Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Giao trinh KTCT2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.62 KB, 125 trang )

Giáo Dục Nghĩa Hưng
PHẦN THỨ HAI
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
CHƯƠNG VIII
1
Giáo Dục Nghĩa Hưng
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
I. NHỮNG DỰ BÁO CỦA C.MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ PHƯƠNG
THỨC SẢN XUẤT CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1. Tính tất yếu khách quan của sự ra đời phương thức sản xuất cộng
sản chủ nghĩa
Trong chủ nghĩa tư bản, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất,
tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng tăng. Quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, từ chỗ là nhân tố tích
cực thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, dần dần trở nên lỗi thời,
lạc hậu, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo yêu cầu của quy
luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa cần được thay thế
bằng quan hệ sản xuất mới, quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Sự sụp đổ
của chủ nghĩa tư bản và sự xuất hiện của chủ nghĩa cộng sản đều là tất yếu
khách quan.
2. Những đặc trưng kinh tế-xã hội chủ yếu của chủ nghĩa cộng sản
a) Lực lượng sản xuất ở trình độ cao
Đến giai đoạn cuối cùng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
lực lượng sản xuất đã đạt đến trình độ rất cao, quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa trở nên lỗi thời, cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi quan
hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được thay thế bằng quan hệ sản xuất cộng sản


chủ nghĩa, sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất lại được
thiết lập, tạo điều kiện để lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa. Đó là “ nền
sản xuất với quy mô lớn và được tiến hành phù hợp với những yêu cầu của
khoa học hiện đại”.
1
Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất cho phép đáp
ứng tốt tất cả các nhu cầu của con người, tạo điều kiện cho sự phát triển tự
do và toàn diện của mỗi cá nhân.
b) Chế độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất được xác lập và thống
trị
Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải thay thế hình
thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất không chỉ bằng sở hữu công cộng về
1
. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập. NXB Chính trị quốc gia.Hà Nội, 1994, t.16, tr20.
2
Giáo Dục Nghĩa Hưng
tư liệu sản xuất nói chung, mà còn là sở hữu công cộng ở trình độ cao: sở
hữu toàn dân, sở hữu trên quy mô toàn xã hội.
Với sự thiết lập hình thức sở hữu này, sự khác biệt về địa vị của các
cá nhân với tư liệu sản xuất không còn. Do đó, xã hội không còn giai cấp,
không còn bóc lột; các cá nhân thật sự bình đẳng với nhau, là người chủ thật
sự của xã hội trên tất cả các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã
hội Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu công cộng về
tư liệu sản xuất trên quy mô xã hội cho phép các cá nhân phát triển tự do,
toàn diện và “ sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”.
1
Việc xác lập hình thức sở hữu này là một quá trình hết sức lâu dài,
phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
c) Tư liệu tiêu dùng được phân phối theo nhu cầu của mọi thành viên

trong xã hội
Với trình độ cao của lực lượng sản xuất, của cải vật chất trong chủ
nghĩa cộng sản rất dồi dào, có khả năng đáp ứng ở mức rất cao tất cả các
nhu cầu của con người. Đồng thời, sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất cho
phép việc phân phối tư liệu tiêu dùng trong chủ nghĩa cộng sản vì tất cả mọi
người. Chính những điều đó làm cho việc phân phối tư liệu tiêu dùng có thể
đáp ứng được ngày càng tốt hơn các nhu cầu của tất cả mọi người. Đây là xã
hội công bằng nhất trong lịch sử nhân loại.
d) Mọi hoạt động kinh tế được điều hành thống nhất trên phạm vi xã
hội.
Tính chất xã hội hoá cao của nền sản xuất, một mặt làm cho quá trình
sản xuất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, trở thành công việc của
xã hội, đòi hỏi phải có sự điều hành các hoạt động kinh tế trên phạm vi xã
hội; mặt khác, tính chất xã hội hoá sản xuất còn được biểu hiện ở chỗ: chế
độ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất thống trị tuyệt đối trong nền kinh tế,
làm cho nền sản xuất xã hội chỉ còn một chủ thể duy nhất, và vì vậy có thể
điều tiết trực tiếp mọi hoạt động của nền sản xuất. Như vậy, đến chủ nghĩa
cộng sản các hoạt động sản xuất, phân phối sản phẩm do xã hội điều tiết
trực tiếp và vì vậy sẽ không còn sản xuất và trao đổi hàng hoá.
e) Xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay, xoá bỏ giai cấp
1
.C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội. 1995, t.4, tr. 628
3
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động chân tay và lao
động trí óc tồn tại và phát triển trong thời kỳ rất dài trong lịch sử. Sở dĩ như
vậy là vì sự thấp kém của lực lượng sản xuất dẫn tới sự phát triển không đều
về không gian và lãnh thổ. Những vùng, địa phương có điều kiện tự nhiên
thuận lợi, phong phú các nguồn lực, giao thông thuận tiện sẽ phát triển

nhanh, trở thành các trung tâm kinh tế. Đây chính là cơ sở kinh tế hình thành
nên các đô thị hay thành thị. Những vùng, địa phương có điều kiện tự nhiên
khắc nghiệt, các nguồn lực nghèo nàn, giao thông khó khăn kinh tế phát
triển chậm, ngày càng lạc hậu tương đối so với thành thị. Sự phân hoá giữa
nông thôn và thành thị ngày càng sâu sắc dưới sự tác động của các quy luật
thị trường.
Trong chủ nghĩa cộng sản, sự phát triển cao của lực lượng sản xuất
cho phép phát triển tất cả những lĩnh vực khó khăn nhất, những vùng lạc hậu
nhất, san bằng sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa ngành, các địa
phương. Điều đó đã làm cho sự khác biệt giữa thành thị và nông thôn hầu
như không còn nữa.
Trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp kém và chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, địa vị khác nhau của các cá nhân đối với tư liệu sản xuất và sự
khác biệt về chất lượng sức lao động là khách quan và điều đó dẫn đến kết
qủa lao động, mức độ hưởng thụ khác nhau. Mức độ thụ hưởng khác nhau
lại ảnh hưởng đến tái sản xuất sức lao động về chất lượng. Nói cách khác,
trong giai đoạn trước chủ nghĩa cộng sản, sự khác biệt giữa lao động trí óc
và lao động chân tay là tất yếu.
Trong chủ nghĩa cộng sản, do lực lượng sản xuất phát triển cao và
quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu toàn dân, các nhu cầu được thoả mãn đến
mức tốt nhất, con người được phát triển tự do và toàn diện, do đó, sự khác
biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc không còn đáng kể; cơ sở
hình thành và tồn tại của giai cấp không còn.
3. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản
Mặc dù ra đời từ xã hội tư bản, chủ nghĩa cộng sản có sự khác biệt với
chủ nghĩa tư bản không chỉ về trình độ, mà còn khác biệt về chất. Bởi vậy,
quan hệ sản xuất cộng sản chủ nghĩa không thể ra đời trong lòng chủ nghĩa
tư bản. Điều đó có nghĩa là, sau khi chính quyền của giai cấp tư sản bị lật
đổ, chủ nghĩa cộng sản với những đặc trưng nêu trên mới được từng bước
thiết lập. “ Việc thay thế những điều kiện kinh tế của sự nô dịch lao động

