư bản, lý thuyết tiền
lương, lợi nhuận, địa tô trong đó lý thuyết giá trị-lao động là phát hiện hết
sức quan trọng và được sử dụng để xây dựng các lý thuyết kinh tế khác.
17
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Với những đóng góp chủ yếu trên đây của trường phái Cổ điển, Kinh

tế chính trị đã thật sự trở thành khoa học.
Mặc dù vậy, trường phái Cổ điển còn nhiều hạn chế và khiếm khuyết.
Họ đồng nhất sản xuất tư bản chủ nghĩa với quá trình sản xuất nói chung; họ
không thấy được tính lịch sử của chủ nghĩa tư bản và các phạm trù kinh tế
gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Trong một số lý thuyết, một số vấn đề không
được giải quyết thoả đáng hoặc không đúng
Sống trong thời đại chủ nghĩa tư bản đã phát triển rất cao, cả lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều đã chín muồi,
C.Mác (Karl Marx: 1818-1883) và Ph.Ăngghen (Friedrich Engels: 1820-
1895) có điều kiện nhận thức về chủ nghĩa tư bản đầy đủ, chính xác hơn
những người tiền bối. Bên cạnh đó, dokế thừa được những nhân tố khoa học
của những người đi trước, mà trực tiếp là của trường phái Kinh tế chính trị
cổ điển Anh, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết kinh tế
mới. Đây là học thuyết kinh tế thật sự khoa học vì nó đã nghiên cứu một
cách khách quan những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa tư bản; khắc khục
được tất cả những mâu thuẫn, hạn chế trong các lý thuyết kinh tế trước đó;
giải quyết một cách triệt để những vấn đề kinh tế, chính trị xuất hiện trong
hoàn cảnh lịch sử mới.
Những kết luận khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen hoàn toàn phù
hợp và thống nhất với lợi ích của giai cấp vô sản. Vì vậy, học thuyết của các
Ông trở thành thế giới quan và phương pháp luận, là vũ khí sắc bén của giai
cấp vô sản trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã
hội mới: xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Những tư tưởng khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen được V.I. Lênin
(1870-1924) tiếp tục phát triển. Sống trong thời đại chủ nghĩa tư bản phát
triển sang giai đoạn mới: giai đoạn độc quyền, V.Lênin đã phát triển những
tư tưởng về độc quyền của C.Mác và Ph.Ăngghen, xây dựng lý thuyết mới:
lý thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền. Đây là cơ sở lý luận quan trọng để
nhận thức chủ nghĩa tư bản hiện đại. Đồng thời, V.Lênin còn là nhà cách
mạng, trực tiếp lãnh đạo cách mạng vô sản ở nước Nga. Từ thực tiễn xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.Lênin đã trực tiếp xây dựng Kinh tế
chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là những đóng góp đặc biệt
quan trọng của V.Lênin. Những đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đã làm
tên tuổi của Ông gắn liền với tên tuổi của C.Mác: chủ nghĩa Mác trở thành
chủ nghĩa Mác-Lênin.
Ngày nay, từ thực tiễn của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các đảng cộng sản và công nhân trên toàn thế
18
Giáo Dục Nghĩa Hưng
giới tiếp tục bổ xung và hoàn thiện chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có Kinh
tế chính trị. Điều này đã làm cho Kinh tế chính trị Mác-Lênin không ngừng
phát triển.
Như trên đã trình bày, Kinh tế chính trị có lịch sử phát triển lâu dài.
Đến trường phái Cổ điển Anh, Kinh tế chính trị đã thật sự trở thành khoa
học. Nhưng cũng từ đây, Kinh tế chính trị chia thành hai dòng lớn: Kinh tế
chính trị Mác-Lênin và kinh tế học.
Khi quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa không còn phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, giai cấp tư sản không còn là giai cấp tiến bộ,
các học giả tư sản tìm cách bảo vệ chủ nghĩa tư bản bằng cách gạt bỏ tính
giai cấp trong các quan hệ kinh tế, biến Kinh tế chính trị thành khoa học
kinh tế thuần tuý và gọi đó là kinh tế học.
Kinh tế học tập trung nghiên cứu tâm lý, hành vi ứng xử của người
tiêu dùng; bằng cách nào doanh nghiệp tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi
nhuận; những ưu việt và khuyết tật của cơ chế thị trường; các quan hệ cơ
bản của nền kinh tế thị trường: quan hệ cung - cầu, quan hệ giữa các thị
trường ; Các chính sách của chính phủ Kinh tế học hết sức coi trọng
nghiên cứu mặt lượng của các quan hệ kinh tế. Vì thế, các công thức, mô
hình, đồ thị toán học được sử dụng phổ biến để nghiên cứu các quan hệ
kinh tế.
Mặc dù có những hạn chế nhất định nhưng theo hướng nghiên cứu

