Tải bản đầy đủ (.docx) (99 trang)

Giáo trình Phân tích Tài chính doanh nghiệp pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.92 KB, 99 trang )

Trường đại học kinh doanh và công nghệ hà nội
Khoa Kế toán

Giáo trình
Phân tích
Tài chính doanh nghiệp
Dành cho SV các khóa học 3 ĐVHT
Hà Nội , 2011
Mục lục
Phần thứ nhất Tran
g
Chương 1:Những vấn đề chung của phân tích tài chính doanh nghiệp 3
1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp. 3
1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. 5
1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp. 6
1.4.Tổ chức công tác phân tích các loại phân tích 15
Chương 2:phân tích kết quả hoạt động kinh doanh 17
2.1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết
định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 19
2.2. Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến nó 22
2.3. Phân tích lợi nhuận bán hàng 62
Chương 3:phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp 70
3.1. Phân tích đánh giá thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp
thông qua các chỉ tiêu chủ yếu của bảng cân đối kế toán 71
3.2. Phân tích tình hình tổ chức huy động vốn của doanh nghiệp 102
3.3. Phân tích đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn của
doanh nghiệp
104
3.4. Đắc điểm phân tích, đánh giá kết quả của việc quản lý và sử dụng
vốn trong các doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp cổ phần 111


Phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương 1
Những vấn đề chung của
phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp được quan niệm như là một tổng thể các
phương pháp được sử dụng để đánh giá được thực trạng tình hình tài chính hiện tại và
quá khứ của Doanh nghiệp, thông qua đó cung cấp những thông tin cần thiết cho những
đối tác khác nhau để họ có nhưng quyết định phục vụ cho những mục tiêu và lợi ích
khác nhau. Trong điều kiện hiện nay, phân tích tài chính không còn bị giới hạn ở các dữ
liệu tài chính nữa mà đã có thêm các dữ liệu kinh tế và thị trường chứng khoán, do vậy
số đối tác quan tâm, sử dụng các báo cáo tài chính và thông tin từ kết quả phân tích tài
chính doanh nghiệp cũng ngày càng mở rộng và tăng lên. Ngoài đối tượng quan trọng là
chủ doanh nghiệp, họ bao gồm.
- Các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan thuế;
- Các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài chính, những
người mua tín phiếu, các doanh nghiệp khác, các công ty mẹ v.v ;
- Các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai;
- Những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả những
người làm công ăn lương;
- Các đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp v.v
* Phân tích tài chính đối với các chủ doanh nghiệp.
Là chủ doanh nghiệp, hơn ai hết họ là người rất quan tâm đến những thông tin được
cung cấp thông qua kết quả của phân tích tài chính doanh nghiệp (được gọi là phân tích tài
chính nội bộ), như kết quả cuối cùng của hoạt động kinh doanh, kết quả của việc quản lý và
sử dụng vốn, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, rủi ro tài chính doanh nghiệp v.v
Những thông tin nói trên sẽ là cơ sở để các chủ doanh nghiệp lựa chọn, cân nhắc để đưa ra
các quyết định đúng đắn về quản lý trong tương lai, như quyết định về đầu tư, về tài trợ, về
phân bổ vốn và sử dụng vốn, về giải quyết tình hình công nợ, về phân chia và sử dụng lợi
nhuận, điều chỉnh cơ cấu sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, liên doanh liên kết v.v