bằng những điều kiện của lao động tự do và liên hợp, chỉ có thể là một sự
4
Giáo Dục Nghĩa Hưng
nghiệp tiến triển trong thời gian sau một quá trình phát triển lâu dài ”.
1
Sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, các giai cấp vẫn còn tồn
tại, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn được tiếp tục dưới những hình thức mới, với
những phương pháp và thủ đoạn mới; giai cấp vô sản phải sử dụng chính
quyền của mình để xây dựng phương thức sản xuất mới, xã hội mới cộng
sản chủ nghĩa, có năng suất lao động xã hội cao, đảm bảo thắng lợi hoàn
toàn của chủ nghĩa cộng sản đối với chủ nghĩa tư bản. Như vậy, giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản sẽ có một thời kỳ quá độ từ xã hội nọ
sang xã hội kia. Theo C. Mác, “giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng
sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội
kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản”.
2
Thời kỳ đó là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản,
là giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản và còn được gọi là chủ nghĩa xã
hội.
Những đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội - giai đoạn thấp
của chủ nghĩa cộng sản
Chủ nghĩa xã hội là một giai đoạn của phương thức sản xuất cộng sản
chủ nghĩa, do đó sẽ mang những đặc trưng của phương thức sản xuất này.
Nhưng đây là xã hội mới thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó về mọi
phương diện, từ kinh tế đến đạo đức tinh thần còn mang những dấu vết của
xã hội cũ. Bởi vậy, chủ nghĩa xã hội còn có những đặc trưng riêng.
a) Sở hữu tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức: toàn dân và tập
thể

Thiết lập phương thức sản xuất mới bao hàm cả việc xây dựng lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất mới. Quan hệ sản xuất của chủ nghĩa
cộng sản có một đặc trưng hết sức quan trọng là dựa trên cơ sở chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất. Do đó, ngay trong chủ nghĩa xã hội, hình thức sở
hữu này phải giữ vai trò thống trị. Tuy nhiên, lực lượng sản xuất trong giai
đoạn chủ nghĩa xã hội chưa phát triển thật cao nên bên cạnh hình thức sở
hữu toàn dân còn có hình thức sở hữu ở trình độ thấp hơn, đó là sở hữu tập
thể về tư liệu sản xuất. Trong hai hình thức sở hữu này, người lao động từng
bước trở thành người chủ tư liệu sản xuất và làm chủ trong tổ chức, quản lý
sản xuất.
1
.C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia. Hà Nội, 1994, t. 17, tr. 725.
2
. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia. Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 47.
5
Giáo Dục Nghĩa Hưng
b) Phân phối tư liệu tiêu dùng theo lao động
Đến chủ nghĩa xã hội, người lao động là chủ của quá trình sản xuất
nên việc phân phối phải được thực hiện vì lợi ích của họ. Tư liệu tiêu dùng
sẽ được phân phối căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động. Hình thức
phân phối này mặc dù có nhiều tiến bộ nhưng vẫn mang tính pháp quyền tư
sản và do đó chưa thật sự công bằng. Trong chủ nghĩa xã hội, người lao
động vẫn còn sự khác biệt về sức khoẻ, tay nghề nên đóng góp về lao động
không giống nhau và vì thế, mức thu nhập, mức sống, điều kiện phát triển
sẽ không giống nhau. Ngay trong trường hợp đóng góp về lao động như
nhau nhưng hoàn cảnh gia đình khác nhau và vì những lý do khác nên mức
sống vẫn khác nhau.
c) Xã hội bao gồm hai giai cấp cơ bản: giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân tập thể
Việc thiết lập chế độ công hữu làm thay đổi kết cấu giai cấp trong xã

hội. Những giai cấp gắn liền với chế độ tư hữu không còn là những giai cấp
cơ bản trong xã hội do chế độ tư hữu từng bước bị thu hẹp và thay thế bởi
chế độ công hữu. Tương ứng với hai hình thức của chế độ sở hữu công cộng
về tư liệu sản xuất là hai giai cấp: giai cấp công nhân và giai cấp nông dân
tập thể. Địa vị của giai cấp công nhân đã có những thay đổi căn bản so với
trước: từ những người làm thuê họ trở thành người làm chủ, lãnh đạo xã hội;
không chỉ đời sống vật chất mà cả tri thức, học vấn ngày càng được nâng
cao.
Giai cấp nông dân, ngưòi bạn đồng minh đáng tin cậy của giai cấp
công nhân, được sự dìu dắt, giúp đỡ của giai cấp này, từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội bằng con đường hợp tác hoá. Thông qua hợp tác hoá, chế độ tư
hữu nhỏ bị thủ tiêu, hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất được thiết
lập. Người nông dân trở thành người chủ tập thể; đời sống vật chất và tinh
thần không ngừng được nâng cao. Do tác động của quá trình công nghiệp
hoá, giai cấp nông dân tập thể cũng từng bước thay đổi. Một bộ phận những
người lao động nông nghiệp chuyển sang làm việc trong công nghiệp, dịch
vụ, trở thành công nhân. Những người làm việc trong nông nghiệp dần dần
trở thành công nhân nông nghiệp.
Giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân không có sự đối kháng
về lợi ích vì họ đều là người lao động, là người chủ của xã hội mới. Trong
chủ nghĩa xã hội, mặc dù vẫn còn phân chia giai cấp nhưng do không có đối
6
Giáo Dục Nghĩa Hưng
kháng về lợi ích cho nên về bản chất, xã hội xã hội chủ nghĩa là hoà bình, ổn
định.
Để chiến thắng chủ nghĩa tư bản, nền sản xuất xã hội chủ nghĩa phải
được dựa trên trình độ cao của khoa học - công nghệ. Do đó, gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là đội ngũ trí thức mới, trí thức xã hội chủ nghĩa.
d) Chuyên chính vô sản là công cụ bảo vệ và xây dựng xã hội mới, là
nhân tố đảm bảo thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội đối với chủ

nghĩa tư bản
Sau khi chính quyền của giai cấp tư sản bị đánh đổ, những yếu tố của
xã hội cũ không lập tức bị xoá bỏ; những yếu tố và kết cấu của xã hội mới
không phải đã được hình thành và cũng không thể hình thành một cách tự
phát. Giai cấp vô sản sẽ phải thiết lập chính quyền mới, nền chuyên chính
mới, chuyên chính vô sản.
Trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, nhà nước mang bản
chất của giai cấp vô sản. “ Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia.
Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của
thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của
giai cấp vô sản”.
1