của mình, kinh tế học đạt được không ít thành công. Bởi vậy, trong cơ chế
thị trường có sự điều tiết của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay, việc học tập kinh tế học sẽ cho chúng ta cách tiếp cận
khác nền kinh tế thị trường và góp phần làm phong phú hơn những hiểu biết
về nền kinh tế này.
19
Giáo Dục Nghĩa Hưng
PHẦN THỨ NHẤT
PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA

CHƯƠNG II
SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
Sản xuất hàng hoá hay nền kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế,
trong đó những người sản xuất ra sản phẩm không phải để tiêu dùng cho cá
nhân, mà để bán trên thị trường. Sản xuất hàng hoá là giai đoạn phát triển
20
Giáo Dục Nghĩa Hưng
cao, tất yếu của sản xuất xã hội. Sản xuất xã hội sẽ chuyển từ giai đoạn kinh
tế tự nhiên, tự cấp tự túc sang kinh tế hàng hoá khi có hai điều kiện: phân
công lao động xã hội và lao động mang tính chất tư nhân.
1. Phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động vào các ngành,
các lĩnh vực sản xuất khác nhau của xã hội. Khi có phân công lao động xã
hội, mỗi người chuyên môn hoá sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm
nhất định và nhờ đó, số lượng sản phẩm mà họ có được vượt xa so với nhu
cầu của họ. Nhưng con người có nhu cầu về nhiều loại sản phẩm khác nhau.
Do đó, người lao động phải trao đổi với nhau những sản phẩm mà họ có lấy
những sản phẩm mà họ cần. Như vậy, phân công lao động xã hội đã tạo ra

những tiền đề vật chất cho qúa trình trao đổi. Ví dụ: người thợ chuyên dệt
vải sẽ có nhiều vải hơn so với nhu cầu của bản thân mình nhưng họ lại cần
nhiều loại sản phẩm khác, trong đó có lương thực. Do đó, người thợ dệt phải
trao đổi vải lấy gạo và ngược lại, người nông dân cần trao đổi gạo lấy vải để
tiêu dùng.
Do chỉ sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nên người lao động
có điều kiện để cải tiến công cụ lao động, tích luỹ kinh nghiệm , nhờ đó,
năng suất lao động tăng lên. Như vậy, phân công lao động xã hội biểu hiện
sự phát triển của lực lượng sản xuất và chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Phân công lao động xã hội là cơ sở của sản xuất hàng hoá. Nhưng
phân công lao động xã hội chỉ là điều kiện cần, không phải là điều kiện đủ
cho sản xuất hàng hoá ra đời.
2. Tính chất tư nhân của sản xuất
Sản phẩm của lao động chỉ trở thành hàng hoá khi chúng thuộc quyền
sở hữu của một chủ thể nhất định và những chủ thể khác muốn có sản phẩm
đó phải trao đổi. Nói cách khác, chính sự độc lập tương đối (tính tự chủ) của
những người sản xuất làm cho sản phẩm lao động trở thành hàng hoá. “Nói
chung, các vật phẩm tiêu dùng trở thành hàng hoá chỉ vì chúng là sản phẩm
của những lao động tư nhân được tiến hành một cách độc lập với nhau”
1
.
“Muốn cho việc chuyển nhượng đó mang tính chất có đi có lại, thì người ta
chỉ cần mặc nhiên coi nhau là những kẻ sở hữu tư nhân đối với các vật có
thể chuyển nhượng ấy, và do đó, là những người độc lập với nhau”.
2
1
.C.Mác - F. Ăng-ghen toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, H. 1993, tr. 116
2
. s.đ. d. tr. 137