* Phân tích tài chính đối với các cơ quan chức năng của nhà nước, cơ quan
thuế:
Theo chế độ tài chính hiện hành, các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp
liên doanh, cổ phần có vốn của nhà nước đều quản lý và sử dụng một lượng tài sản và tiền
vốn nhất định thuộc sở hữu nhà nước, do đó các cơ quan chức năng của nhà nước, như cơ
quan tài chính, cơ quan chủ quản đều quan tâm đến những thông tin về tình hình phân bổ
và sử dụng vốn, tình hình đầu tư, khả năng tạo vốn, khả năng sinh lời, tình hình bảo toàn
vốn v.v ; Với cơ quan thuế, vấn đề quan tâm với họ còn rộng hơn, cụ thể như kết quả
hoạt động kinh doanh, việc thực hiện các nghĩa vụ với nhà nước, như thuế giá trị gia tăng,
thuế thu nhập, thuế vốn, thuế đất, thuế tài nguyên và các khoản phải nộp khác
* Phân tích tài chính đối với các nhà cho vay, các chủ nợ của doanh nghiệp,
các cổ đông hiện tại và cổ đông tương lai:
Hiện nay, vốn vay và nợ phải trả chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số nguồn vốn của
doanh nghiệp. Do vậy các nhà cho vay, như các ngân hàng thương mại, các định chế tài
chính, những người mua tín phiếu, trái phiếu, các nhà bán chịu cho doanh nghiệp đều
rất quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán,
khả năng trả nợ vay, hiệu quả sử dụng vốn, thu nhập của cổ phiếu, tỉ suất lợi nhuận trên
vốn cổ đông, tỉ lệ trả lãi cổ phần, tỉ giá thị trường trên thu nhập của mỗi cổ phiếuv.v
* Phân tích tài chính doanh nghiệp đối với những người tham gia vào hoạt động
của doanh nghiệp, bao gồm cả những người làm công ăn lương: Là những người trực
tiếp tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, do đó quyền lợi của họ gắn liền và tuỳ thuộc
vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Họ quan tâm đến kết quả hoạt động
kinh doanh, khả năng sinh lời, tình hình đầu tư, khả năng thanh toán (đặc biệt là thanh toán
nhanh) v.v Đối với các doanh nghiệp cổ phần, người hưởng lương cũng quan tâm đến
hiệu quả sử dụng vốn cổ đông cũng giống với sự quan tâm của cổ đông của doanh nghiệp.
* Phân tích tài chính đối với các đối thủ cạnh tranh:
Hoạt động trong điều kiện của kinh tế thị trường, đặc biệt trong xu hướng hội
nhập và toàn cầu hoá, cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt. Trên cùng một thị trường,
nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất và kinh doanh mặt hàng (sản phẩm) giống nhau, ví
dụ xe máy, ôtô, bia, đồ dùng gia dụng v.v , do đó các đối thủ cạnh tranh rất muốn biết

những thông tin liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp khác, như kết quả
sản xuất kinh doanh, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tình hình đầu tư, tình hình
và khả năng tạo vốn thông qua phát hành tín phiếu, trái phiếuv.v
Từ những vấn đề phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận rằng, có rất nhiều đối tượng quan
tâm đến các báo cáo tài chính và những thông tin được rút ra từ phân tích tài chính của doanh
nghiệp. Những thông tin có được qua phân tích tài chính doanh nghiệp là cơ sở quan trọng để họ
sử dụng trong việc đưa ra các quyết định có liên quan tới những mục đích khác nhau, như:
- Quyết định có liên quan đến yêu cầu quản lý doanh nghiệp;
- Quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay, bán chịu;
- Quyết định mua hay bán tín phiếu của doanh nghiệp;
- Quyết định chuyển đổi quyền sở hữu doanh nghiệp (sát nhập, cổ phần, liên
doanh, giải thể v.v ) v.v
Chính vì những ý nghĩa tác dụng nói trên nó đã khẳng định sự cần thiết của phân
tích tài chính doanh nghiệp.
1.2. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp
Để thực hiện được mục đích của việc phân tích tài chính doanh nghiệp, nội dung
chủ yếu của nó bao gồm:
- Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh;
- Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp;
1.3. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp.
Để thực hiện được các mục đích, phân tích tài chính thường sử dụng một hệ
thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế,
phương pháp tính (xác định) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế,
phương pháp tương quanv.v
1.3.1. Phương pháp đánh giá các kết quả kinh tế
Để đánh giá các kết quả kinh tế cũng như kết quả của việc thực hiện các mục
tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra, phân tích có thể sử dụng phương pháp phân chia các
hiện tượng và kết quả kinh tế, phương pháp so sánh, phương pháp đồ biểu, đồ thịv.v
trong đó chủ yếu là phương pháp so sánh.
* Về phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh, người ta sẽ đạt được