Nhà nước vô sản có những đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất, nhà nước vô sản là nhà nước của dân, do dân và vì dân
Trong xã hội có giai cấp, nhà nước bao giờ cũng mang bản chất của
một giai cấp nhất định. Mang bản chất của giai cấp vô sản, do chính đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo, nhà nước vô sản là công cụ để đề bẹp sự
phản kháng của giai cấp bóc lột, tổ chức xây dựng xã hội mới, từng bước
xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng nền kinh tế mới tạo tiền đề vật
chất để người lao động làm chủ xã hội Như vậy, sự tồn tại của nhà nước vô
sản không chỉ vì lợi ích của giai cấp vô sản mà còn vì lợi ích của quảng đại
quần chúng nhân dân lao động. Do đó, nhà nước vô sản là nhà nước của
dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, nhà nước vô sản là công cụ để bảo vệ và xây dựng xã hội
mới
Sau khi thiết lập chính quyền của giai cấp vô sản, giai cấp thống trị,
bóc lột chưa hoàn toàn bị tiêu diệt và không ngừng phản kháng nhằm lật đổ
chính quyền vô sản, ngăn cản công cuộc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế

1
.C.Mác và Ăng ghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 19, tr.47 .
7
Giáo Dục Nghĩa Hưng
mới. Vì vậy, nhà nước vô sản có chức năng bạo lực, là công cụ để bảo vệ
chế độ mới.
C. Mác, F. Ăngghen và Lênin đã dự báo khả năng cải tạo hoà bình
giai cấp tư sản. Các ông cho rằng điều này rất quý, cần được tận dụng.
Nhưng các ông cũng chỉ rõ, khả năng này chỉ xuất hiện khi chuyên chính vô
sản có đủ sức mạnh để trấn áp các lực lượng phản kháng.
Chức năng bạo lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhưng chuyên
chính vô sản không phải là bạo lực và cũng không phải chủ yếu là bạo lực.
Nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội là phải có nền sản xuất
có năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản. Điều đó không phải tự nhiên mà có,
mà chỉ có thể là kết qủa của quá trình xây dựng lâu dài, hết sức khó khăn,
phức tạp. Do đó, chuyên chính vô sản còn có chức năng tổ chức, xây dựng
và đây mới là chức năng chủ yếu của chuyên chính vô sản.
Trên đây là những đặc trưng chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Những
đặc trưng đó được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ ra từ sự
phân tích khách quan quy luật phát triển tất yếu của sản xuất xã hội. Những
đặc trưng đó mang tính phổ biến. Trong điều kiện cụ thể của quốc gia, ngoài
những đặc trưng mang tính phổ biến đó, chủ nghĩa xã hội có thể còn có
những sắc thái riêng.
Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, được Đại hội lần thứ VII Đảng cộng
sản Việt Nam dự báo, bao gồm các đặc trưng chủ yếu sau
1
:
- Nền sản xuất hiện đại.
- Chế độ công hữu với tư liệu sản xuất chủ yếu. Quan hệ kinh tế ngày
càng sâu sắc hơn, tính chất xã hội hoá ngày càng cao.

-Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
-Con người có điều kiện phát triển tự do và toàn diện.
-Các dân tộc trong nước bình đẳng, cùng tiến bộ.
-Có quan hệ hữu nghị với nhân dân các nước.
Đó chính là mục tiêu mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu, thực hiện
trong mấy chục năm qua và trong hàng chục năm tới.
Đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam nói rõ hơn về chế độ sở
hữu công cộng: “Chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất
chủ yếu là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ xã hội hóa cao
1
. Văn kiện Đại hội lần thứ VII Đảng cộng sản Việt Nam . Nxb chính trị quốc gia. H.1991 tr. 19
8
Giáo Dục Nghĩa Hưng
các lực lượng sản xuất hiện đại, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế
tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Xây dựng chế
độ đó là một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lâu dài qua nhiều bước,
nhiều hình thức từ thấp đến cao”
1
.
4. Quá độ lên chủ nghĩa cộng sản bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Theo C.Mác và F. Ăngghen, loài người sẽ lần lượt trải qua năm
phương thức sản xuất nhưng mỗi dân tộc không nhất thiết phải phát triển
tuần tự như vậy, mà có thể bỏ qua một vài phương thức sản xuất. Lịch sử đã
từng biết tới điều đó. Chẳng hạn, nước Mỹ tiến thẳng từ chế độ chiếm hữu
nô lệ lên chế độ tư bản chủ nghĩa; một số bộ tộc của vùng Trung Á tiến
thẳng từ cộng sản nguyên thuỷ lên chủ nghĩa tư bản. Điều đó có nghĩa là
một số dân tộc cũng có thể bỏ qua phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
tiến thẳng lên chủ nghĩa cộng sản.
Nghiên cứu điều kiện cụ thể của nước Nga thế kỷ XIX, C.Mác và F.
Ăngghen cho rằng các nước lạc hậu có thể phát triển theo con đường rút

ngắn, “bỏ qua toàn bộ thời kỳ tư bản chủ nghĩa” chuyển thẳng lên hình thức
sở hữu cộng sản chủ nghĩa với điều kiện là cách mạng vô sản đã thắng lợi ở
Tây Âu. “Thắng lợi của giai cấp vô sản Tây Âu đối với giai cấp tư sản và
gắn liền với điều đó, việc thay thế nền sản xuất tư bản chủ nghĩa bằng nền
sản xuất do xã hội quản lý - đó là điều kiện tiên quyết tất yếu để nâng công
xã Nga lên cùng một trình độ phát triển như vậy”
2
.
II. QUAN ĐIỂM CỦA V.I. LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
1. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng trên đây, cũng không thể xuất
hiện ngay sau khi chủ nghĩa tư bản bị đánh đổ. Giữa chủ nghĩa tư bản và chủ
nghĩa xã hội nhất định sẽ phải có một thời kỳ quá độ. Thời kỳ đó được
Lênin gọi là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ xã hội
nọ sang xã hội kia; là thời kỳ các lực lượng tư bản chủ nghĩa ngày càng suy
yếu và bị thu hẹp; là thời kỳ các lực lượng xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn
mạnh. Đó là thời kỳ đấu tranh quyết liệt giữa một bên là chủ nghĩa xã hội
1
. Văn kiện Đại hội lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam . Nxb chính trị quốc gia. H.2001, tr.87
2
. C.Mác và Ăng ghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 22, tr. 629-630
9
Giáo Dục Nghĩa Hưng
mới ra đời còn non trẻ với một bên là các thế lực tư bản chủ nghĩa và tính tự
phát tiểu tư sản, tuy đã bị lật đổ về chính trị nhưng về kinh tế vẫn còn sức
mạnh to lớn. Cuộc đấu tranh này rất gay go phức tạp, quanh co, rích rắc
nhưng thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về chủ nghĩa xã hội, bởi vì chủ nghĩa xã
hội sẽ đưa ra được và thực hiện được một kiểu tổ chức xã hội về lao động có