21
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Lao động tư nhân có thể dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất; các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất; cũng có thể do tính
tự chủ của mỗi đơn vị sản xuất trong cùng một hình thức sở hữu tư liệu sản
xuất. Do đó, tư nhân có thể là hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã,
doanh nghiệp nhà nước
Cần lưu ý thêm, trong điều kiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, tính
chất tư nhân của sản xuất trở nên hết sức sâu sắc và cùng với sự phát triển
của phân công lao động xã hội, kinh tế hàng hoá có thể phát triển đến đỉnh
cao. Chính điều này đã làm cho kinh tế hàng hoá đặc biệt phát triển trong
chủ nghĩa tư bản.
Khi sản xuất mang tính chất tư nhân, chủ sở hữu tư liệu sản xuất có
quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và là người sở hữu những
sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy, điều kiện này làm cho người sản xuất
tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, khi muốn tiêu dùng
sản phẩm của nhau, những người sản xuất phải mua bán sản phẩm, tức là
phải trao đổi dưới hình thái hàng hoá.
Nhưng nếu chỉ có tính chất tư nhân của sản xuất mà không có điều
kiện phân công lao động xã hội cũng không thể có sản xuất hàng hoá. Ví dụ,
người nông dân là người sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất và do đó, sản xuất
của họ mang tính chất tư nhân nhưng họ tự sản xuất lấy mọi thứ sản phẩm
để tiêu dùng thì không phải là sản xuất hàng hoá. Vì vậy, phân công lao
động xã hội là cơ sở của sản xuất hàng hoá và tính chất tư nhân của sản
xuất, tức là mặt xã hội của sản xuất, làm cho việc trao đổi sản phẩm trở
thành tất yếu. Chỉ khi nào có đồng thời hai điều kiện đó thì mới có sản xuất
và trao đổi hàng hoá.
Hai điều kiện nói trên cho thấy, phân công lao động xã hội làm cho
những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, còn tính chất tư nhân của sản
xuất lại chia rẽ họ, làm cho họ độc lập với nhau. Đây là một mâu thuẫn, mâu

thuẫn này được giải quyết thông qua trao đổi mua bán sản phẩm của nhau.
Sản xuất hàng hoá đã ra đời, tồn tại và phát triển từ thấp đến cao trong một
số phương thức sản xuất xã hội.
II. HÀNG HOÁ
1. Hàng hoá và hai thuộc tính của hàng hoá
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả mãn một nhu cầu nào
đó của con người, được sản xuất nhằm để trao đổi, mua bán.
22
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Trong nền kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc thì chỉ những sản phẩm đem
trao đổi, mua bán mới trở thành hàng hoá. Cũng sản phẩm đó, nếu không
đem trao đổi, mua bán thì không phải là hàng hoá. Ví dụ: người nông dân
sản xuất ra thóc nhưng đem nộp tô cho địa chủ, thì thóc đó không trở thành
hàng hoá.Trong nền kinh tế hàng hoá, ngay từ đầu, sản phẩm được sản xuất
ra nhằm để bán, thì dù còn để trong kho, chưa bán được vẫn là hàng hoá.
Định nghĩa trên đây cho thấy: hàng hoá có hai thuộc tính, giá trị sử
dụng và giá trị.
a) Giá trị sử dụng
Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu
nào đó của con người. Nhu cầu đó có thể là các nhu cầu vật chất (các sản
phẩm như gạo, quần áo, dày dép có thể đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cá
nhân; các sản phẩm như máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu có thể
đáp ứng nhu cầu cho sản xuất) hoặc là nhu cầu về tinh thần như sách, báo ,
phim ảnh
Như vậy, bất cứ hàng hoá nào cũng phải có một hay một số công
dụng nhất định. Số công dụng đó không phải ngay trong một lúc có thể tìm
ra được hết, nó được phát hiện dần dần trong quá trình phát triển của khoa
học, kỹ thuật và của lực lượng sản xuất. Ví dụ: than đá khi xưa chỉ dùng làm
chất đốt, về sau được dùng làm nguyên liệu cho công nghiệp hoá chất Xã
hội càng tiến bộ, khoa học-kỹ thuật, phân công lao động xã hội và lực lượng

sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng càng nhiều, chủng loại
càng phong phú đa dạng và chất lượng cao.
Giá trị sử dụng của hàng hoá do thuộc tính tự nhiên của hàng hoá
quyết định, không phụ thuộc vào chế độ xã hội nên là một phạm trù vĩnh
viễn và là nội dung vật chất của của cải. Nhưng việc phát hiện và sử dụng
những thuộc tính ấy lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của khoa học. Vì
vậy, C. Mác nói: “giá trị sử dụng chỉ được thực hiện trong việc sử dụng hay
tiêu dùng. Giá trị sử dụng cấu thành cái nội dung vật chất của của cải, chẳng
kể hình thái xã hội của của cải đó là như thế nào”.
1
Giá trị sử dụng của hàng hoá có đặc điểm là không phải cho bản thân
người sản xuất hàng hoá sử dụng, mà là cho người khác, tức là giá trị sử
dụng cho xã hội. Nhưng cũng không phải bất cứ giá trị sử dụng nào được
người khác dùng cũng đều là hàng hoá. Ví dụ: thóc của nông dân nộp tô cho
địa chủ không phải là hàng hoá, vì quan hệ đó giữa nông dân với địa chủ
1
Các Mác:Tư bản, q1, t1, NXB Chính trị quốc gia. H nà ội, 1988, tr .52
23
Giáo Dục Nghĩa Hưng
không phải là quan hệ trao đổi. Mác nói: “ giá trị sử dụng đồng thời cũng là
những vật mang giá trị trao đổi ”
1
. Vì thế, giá trị sử dụng đến tay người
khác, người tiêu dùng phải thông qua mua bán. Trong nền sản xuất hàng
hoá, giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.
b) Giá trị
Hàng hoá không những có giá trị sử dụng, có thể thoả mãn nhu cầu
nào đó của con người mà còn có thể dùng để trao đổi với hàng hoá khác, tức
là hàng hoá còn có giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi của hàng hoá là quan hệ
về số lượng, là tỷ lệ trao đổi giữa những hàng hoá có giá trị sử dụng khác