các mục đích sau đây:
- Thứ nhất, qua so sánh, người ta biết được mức độ (kết quả) của việc thực hiện
các mục tiêu do chính doanh nghiệp đặt ra. Muốn vậy, cần tiến hành so sánh giữa kết
quả thực tế đạt được với mục tiêu hay kế hoạch đặt ra.
- Thứ hai, qua so sánh, người ta biết được tốc độ, xu hướng phát triển của các
hiện tượng và kết quả kinh tế; Muốn vậy cần so sánh giữa kết quả của kì này với kết quả
của các kì trước.
- Thứ ba, qua so sánh sẽ biết được mức độ tiên tiến hay lạc hậu của từng đơn vị
trong quá trình thực hiện mục tiêu của mình. Để đạt được mục đích này, cần tiến hành
so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác có cùng loại hình và
qui mô hoạt động, đồng thời so sánh giữa kết quả của từng đơn vị với kết quả trung bình
của tổng thể.
Tiến hành việc so sánh nói trên, có thể so sánh bằng số tuyệt đối, có thể so sánh
bằng số tương đối (thông qua các tỉ lệ), đồng thời phải có hai điều kiện:
- Một là phải có (tồn tại) ít nhất hai chỉ tiêu hoặc hai đại lượng thì mới có thể so
sánh được;
- Hai là các chỉ tiêu, các đại lượng khi so sánh với nhau phải có cùng một nội
dung kinh tế và cùng một tiêu chuẩn biểu hiện.
1.3.2. Phương pháp xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết
quả kinh tế.
Như người ta biết, các hiện tượng và kết quả kinh tế thường chịu tác động bởi
rất nhiều các nhân tố khác nhau. Các nhân tố có thể làm tăng, có thể làm giảm các kết
quả kinh tế; nó có thể là nhân tố khách quan, có thể là nhân tố chủ quan; có thể là nhân
tố chủ yếu và có thể là nhân tố thứ yếu v.v Việc nhận thức được các nhân tố ảnh
hưởng, mức độ ảnh hưởng và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố là vấn đề bản chất
của phân tích.
Để xác định được mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế, phân
tích có thể sử dụng một hệ thống các phương pháp khác nhau, như phương pháp thay
thế liên hoàn, phương pháp số chênh lệch, phương pháp cân đối, phương pháp chỉ số
v.v

1.3.2.1. Phương pháp thay thế liên hoàn.
Phương pháp thay thế liên hoàn (còn gọi là phương pháp thay thế kiểu mắt xích)
được sử dụng để xác định (tính) mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết qủa kinh tế
khi các nhân tố ảnh hưởng này có quan hệ tích số, thương số hoặc kết hợp cả tích và
thương với kết quả kinh tế. Nội dung và trình tự của phương pháp này như sau:
- Trước hết, phải biết đựơc số lượng các nhân tốt ảnh hưởng, mối quan hệ của
chung với chỉ tiêu phân tích, từ đó xác định được công thức tính của chỉ tiêu.
- Thứ hai, cần sắp xếp thứ tự các nhân tố theo một trình tự nhất định: Nhân tố số
lượng xếp trước, nhân tố chất lượng xếp sau; trường hợp có nhiều nhân tố số lượng
cùng ảnh hưởng thì nhân tố chủ yếu xếp trước nhân tố thứ yếu xếp sau và không đảo lộn
trình tự này.
- Thứ ba, tiến hành lần lượt thay thế từng nhân tố một theo trình tự nói trên -
Nhân tố nào được thay thế, nó sẽ lấy giá trị thực tế từ đó, còn các nhân tố chưa được
thay thế phải giữ nguyên giá trị ở kỳ gốc hoặc kỳ kế hoạch - Thay thế xong một nhân tố,
phải tính ra kết quả cụ thể của lần thay thế đó, lấy kết quả này so với (trừ đi) kết quả của
bước trước nó thì chênh lệch tính được chính là kết quả do ảnh hưởng của nhân tố vừa
được thay thế.
- Cuối cùng, có bao nhiêu nhân tố phải thay thế bấy nhiêu lần và tổng hợp ảnh
hưởng của các nhân tố phải bằng với đối tượng cụ thể của phân tích (chính là chênh
lệch giữa thực tế với kế hoạch hoặc kỳ gốc của chỉ tiêu phân tích).
Để làm rõ các vấn đề lý luận ở trên, có thể lấy một số ví dụ khái quát như sau:
Ví dụ 1: Giả định chỉ tiêu A cần phân tích; A tuỳ thuộc vào 3 nhân tố ảnh hưởng,
theo thứ tự a, b và c; các nhân tố này có quan hệ tích số chỉ tiêu A, từ đó chỉ tiêu A được
xác định cụ thể như sau:
A = a.b.c
Ta quy ước thời kỳ kế hoạch được ký hiệu là số 0 (số không) còn kỳ thực tế
được ký hiệu bằng số 1 (số một) - Từ quy ước này, chỉ tiêu A kỳ kế hoạch và kỳ thực tế
lần lượt được xác định như sau:
A
0