năng suất cao hơn chủ nghĩa tư bản.
2. Đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
a) Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ xã hội
nọ sang xã hội kia và vì thế nó không thể không bao gồm kết cấu của cả hai
chế độ xã hội, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Về mặt kinh tế, tính chất
quá độ ấy có nghĩa là cơ cấu kinh tế phải bao gồm nhiều thành phần kinh tế.
Trong cơ cấu kinh tế đó, các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công
cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa
đấu tranh với nhau quyết liệt và các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất ngày càng thắng thế, giữ vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế.
b) Sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại và phát triển
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế bao gồm nhiều
thành phần kinh tế khác nhau. Hình thức tổ chức sản xuất, kinh - doanh phổ
biến là doanh nghiệp và mỗi doanh nghiệp là chủ thể độc lập. Bởi vậy, sản
xuất vẫn mang tính chất tư nhân, xã hội chưa thể sản xuất và phân phối sản
phẩm một cách trực tiếp, tức là sản xuất vẫn do từng chủ thể kinh tế quyết
định và sản phẩm được phân phối gián tiếp thông qua quá trình trao đổi.
Như vậy, sản xuất hàng hoá vẫn tồn tại và phát triển trong suốt thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội.
c) Tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do còn tồn tại nhiều hình
thức sở hữu tư liệu sản xuất cho nên có nhiều hình thức phân phối thu nhập.
Trong thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa có phân phối thu nhập theo tư
bản và theo giá trị sức lao động; trong các thành phần kinh tế dựa trên chế
độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, phân phối thu nhập theo lao động
là hình thức phân phối chủ yếu. Bên cạnh các hình thức phân phối thu nhập
đó, còn có phân phối thu nhập từ các quỹ phúc lợi xã hội Cùng với sự
10

Giáo Dục Nghĩa Hưng
thắng thế của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân phối thu nhập theo
lao động dần dần trở thành hình thức phân phối thu nhập chủ yếu.
3. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay
Trên cơ sở tư tưởng của C.Mác và F. Ăngghen về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa cộng sản, Lênin tiếp tục nghiên cứu “sự quá độ” đó trong điều
kiện lịch sử mới. Khi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến đỉnh cao, đến
“giai đoạn tột cùng” là chủ nghĩa đế quốc thì mâu thuẫn cơ bản của chủ
nghĩa tư bản đã phát triển đến mức sâu sắc không chỉ trong phạm vi quốc
gia mà mang tính quốc tế. Điêù đó đã tạo ra tiền đề vật chất cho sự thay thế
chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
Vận dụng học thuyết cách mạng vào thực tiễn, Lênin đã lãnh đạo
thành công cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga, tháng mười năm 1917.
Nước Nga là nước tư bản ở trình độ trung bình, tính chất xã hội hoá của lực
lượng sản xuất chưa thật cao. Tuy nhiên, do tính chất của thời đại, cách
mạng xã hội chủ nghĩa vẫn có thể nổ ra và giành thắng lợi ở nước Nga.
Lênin cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Nga chỉ thắng lợi triệt
để với những điều kiện sau:
- Sự thống trị của giai cấp vô sản ở trong nước.
- Sự ủng hộ kịp thời của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước hay một
số nước tiên tiến.
- Sự liên minh giữa giai cấp vô sản đang nắm chính quyền với đại đa só
nông dân. Trong điều kiện chưa có sự giúp đỡ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở một nước hay một số nước tiên tiến thì sự liên minh này có ý
nghĩa quyết định.
Cũng do tính chất của thời đại, theo Lênin, các quốc gia dù phát triển
hay chậm phát triển đều có thể thực hiện thành công cách mạng xã hội chủ
nghĩa, khi quốc gia đó là “khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền” của chủ
nghĩa đế quốc.
Các nước chậm phát triển khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải có

điều kiện tiên quyết là: giai cấp vô sản giành lấy chính quyền, thiết lập liên
minh công nông, sử dụng chính quyền đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do
tình trạng chậm phát triển, các nước này đi lên chủ nghĩa xã hội sẽ khó khăn
và lâu dài hơn, không thể quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải trải
qua “một loạt những bước quá độ”
1
. Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
1
.V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, 1978, t.44, tr.189
11
Giáo Dục Nghĩa Hưng
thời kỳ đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội mới ra đời còn non trẻ
và chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn sức mạnh to lớn. Trong
cuộc đấu tranh đó, chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi và cũng có thể thất bại
tạm thời. Thắng lợi cuối cùng sẽ thuộc về chủ nghĩa xã hội khi chủ nghĩa xã
hội tạo ra được năng suất lao động xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, theo Lênin, các nước chậm phát triển có thể quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với các điều kiện chủ yếu:
- Thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Giai cấp vô sản giành được chính quyền, thiết lập liên minh công nông.
Thông qua chính quyền đó, giai cấp vô sản có chiến lược, sách lược đúng
đắn, có những “hình thức”, “bước đi” phù hợp.
III. THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Những đặc điểm chủ yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Năm 1954, Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng khỏi ách thống trị,
nô dịch, của thực dân Pháp. Trong xu thế của thời đại quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới, Miền Bắc bắt đầu thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Năm 1975, Miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước
hoà bình thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta mang đầy đủ những đặc trưng
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nói chung. Đồng thời, trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn có những
đặc điểm riêng. Những đặc điểm đó là:
a) Điểm xuất phát rất thấp, bỏ qua chế dộ tư bản chủ nghĩa
Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, đất nước ta bị thực dân
Pháp thống trị, đô hộ. Xã hội Việt Nam thời kỳ đó là xã hội thực dân nửa
phong kiến. Nền kinh tế ở thời kỳ này hết sức lạc hậu. Ngoài một số cơ sở
công nghiệp phục vụ đời sống của bọn thống trị, một số đồn điền, hầm mỏ
nhằm vơ vét tài nguyên của đất nước ta, kinh tế tiểu nônglà phổ biến. Năng
suất lao động xã hội rất thấp, đặc biệt trong nông nghiệp. Tình trạng mất
mùa liên tiếp xảy ra, thiếu đói là hiện tượng thường xuyên. Mùa xuân năm
1945, hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Sau khi giành được chính quyền
tháng 8 năm 1945, ngân khố nhà nước trống rỗng và đói rét là kẻ thù số
12
Giáo Dục Nghĩa Hưng
một mà chúng ta phải đối phó. Năm 1954 Miền Bắc được giải phóng và
bắt tay vào xây dựng xã hội mới. Vào thời điểm này, nền kinh tế về nhiều
phương diện còn thua kém so với thời điểm năm 1939. Với trình độ xuất
phát thấp kém như vậy, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc
gặp muôn vàn khó khăn.
Từ năm 1954, Miền Nam chịu sự thống trị của đế quốc Mỹ và chính
quyền tay sai. Trong thời kỳ này, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa được
hình thành và phát triển ở Miền Nam. Tuy nhiên, xã hội Miền Nam về thực
chất là xã hội thực dân kiểu mới. Nền kinh tế có nhiều biến dạng: cơ cấu
ngành bất hợp lý; phụ thuộc nặng nề vào bên ngoài về nguyên liệu, năng
lượng và đặc biệt là sản xuất nhỏ, manh mún, phân tán vẫn là chủ yếu.
Có thể nói rằng, mặc dù có một thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản nhưng
nền kinh tế Miền Nam ngay sau giải phóng, về căn bản vẫn là sản xuất nhỏ.
Sản xuất nhỏ cùng với những lề lối, tập tục đi liền với nó là khó