nhau.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc.
Từ hai thuộc tính của hàng hoá, chúng ta có thể định nghĩa hàng hoá
theo cách thứ hai: hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi.
Hai vế của phương trình hoàn toàn khác nhau (công dụng của vải
khác với công dụng của thóc; ki lô gam thì khác với mét; 1 thì khác với 10)
nhưng chúng vẫn bằng nhau. Cái chung, cái bằng nhau, giống nhau giữa hai
vế của phương trình đó là: chúng đều là sản phẩm của lao động, đều là kết
qủa sự hao phí lao động nói chung. Để sản xuất ra vải và thóc người thợ dệt
và người nông dân đều phải hao phí lao động để sản xuất ra chúng. Lao
động hao phí để làm ra 1m vải ngang bằng với lao động hao phí để làm ra
10kg thóc. Mác nói: “Nếu không kể đến giá trị sử dụng của vật thể hàng
hoá, thì vật thể hàng hóa chỉ còn có một thuộc tính mà thôi, cụ thể: chúng là
sản phẩm của lao động”
2
.
Nhờ có cơ sở chung đó, tất cả các hàng hóa đều giống nhau và có thể
trao đổi được với nhau. Thực chất trao đổi hàng hoá cho nhau là trao đổi lao
động ẩn dấu trong các hàng hoá ấy. Ví dụ: người thợ dệt mất hai giờ lao
động để làm ra 1m vải, người nông dân sản xuất được10 kg thóc cũng mất
hai giờ. Trao đổi 1m vải lấy 10 kg thóc chẳng qua là trao đổi hai giờ lao
động làm ra vải với hai giờ lao động sản xuất thóc. Lao động kết tinh trong
hàng hoá được gọi là giá trị.
Như vậy, sở dĩ hàng hoá có giá trị trao đổi bởi vì hàng hoá có giá trị.
Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi; giá trị trao đổi chỉ là hình
thức biểu hiện của giá trị. Giá trị của hàng hoá là lao động của người sản
xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị hàng hoá là biểu hiện quan hệ
1
. Sách đã dẫn. Tr. 53
2

C.Mác. Tư bản. Q1, t1. NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội 1988, tr.55.
24
Giáo Dục Nghĩa Hưng
giữa những người sản xuất hàng hóa. Nó là một phạm trù lịch sử, gắn liền
với sản xuất và trao đổi hàng hóa.
Như vậy, hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị. Hai
thuộc tính này cùng tồn tại và thống nhất với nhau ở một hàng hoá, nhưng
đây là sự thống nhất của các mặt đối lập. Người sản xuất làm ra hàng hóa để
bán, cho nên mục đích của họ là giá trị chứ không phải là giá trị sử dụng;
trong tay họ có giá trị sử dụng, nhưng cái mà họ quan tâm là giá trị hàng
hóa. Họ chú ý đến giá trị sử dụng thì cũng chính là để đạt mục đích giá trị.
Ngược lại, người mua thì rất cần giá trị sử dụng, nhưng muốn có giá trị sử
dụng thì trước hết phải trả giá trị của nó cho người sản xuất ra nó, tức là
phải thực hiện được giá trị hàng hoá thì mới chi phối được giá trị sử dụng.
Vì vậy, quá trình thực hiện giá trị và quá trình thực hiện giá trị sử dụng là
hai quá trình khác nhau về thời gian và không gian. Quá trình thực hiện giá
trị được tiến hành trước và trên thị trường; quá trình thực hiện giá trị sử
dụng diễn ra sau và trong lĩnh vực tiêu dùng.
Tóm lại, giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn với nhau. Trước khi thực hiện giá trị sử dụng của hàng hoá cần
phải thực hiện giá trị của nó; muốn thực hiện giá trị hàng hoá thì phải có giá
trị sử dụng.
2. Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính giá trị sử dụng và giá trị vì lao động
của người sản xuất hàng hoá có tính hai mặt, đó là lao động cụ thể và lao
động trừu tượng.
a) Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của
một nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích
riêng, công cụ lao động, đối tượng lao động, phương pháp lao động và kết
quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó làm cho các lao động cụ thể

khác nhau. Ví dụ: lao động cụ thể của người thợ may khác với lao động của
người thợ nề; lao động cụ thể của người thợ mộc khác với lao động cụ thể
của người thợ dệt
Mỗi lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định. Trong xã
hội, giá trị sử dụng muôn hình, muôn vẻ do lao động cụ thể muôn hình
muôn vẻ tạo ra. Lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn nên giá trị sử
dụng là phạm trù vĩnh viễn.
Lao động cụ thể tồn tại vĩnh viễn cùng với sản xuất và tái sản xuất xã
hội, không phụ thuộc vào bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào; nhưng hình
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×