= a
0
. b
0
. c
0

A
1
= a
1
. b
1
. c
1

Đối tượng cụ thể của phân tích được xác định là:
A
1
- A
0
= ∆
A
Chênh lệch nói trên có thể được giải thích bởi ảnh hưởng của ba nhân tố cụ thể
là a, b và c; bằng phương pháp thay thế liên hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố
lần lượt được xác định như sau:
- Thay thế lần 1: Thay thế nhân tố a:
a
1
. b

0
. c
0
- a
0
. b
0
. c
0
= ∆a
∆a là ảnh hưởng của nhân tố a.
- Thay thế lần 2: Thay thế nhân tố b.
a
1
b
1
c
0
- a
1
b
0
c
0
= ∆b
∆b là kết quả ảnh hưởng của nhân tố b.
- Thay thế lần 3: Thay thế nhân tố c.
a
1
. b

1
. c
1
- a
1
b
1
c
0
= ∆c
∆c là nhân tố ảnh hưởng của nhân tố c.
- Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có:
∆a + ∆b +∆c = ∆
A
= A
1
- A
0
Ví dụ 2: Chỉ tiêu B cần phân tích: B tuỳ thuộc vào ba nhân tố, theo thứ tự a, b, c;
các nhân tố này có quan hệ kết hợp cả thương và tích với chỉ tiêu B, từ đó B được xác
định như sau:
B =
b
a
. c
Ta cũng quy ước như ví dụ 1, từ đó B
0
và B
1
lần lượt được xác định như sau:

B
0
=
a
0
. c
0

b
0
B
1
=
a
1
. c
1
b
1
Khi so sánh giữa B
1
với B
0
, ta có:
B
1
- B
0
= ∆
B


B
cũng do ảnh hưởng của ba nhân tố a, b, c và bằng phương pháp thay thế liên
hoàn, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt xác định được như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a (thay thế lần 1):
a
1
. c
0
-
a
0
. c
0
= ∆a
b
0
b
0
- Do ảnh hưởng của nhân tố b (thay thế lần 2):
a
1
. c
0
-
a
1
. c
0
= ∆b

b
1
b
0
- Do ảnh hưởng của nhân tố c (thay thế lần 3):
a
1
. c
1
-
a
1
. c
0
= ∆c
b
1
b
1
- Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta có:
∆a + ∆b + ∆c = ∆B = B
1
- B
0
Từ thí dụ 1 đã trình bày ở trên, ta nhận thấy rằng ở các lần thay thế, giữa các đại
lượng khi loại trừ lẫn nhau tồn tại các thừa số chung. Ví dụ ở lần thay thế thứ nhất, có
các thừa số chung là b
0
, c
0

; ở lần thay thế thứ 2, các thừa số chung là a
1
, c
0
, còn ở lần
thay thế thứ 3, các thừa sốchung là a
1
, b
1
. Về mặt toán học, người ta có thể nhóm các
thừa số chung mà không làm thay đổi các kết quả đã được tính toán. Kết quả của việc
nhóm các thừa số chung, ta được phương pháp khác để tính toán mức độ ảnh hưởng của
từng nhân tố - đó là phương pháp số chênh lệch (lưu ý khi nhóm các thừa số chung vẫn
phải tuân theo các quy tắc và trình tự của phương pháp thay thế liên hoàn, đặc biệt là
không được làm đảo lộn thứ tự ảnh hưởng của các nhân tố).
Cụ thể, bằng phương pháp nói trên, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố ở ví dụ
1 lần lượt được xác định như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a:
∆a = (a
1
- a
0
)b
0
c
0
- Do ảnh hưởng của nhân tố b:
∆b = a
1
(b