khăn, cản trở cơ bản nhất đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
đất nước ta. Từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa là đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Năm 1975, đất nước ta được hoà bình, thống nhất. Chuyên chính vô
sản dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam - đảng của giai cấp vô
sản, với vai trò quản lý của nhà nước không ngừng trưởng thành, lớn mạnh
về mọi phương diện, gánh vác sứ mệnh lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đây là nhân tố bên trong có ý nghĩa quyết định thắng lợi của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong thời kỳ này,
đất nước ta nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ to lớn của Liên Xô, các nước xã
hội chủ nghĩa, của các lực lượng tiến bộ và hoà bình trên thế giới. Đó là
nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài cho phép đất nước ta có thể quá độ
lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, mặc dù Liên
Xô, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã bị tan rã, nhưng các lực lượng
tiến bộ và hoà bình trên thế giới đã lớn mạnh hơn bao giờ hết, xu thế chung
của thời đại vẫn là hoà bình và chủ nghĩa xã hội. “Chủ nghĩa tư bản hiện đại
đang nắm ưu thế về vốn, khoa học và công nghệ, thị trường, song không thể
khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất
xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa các nước tư bản
phát triển và các nước đang phát triển. Các quốc gia độc lập ngày càng tăng
cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của
mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất
13
Giáo Dục Nghĩa Hưng
bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc, có điều kiện và
khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”
1

.
Điều kiện quốc tế đó cùng với sự lớn mạnh không ngừng của chuyên
chính vô sản cho phép đất nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không có nghĩa là “đốt cháy giai
đoạn”, là xác lập ngay lập tức các hình thức kinh tế của chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt là chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa nhưng vẫn cần kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư
bản, đặc biệt trong sự phát triển lực lượng sản xuất, phát triển khoa học
-công nghệ. Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Con đường đi lên của
nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và
kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại”
2
.
Như vậy, ở Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chỉ là bỏ qua
việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng
đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
b) Trải qua chiến tranh lâu dài, ác liệt
Từ cao trào kháng Nhật đầu những năm bốn mươi của thế kỷ XX,
Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chủ Tịch đã lãnh đạo nhân dân ta giành
chính quyền vào tháng tám năm 1945. Sau khi giành chính quyền, đất nước
ta ngay lập tức lại phải đối phó với thù trong, giặc ngoài. Sau chín năm

kháng chiến, với thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ, Miền Bắc được giải
phóng. Tuy nhiên, Miền Nam lại bị đế quốc Mỹ xâm lược và một cuộc chiến
1
.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của .Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia. H,
2001, tr.65
2
. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của .Đảng cộng sản Việt Nam. Nxb Chính trị quốc gia.
H, 2001, tr.84
14
Giáo Dục Nghĩa Hưng
tranh giải phóng mới lại bắt đầu. Đây là cuộc chiến tranh lâu dài và hết sức
ác liệt. Mặc dù nhân dân ta đã giành được thắng lợi hết sức vĩ đại nhưng
cuộc chiến tranh đó đã để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Đó là sự tàn
phá hết sức nặng nề của chiến tranh về nhân tài, vật lực, môi trường những
di chứng trên nhiều phương diện của cuộc chiến tranh chưa biết đến bao giờ
mới khắc phục được.
Năm 1975 đất nước được hoà bình, thống nhất. Nhưng chẳng bao lâu
sau đất nước ta lại phải đương đương đầu với những cuộc chiến tranh mới.
Đó là cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới Phía Bắc.
Một bộ phận đáng kể các nguồn lực lại bị hao tổn trong các cuộc chiến tranh
này; nền kinh tế bị xáo trộn
Ngày nay, thế giới đã bước sang thời kỳ mới, thời kỳ hoà dịu, chuyển
từ đối đầu sang đối thoại. Điều đó đã tạo ra thời cơ và vận hội mới cho sự
phát triển của đất nước ta. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không từ bỏ
âm mưu chống phá đất nước ta. Những sự chống phá đang diễn ra dưới
những hình thức và phương pháp mới tinh vi và xảo quyệt hơn.
Chiến tranh lâu dài, ác liệt trong quá khứ và những cuộc đấu tranh
mới đang tiếp diễn đã để lại những dấu ấn rất đậm nét trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
“Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã

hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước
trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn
dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm
cách phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân
ta”.
1
Những đặc điểm trên đây chi phối toàn bộ sự vận động của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
2. Những nhiệm vụ kinh tế cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam
Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nhiệm vụ cơ bản cần được thực hiện
là:
a) Phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội.
1
.Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
NXB Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 8
15
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Theo Lênin, suy cho đến cùng, năng suất lao động là nhân tố quyết
định thắng lợi của trật tự xã hội mới đối với trật tự xã hội cũ. Chủ nghĩa xã
hội chỉ chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản khi tạo ra được năng suất lao
động cao hơn chủ nghĩa tư bản.
Năng suất lao động cao phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật đạt đến
trình độ phát triển nhất định. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế
sản xuất nhỏ là phổ biến, cơ sở vật chất kỹ thuật của đất nước ta rất nghèo
nàn, lạc hậu. Bởi vậy, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, “là nhiệm vụ trung tâm” trong suốt thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

b) Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội dựa trên chế độ sở hữu công cộng đối với những tư
liệu sản xuất chủ yếu. Bởi vậy, việc xây dựng chế độ sở hữu công cộng dưới
hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể trở thành nhiệm vụ cơ bản
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa không
tuỳ thuộc vào nguyện vọng, ý chí của con người, mà phải tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. “Bất cứ một sự cải biến nào về
mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết qủa tất yếu của việc tạo nên những lực
lượng sản xuất mới”
1
. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, do lực lượng sản xuất còn rất thấp kém, chế độ sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất chẳng những không cần phải xoá bỏ, mà còn phải được tạo
điều kiện để phát triển, bởi vì chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn
còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, để định hướng xã hội chủ nghĩa nền
kinh tế thì ngay khi lực lượng sản xuất còn thấp kém chế độ sở hữu công
cộng đối với những tư liệu sản xuất vẫn cần được xây dựng, tạo mọi điều
kiện thuận lợi. Chế độ sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất cần được xây
dựng từ thấp đến cao, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
c) Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của khoa học - công nghệ,
toàn cầu hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Bởi vậy, mở cửa nền kinh
tế, phát triển kinh tế đối ngoại trở thành điều kiện phát triển lực lượng sản
xuất, nâng cao năng suất lao động.
1
. C.Mác và Ăng ghen: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr.467
16
Giáo Dục Nghĩa Hưng