1
- b
0
)c
0
- Do ảnh hưởng của nhân tố c:
∆c = a
1
b
1
(c
1
- c
0
)
- Tổng hợp ảnh hưởng của cả ba nhân tố, ta cũng có:
∆a + ∆b + ∆c = ∆
A
= A
1
- A
0
Từ kết quả tính toán ở trên, ta nhận thấy rằng thực chất của phương pháp số
chênh lệch chỉ là hình thức giản đơn của phương pháp thay thế liên hoàn và nó thường
được sử dụng khi các nhân tố ảnh hưởng có quan hệ tích số với chỉ tiêu phân tích (việc
tính toán khi đó sẽ đơn giản hơn).
1.3.2.2. Phương pháp cân đối.
Khác với phương pháp thay thế liên hoàn và phương pháp số chênh lệch,
phương pháp cân đối được sử dụng để tính mức độc ảnh hưởng của từng nhân tố khi
chúng có quan hệ tổng với chỉ tiêu phân tích, cho nên mức độ ảnh hưởng của từng nhân

tố là độc lập với nhau và việc tính toán cũng đơn giản hơn.
Cụ thể, để tính mức độ ảnh hưởng của nhân tố nào đó, chỉ cần tính ra chênh lệch
giữa thực tế với kế hoạch (kỳ gốc) của bản thân nhân tố đó và không cần quan tâm đến
các nhân tố khác.
Ví dụ:
Chỉ tiêu E cần phân tích: E chịu ảnh hưởng bởi ba nhân tố a, b, c và các nhân tố
này có quan hệ tổng với chỉ tiêu E. Chỉ tiêu E được xác định như sau:
E = a + b - c
Cũng qui ước như ở phần trước, ta có:
E
0
= a
0
+ b
0
- c
0
E
1
= a
1
+ b
1
- c
1
Tiến hành so sánh giữa chỉ tiêu kỳ thực tế với kỳ kế hoạch ta có:
E
1
- E
0

= ∆
E
Khi sử dụng phương pháp cân đối, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố lần lượt
được xác định như sau:
- Do ảnh hưởng của nhân tố a:
∆a = a
1
- a
0
- Do ảnh hưởng của nhân tố b:
∆b = b
1
- b
0
- Do ảnh hưởng của nhân tố c:
∆c = -(c
1
- c
0
)
- Tổng hợp ảnh hưởng của ba nhân tố, ta có:
∆a + ∆b + ∆c = ∆
E
= E
1
- E
0
1.3.3. Phương pháp tương quan
Như người ta biết, giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế thường tồn tại những
mối quan hệ tác động qua lại mật thiết và phụ thuộc lẫn nhau. Đặc trưng cơ bản của các

mối quan hệ này là sự thay đổi của hiện tượng hoặc kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo
theo) sự thay đổi của các hiện tượng hoặc kết quả kinh tế khác. Nếu xét theo quan điểm
triết học, giữa chúng tồn tại mối quan hệ nhân quả, còn xét theo quan điểm toán học,
giữa chúng có mối quan hệ giữa biến độc lập và biến phụ thuộc và nó có thể được biểu
hiện qua những hàm tương quan khác nhau - Vấn đề đặt ra là lựa chọn phương trình
tương quan nao để biểu thị tốt nhất sự phụ thuộc lẫn nhau hay là mối liên hệ chặt chẽ
giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế - Đây cũng là vấn đề bản chất khi sử dụng các
hàm tương quan trong phân tích.
Mối tương quan giữa các hiện tượng và kết quả kinh tế có thể tồn tại dưới hai
dạng: Tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch.
y
a
O
x
y = a + bx
Trường hợp tương quan tỉ lệ thuận - Trong trường hợp này, việc tăng của hiện
tượng hay kết quả kinh tế này sẽ kéo theo (xác định) việc tăng của hiện tượng hay kết
quả kinh tế khác và ngược lại. Người ta có thể gọi là mối tương quan đồng biến. Ví dụ,
mối quan hệ giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí sản xuất có tính chất
biến đổi - trong điều kiện các nhân tố khác không đổi (điều kiện yếu tố sản xuất không
đổi), khi khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí sản xuất biến đổi
cũng tăng lên và ngược lại. Nếu biểu hiện và theo dõi sự biến thiên của hai hiện tượng
nói trên trong nhiều năm liên tục (ít nhất là 5 năm) trên cùng một hệ trục toạ độ XOY -
trong đó OX là trục hoành, biểu thị khối lượng sản phẩm sản xuất, còn OY là trục tung,
biểu thị tổng số chi phí sản xuất biến đổi, người ta nhận thấy rằng đường biểu diễn của
nó có dạng đường thẳng, gần trùng với đường biểu diễn của hàm số mà phương trình
của nó có dạng:
Y = a + bx
điều đó có nghĩa là, có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng y = a
+ bx để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất với tổng số chi phí

sản xuất biến đổi; trong đó:
Ox là trục biểu hiện giá trị khối lượng sản phẩm
Oy là trục biểu hiện tổng số chi phí biến đổi.
Đồ thị của hàm số y = a + bx có dạng là đường thẳng - Hình 1
Hình 1
- Trường hợp tương quan tỉ lệ nghịch - Trường hợp này ngược lại với trường
hợp trên, nghĩa là việc tăng của hiện tượng hay kết quả kinh tế này sẽ xác định (kéo
theo) việc giảm của hiện tượng hay kết quả kinh tế khác và ngược lại. Có thể gọi nó là
mối tương quan nghịch biến. Ví dụ mối tương quan giữa giá trị khối lượng sản phẩm
sản xuất với tỉ suất chi phí sản xuất có tính chất cố định: Trong điêu kiện của nhân tố
khác không đổi, nếu khối lượng sản phẩm sản xuất tăng lên thì tổng số chi phí cố định
không biến động, còn tỉ suất của nó thì giảm và ngược lại. Cũng theo dõi sự biến động
y
a
O
x
b
y a
x
= +
của hai hiện tượng trên cùng một hệ trục tọa độ xOy, trong đó Ox là trục hoành, biểu thị
khối lượng sản phẩm sản xuất, còn Oy là trục tung, biểu thị tỉ suất chi phí cố định, khi
đó đường biểu diễn của nó có dạng đường cong gần giống với đường cong hypecbol
ứng với hàm hồi quy mà phương trình của nó có dạng:
b
y a
x
= +
điều đó có nghĩa là có thể sử dụng hàm hồi quy mà phương trình có dạng
b

y a
x
= +
để biểu thị mối tương quan giữa khối lượng sản phẩm sản xuất và tỉ suất chi
phí cố định - Trong đó Ox là trục biểu hiện khối lượng sản phẩm sản xuất; còn Oy là
trục biểu hiện tỉ suất chi phí cố định.
Đồ thị của hàm số
b
y a
x
= +
được biểu thị như sau- Hình 2
Hình 2
Các kết quả thu dược khi sử dụng các hàm hồi quy thông qua ngoại suy chủ yếu
phục vụ cho phân tích dự đoán để lập các chỉ tiêu cho các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn.
Nhưng khi sử dụng các kết quả đó phải lưu ý rằng chúng được tính toán dựa trên các
hiện tượng và kết quả kinh tế đã xẩy ra trong quá khứ và lại được sử dụng cho hiện tại
và tương lai gần, trong đó chúng còn chịu tác động bởi nhiều nhân tố khác. Do đó, cần
phải tính đến sự tác động của các nhân tố đó để tiến hành điều chỉnh phù hợp với tình
hình biến động của thực tế, đảm bảo tính hiện thực, tính khoa học của các chỉ tiêu, giúp
cho công tác quản lý đạt được hiệu quả cao nhất.
1.4. Tổ chức công tác phân tích và các loại phân tích
Cũng như bất kì công tác nào của doanh nghiệp, công tác phân tích tài chính
cũng cần được tổ chức một cách có hệ thống và khoa học để thực hiện được các mục
tiêu của nó. Cụ thể tổ chức công tác phân tích thường bao gồm 4 khâu (giai doạn) cơ
bàn sau đây:
- Khâu lập kế hoạch: Nội dung cơ bản của khâu này bao gồm: Nội dung, chỉ tiêu
cần phân tích; khoảng thời gian mà các nội dung, chỉ tiêu đó phát sinh (trong quí, năm
v.v ); thời hạn bắt đầu và kết thúc và cuối cùng là người, đơn vị thực hiện.
- Khâu sưu tầm, lựa chọn kiểm tra tài liệu số liệu. Tuỳ thuộc vào nội dung và chỉ