Từ một nền kinh tế mang nặng tính chất tự nhiên, mang tính khép kín
chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, việc mở rộng và
nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại trở thành nhiệm vụ vừa mang tính cấp
bách, vừa có ý nghĩa lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại sẽ cho phép khai
thác những tiềm năng vốn có của đất nước về lao động, đất đai, tài nguyên
khắc phục sớm những khó khăn vốn có trong nền kinh tế như thiếu vốn, lạc
hậu về khoa học - công nghệ
Tuy nhiên, mở cửa nền kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại không chỉ
có cơ hội mà còn có rất nhiều thách thức như: tính phụ thuộc vào bên ngoài
tăng lên, khả năng cạnh tranh của hàng hoá yếu kém, trật tự kinh tế thế giới
đã được thiết lập có lợi cho các nước tư bản phát triển Do đó, mở cửa nền
kinh tế, phát triển kinh tế đối ngoại đặt ra nhiều vấn đề bức xúc và đòi hỏi
phải được giải quyết thành công.

CHƯƠNG IX
SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT VÀ NỀN KINH TẾ
NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
17
Giáo Dục Nghĩa Hưng
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
I. SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Sở hữu tư liệu sản xuất và vai trò của nó
Trong quá trình sản xuất, con người phải quan hệ với tự nhiên, chiếm
hữu những vật liệu có sẵn trong tự nhiên, biến đổi những vật liệu đó thành
những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của con người. Chiếm hữu là quan hệ
giữa người với tự nhiên, là hành vi tồn tại cùng với sự phát triển của con
người, là phạm trù vĩnh viễn.
Trong xã hội có giai cấp, các cá nhân lại không có quyền như nhau

đối với của cải vật chất do con người tạo ra, với những gì thuộc về tự nhiên
mà con người chiếm hữu. Quan hệ giữa người và người trong việc chiếm
hữu của cải đó là quan hệ sở hữu. Trong quan hệ sở hữu của cải vật chất,
quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.
Các phương thức sản xuất đều dựa trên một chế độ sở hữu tư liệu sản
xuất nhất định, chẳng hạn, chủ nghĩa phong kiến, chủ nghĩa tư bản dựa trên
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Nhưng điều đó không có nghĩa là mỗi
phương thức sản xuất chỉ có một chế độ sở hữu tư liệu sản xuất. Trong lịch
sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai chế độ sở hữu cơ bản về tư liệu
sản xuất: sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân. Bên cạnh hai chế độ đó là
hình thức sở hữu hỗn hợp. Mỗi chế độ sở hữu tư liệu sản xuất có thể bao
gồm một số hình thức sở hữu. Chẳng hạn, chế độ sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất gồm có hình thức sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Trong
mỗi khu vực của nền kinh tế gắn liền với một chế độ sở hữu tư liệu sản xuất
nhất định, bên cạnh các quy luật kinh tế chung còn có những quy luật riêng.
Do đó, sự vận động, phát triển của các khu vực kinh tế có sự khác biệt về
chế độ sở hữu cũng sẽ không giống nhau.
Sự xuất hiện của các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất do tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất
không ngừng vận động, biến đổi làm cho quan hệ sản xuất cũng không
ngừng vận động biến đổi. Trong lịch sử phát triển của sản xuất xã hội, sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, từ chỗ phù hợp, thúc đẩy sự phát triển của
lực lượng sản xuất dần dần trở nên lỗi thời, lạc hậu, cản trở sự phát triển của
lực lượng sản xuất. Sự thay thế sở hữu tư nhân bằng sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất, mở đường cho sự phát triển hơn nữa của lực lượng sản xuất là
tất yếu khách quan.
18
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ chuyển biến từ sở hữu
tư nhân thành sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất. Nhưng sự chuyển biến

đó mang tính khách quan, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất. Do đó, sự nóng vội, chủ quan, duy ý chí trong việc xoá bỏ sở hữu
tư nhân, xác lập sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất đều trái với yêu cầu
của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất và phải trả giá.
Đặc điểm to lớn nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là điểm xuất phát rất thấp, sản xuất nhỏ là phổ biến, bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là trình độ của lực lượng sản xuất còn rất
thấp kém và do đó, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất vẫn còn phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất, là nhân tố thúc đẩy sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất chẳng những
không cần phải xoá bỏ, mà còn cần được tạo mọi điều kiện để phát triển.
Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất vừa là phương tiện, vừa là mục
tiêu cần thực hiện trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, xây
dựng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất là tất yếu trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa, sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất còn là công
cụ quan trọng định hướng nền kinh tế lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, việc
xây dựng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phải trải qua một thời kỳ lâu
dài, từ thấp đến cao và luôn phải đặt trong mối liên hệ với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phải thể hiện
ưu thế, sức sống của mình so với sở hữu tư nhân bằng năng suất, chất lượng
và hiệu quả. Bởi vậy, xây dựng sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất không
đơn giản là thiết lập chế độ công hữu tư liệu sản xuất dưới hai hình thức
toàn dân và tập thể, mà điều quan trọng hơn và khó khăn hơn là phải làm
cho sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất có năng suất, chất lượng, hiệu quả
cao hơn so với sở hữu tư nhân.
2. Cơ cấu các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, lực lượng sản

xuất phát triển chưa cao và tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau. Do đó, trong
nền kinh tế tồn tại nhiều chế độ sở hữu tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân, sở
hữu công cộng về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Trong mỗi chế độ sở
hữu tư liệu sản xuất tồn tại những hình thức sở hữu khác nhau và vì thế
trong nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu: sở hữu nhà nước, sở hữu tập
19
Giáo Dục Nghĩa Hưng
thể, sở hữu cá thể, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước và
tư nhân
Các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất không tồn tại biệt lập mà đan
xen nhau và tác động lẫn nhau. Sở hữu nhà nước được xác lập trước hết đối
với các công trình thuộc kết cấu hạ tầng, các nguồn tài nguyên, các tài sản
quốc gia Sở hữu nhà nước còn được thiết lập trong các lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế như: ngân hàng, bảo hiểm, bưu điện, đường sắt, hàng không,
sản xuất điện, khai thác mỏ Đồng thời, do hoàn cảnh lịch sử, sở hữu nhà
nước còn được thiết lập ở các doanh nghiệp cung ứng hàng hoá, dịch vụ
thông thường. Với sự thiết lập sở hữu nhà nước, nhà nước trở thành chủ thể
kinh tế thực sự, thiết lập quan hệ kinh tế và tác động đến các chủ thể kinh tế
khác.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, sở hữu tư bản tư nhân
không còn là hình thức sở hữu thống trị nhưng vẫn tồn tại đan xen với sở
hữu nhà nước, kể cả trong các ngành kinh tế then chốt như: ngân hàng, bảo
hiểm Trong các khu vực kinh tế mà trình độ của lực lượng sản xuất thấp
kém hơn tồn tại các hình thức sở hữu cá thể, sở hữu tập thể.
Các hình thức sở hữu là cơ sở thực hiện lợi ích của các chủ thể và tác
động với nhau trên tất cả các phương diện: tổ chức quản lý, phân phối thu
nhập, năng suất, chất lượng, hiệu quả lợi ích của các chủ thể còn đòi hỏi
các hình thức sở hữu liên kết với nhau và từ đó, hình thức sở hữu hỗn hợp
xuất hiện.


II. NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Tính tất yếu khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là một thành
phần kinh tế.
Thành phần kinh tế là khu vực kinh tế, kiểu quan hệ kinh tế dựa trên
một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất.
Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập, mà có liên hệ chặt chẽ
với nhau, tác động lẫn nhau tạo thành cơ cấu kinh tế thống nhất bao gồm
nhiều thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là cơ cấu kinh tế trong đó các thành phần kinh tế cùng tồn tại như một
tổng thể, giữa chúng có quan hệ hợp tác và cạnh tranh.
Trong mỗi thành phần kinh tế, tồn tại các hình thức tổ chức kinh tế
với quy mô và trình độ công nghệ nhất định, chịu sự chi phối của các quy
20
Giáo Dục Nghĩa Hưng
luật kinh tế, cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Các thành phần kinh tế được
thể hiện ở các hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp.
Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất là quy luật chung cho mọi phương thức sản
xuất. Trong nền kinh tế chưa thật sự phát triển cao, lực lượng sản xuất luôn
tồn tại ở nhiều trình độ khác nhau; tương ứng với mỗi trình độ của lực lượng
sản xuất sẽ có một kiểu quan hệ sản xuất. Do đó, cơ cấu của nền kinh tế, xét
về phương diện kinh tế - xã hội, phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất tồn tại
ở nhiều thang bậc khác nhau, do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có
nhiều hình thức, tức là nền kinh tế sẽ có nhiều thành phần. Các thành phần
kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo
thành cơ cấu kinh tế.

Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta là tất yếu khách quan, ngoài lý do cơ bản trên
đây còn có các lý do khác:
- Xã hội cũ để lại không ít các thành phần kinh tế và chưa thể cải biến
nhanh được. Hơn nữa, sau nhiều năm cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất
mới đã xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế mới: thành phần kinh tế
nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản nhà nước
Các thành phần kinh tế cũ và các thành phần kinh tế mới tồn tại khách quan
có quan hệ với nhau cấu thành cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
- Xây dựng và phát triển kinh tế hàng hoá có sự quản lý vĩ mô của nhà
nước, thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ
sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vốn là những nhiệm vụ trọng yếu của thời
kỳ quá độ ở nước ta. Song trong điều kiện ngân sách nhà nước rất hạn hẹp,
thu nhập quốc dân còn thấp, nếu chỉ trông chờ vào nhà nước, việc thực hiện
các nhiệm vụ nói trên sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Giải phóng mọi năng lực bị
kìm hãm từ trước tới nay; khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng
về vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý tức là sử dụng sức mạnh
tổng hợp của các thành phần kinh tế là đòi hỏi khách quan của công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Nước ta có lực lượng lao động dồi dào, cần cù, thông minh. Song số
người chưa có việc làm còn nhiều, vừa lãng phí sức lao động, vừa gây ra
những khó khăn lớn về kinh tế - xã hội. Trong khi đó, khả năng thu hút lao
động của khu vực kinh tế nhà nước không nhiều. Khai thác, tận dụng tiềm
21
Giáo Dục Nghĩa Hưng
năng của các thành phần kinh tế khác là một trong những giải pháp quan
trọng để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động .
2. Vai trò của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở việt nam

Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là một tất yếu khách
quan, do đó nó có vai trò to lớn, đó là:
- Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, có nghĩa là tồn tại nhiều hình
thức quan hệ sản xuất, là tiền đề khách quan cho sự phù hợp của quan hệ sản
xuất với các trình độ khác nhau của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp này, đến
lượt nó, lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh
tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân ở nước ta.
- Nền kinh tế nhiều thành phần làm phong phú và đa dạng các chủ thể
kinh tế, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát
triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Mỗi thành phần kinh tế có ưu thế riêng trong việc khai thác và sử
dụng các nguồn lực như: vốn, lao động, tài nguyên, khoa học - công nghệ
Nền kinh tế nhiều thành phần cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực trên.
- Tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ,
trong đó có hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Đó là những “cầu nối”, trạm
“trung gian” cần thiết để đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội,
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
- Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là tiền đề khắc phục tình trạng độc
quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ
thuật, phát triển lực lượng sản xuất.
Sự phân tích trên cho thấy, cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có vai trò
to lớn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu đó vừa phù hợp với
trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ở nước ta, vừa phù hợp với lý
luận của Lê-nin về đặc điểm kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định rằng:
“chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính
quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân

chủ về kinh tế bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật”.
1
3. Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay
1
Nghị quyết Hội nhghị Ban chấp hành TƯ Đảng CSVN lần thứ 6 khoá VI
22
Giáo Dục Nghĩa Hưng
Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng
cộng sản Việt Nam xác định: nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam có 6 thành phần
2
.
a) Kinh tế nhà nước
Kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu nhà nước về
tư liệu sản xuất, bao gồm các doanh nghiệp nhà nước; các tài sản thuộc sở
hữu nhà nước như đất đai, hầm mỏ, rừng, biển, tài nguyên, ngân sách, các
quỹ dự trữ, ngân hàng nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế
- xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành
phần kinh tế khác trong và ngoài nước
Kinh tế nhà nước do nhiều bộ phận hợp thành trong đó doanh nghiệp
nhà nước là một bộ phận nòng cốt.
Kinh tế nhà nước ở nước ta được hình thành bằng nhiều con đường
khác nhau. Sau khi Miền Bắc được giải phóng (năm 1954), những cơ sở
kinh tế của Thực dân Pháp được quốc hữu hoá và trở thành kinh tế nhà
nước. Sau khi được giải phóng hoàn toàn, đất nước thống nhất (năm 1975),
ở Miền Nam, tất cả những cơ sở kinh tế của chính quyền cũ, của tư bản
nước ngoài và tư sản mại bản được quốc hữu hoá và trở thành kinh tế nhà
nước. Ngoài quốc hữu hoá, kinh tế nhà nước còn được hình thành do quá
trình cải tạo xã hội chủ nghĩa nền kinh tế quốc dân. Một phần những cơ sở
kinh tế của tư bản tư nhân được cải tạo và trở thành kinh tế nhà nước. Con

đường quan trọng nhất hình thành kinh tế nhà nước ở nước ta là xây dựng
mới. Trong suốt thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, hàng loạt những cơ sở
kinh tế nhà nước đã được đầu tư xây dựng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, từ năm 1986 đất
nước ta tiến hành đổi mới kinh tế, nền kinh tế nước ta từng bước chuyển
sang kinh tế thị trường. Khi chuyển sang cơ chế mới, phần lớn các doanh
nghiệp nhà nước bị thua lỗ. Cải cách các doanh nghiệp nhà nước trở thành
nội dung quan trọng của đổi mới kinh tế ở nước ta. Theo quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam, kinh tế nhà nước phải được xây dựng để trở thành
thành phần kinh tế chủ đạo, định hướng nền kinh tế lên chủ nghĩa xã hội.
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân được
thể hiện chủ yếu trên các mặt:
- Nắm giữ các vị trí, các lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Nhờ đó,
kinh tế nhà nước có thể chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác
và của toàn bộ nền kinh tế. Các vị trí, lĩnh vực then chốt đó là: ngân hàng,
2
.Xem “Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam”.Nxb Chính trị Quốc
gia.H. 2001.
23
Giáo Dục Nghĩa Hưng
bảo hiểm, bưu điện, hàng không, đường sắt, sản xuất năng lượng, khai thác
mỏ Kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc cung cấp
hàng hoá công cộng cho nền kinh tế: đường sá, sân bay, bến cảng, điện,
nước Đây là những nhân tố không thể thiếu được cho một nền kinh tế tăng
trưởng nhanh và bền vững, nhưng các thành phần kinh tế khác ít có khả
năng đáp ứng.
Nắm giữ các vị trí then chốt không có nghĩa là trong các ngành, lĩnh
vực quan trọng chỉ có kinh tế nhà nước, mà vẫn có thể và cần phải sử dụng
các thành phần kinh tế khác. Điều quan trọng là kinh tế nhà nước phải chi
phối được các ngành, lĩnh vực quan trọng này.

Nhà nước có thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhà nước nắm
giữ những vị trí, những lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế thông qua các
chính sách kinh tế, các văn bản pháp luật
- Có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Nhờ đó, kinh tế nhà nước
không chỉ trực tiếp đóng góp vào quá trình tăng trưởng nhanh và bền vững
của nền kinh tế quốc dân, mà còn tạo sức mạnh trong cạnh tranh, buộc các
thành phần kinh tế khác cũng phải không ngừng nâng cao năng suất, chất
lượng và hiệu quả, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho quá trình tăng
trưởng, phát triển của nền kinh tế.
Nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các doanh nghiệp
nhà nước là công việc hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài. Đây là nội
dung chủ yếu của cải cách các doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, giải
pháp đầu tiên được áp dụng là giải tán hoặc sát nhập những doanh nghiệp
nhà nước làm ăn thực sự kém hiệu quả. Do thực hiện giải pháp này, số
doanh nghiệp nhà nước đã giảm đáng kể. Theo số liệu của tổng cục thống kê
năm 1989 cả nước ta có 12084 doanh nghiệp nhà nước đến năm 1997: 5790
doanh nghiệp nhà nước và năm 1999 còn khoảng hơn 5000 doanh nghiệp
nhà nước.
Giải pháp thứ hai là đầu tư hiện đại hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Nhờ được đầu tư, các doanh nghiệp nhà nước có thể đổi mới công nghệ, nhờ
đó, nâng cao được hiệu quả. Tuy nhiên, giải pháp này gặp trở ngại là khả
năng tài chính có hạn của nhà nước.
Giải pháp thứ ba là liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế
khác ở trong nước và với nước ngoài. Đây là giải pháp đã giúp không ít các
doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả kinh doanh. Từ năm 1996 đến
nay, số lượng các liên doanh mới được thành lập rất nhỏ, trong khi đó nhiều
24
Giáo Dục Nghĩa Hưng
liên doanh được thành lập trước đây bị tan rã. Điều đó có nghĩa là giải pháp

này hầu như không còn tác dụng.
Giải pháp thứ tư là cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Đây là
giải pháp rất có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay. Nhờ cổ phần hoá, các
doanh nghiệp huy động được vốn để đổi mới thiết bị công nghệ và do đó
nâng cao được tính hiệu quả. Nhờ cổ phần hoá, các doanh nghiệp có người
sở hữu đích thực, quan tâm đến hoạt động của doanh nghiệp và nhờ đó hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hoá
đang gặp không ít khó khăn, trở ngại. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nước là yêu cầu cấp bách của cải cách các doanh nghiệp
nhà nước ở nước ta hiện nay.
Xây dựng kinh tế nhà nước trở thành thành phần kinh tế chủ đạo, làm
chỗ dựa vật chất cho nhà nước thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô,
định hướng nền kinh tế theo chủ nghĩa xã hội là nội dung quan trọng của
đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay. “ Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế
nhà nước trong những ngành những lĩnh vực trọng yếu: kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất
dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện những nhiệm vụ có quan
hệ đến quốc phòng, an ninh. Tiếp tục đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp
nhà nước, phát huy cao độ quyền tự chủ của doanh nghiệp trong sản xuất -
kinh doanh. Thực hiện cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước để
huy dộng thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp nhà nước làm
ăn có hiệu quả, làm cho tài sản thuộc sở hữu nhà nước ngày càng tăng. Tổ
chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm vừa tránh phân tán, cục bộ, vừa
chống độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính trung gian”.
1

b) Kinh tế tập thể
Kinh tế tập thể là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do
người lao động tự nguyện góp vốn, cùng kinh doanh, tự quản lý theo nguyên
tắc tập trung, dân chủ, bình đẳng, cùng có lợi.

Kinh tế tập thể là hình thức kinh tế mà giai cấp vô sản sử dụng để
từng bước dẫn dắt giai cấp nông dân đi lên chủ nghĩa xã hội.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -Lênin, kinh tế tập thể
phải được xây dựng trên những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, tự nguyện. Đây là nguyên tắc cao nhất của việc xây dựng
kinh tế tập thể. Sở dĩ như vậy là vì, nông dân là những người lao động; giai
1
. Văn kiện Đại hội Đảng CSVN lần thứ VIII, NXB chính trị quốc gia, Hà nội, tr. 94-95
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×