tiêu phân tích mà tiến hành sưu tầm, lựa chọn và kiểm tra số liệu, tài liệu sau đây:
+ Tài liệu kế hoạch, bao gồm hệ thống các định mức kinh tế kĩ thuật hiện
hành,các mục tiêu, chỉ tiêu dài hạn và ngắn hạn do chính doanh nghiệp tự xác định.
+ Tài liệu hạch toán, bao gồm tài liệu của hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê
và hạch toán kế toán, trong đó chủ yếu là hạch toán kế toán. Cụ thể để phân tích tài chính
doanh nghiệp cần sử dụng số liệu, tài liệu được rút ra từ báo cáo kết quả hoạt động kinh
doanh (mẫu số B02 - DN), Bảng cân đối kế toán (mẫu số B01-DN), thuyết minh Báo cáo
tài chính - mục chi tiết một số chỉ tiêu trong báo cáo tài chính (mẫu số B09-DN).
+ Tài liệu ngoài hạch toán, bao gồm các biên bản thanh tra, kiểm tra, kiểm toán,
các báo cáo tổng kết hoạt động của doanh nghiệpv.v Vì các số liệu, tài liệu được sưu
tầm lựa chọn từ nhiều nguồn khác nhau nên cần kiểm tra để xác định tính chính xác,
tính thống nhất của chúng.
- Khâu xử lý, tính toán chỉ tiêu và tiến hành phân tích. Đây là khâu quan trọng
nhất của công tác phân tích, do đó cần được tiến hành theo phương pháp phù hợp để
đảm bảo kết quả của công tác phân tích.
- Khâu lập báo cáo phân tích: Kết thúc công tác phân tích, cần lập báo cáo phân
tích. Nội dung chủ yếu của báo cáo phân tích bao gồm:
+ Những kết luận được rút ra từ công tác phân tích.
+ Những nguyên nhân chủ yếu đã ảnh hưởng đến các kết quả kinh tế của doanh
nghiệp;
+ Những biện pháp cơ bản cần áp dụng để khắc phục được những tồn tại đã qua,
động viên và khai thác khả năng tiềm tàng của kì sắp tới.
* Các loại phân tích: Tuỳ theo mục đích và phạm vi khác nhau, phân tích tài
chính có thể được phân thành phân tích thực hiện và phân tích dự đoán; Trong phân tích
thực hiện có thể bao gồm phân tích toàn diện và phân tích chuyên đề. Nói chung, phân
tích chuyên đề thường tiến hành thường xuyên (hoặc định kì), còn phân tích toàn diện
chỉ có thể tiến hành theo định kì. Để nâng cao được giá trị của những kết luận được rút
ra từ phân tích, cần kết hợp sử dụng các kiến thức của các môn học có liên quan, như
thống kê, kinh tế, tài chính doanh nghiệp, kế toánv.v và áp dụng những thành tựu của
các phương tiện kĩ thuật tính toán hiện đại sao cho kết quả thu được ngày càng cao hơn,

phục vụ tốt nhất cho các mục tiêu của quản lý doanh nghiệp.
Chương 2
Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh
Như người ta biết, có rất nhiều đối tác quan tâm và sử dụng các số liệu được
phản ánh trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp, trong đó có báo cáo "kết quả hoạt
động kinh doanh" - mẫu số B02-DN.
* Với các nhà đầu tư, vì mục tiêu của họ là lợi nhuận, do đó họ rất quan tâm
đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để quyết định tiếp tục hay ngừng việc đầu tư
vào doanh nghiệp (ví dụ tiếp tục mua hay quyết định bán tín phiếu của doanh nghiệp).
* Với các nhà cho vay, họ quan tâm đến kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp để quyết định cho vay hay từ chối tín dụng, bởi vì kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp là cơ sở để đảm bảo hoàn trả cả vốn và lãi tiền vay cho họ.
* Với các nhà cung cấp, dựa vào kết quả hoạt động kinh doanh, họ đánh giá
được khả năng thanh toán, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, do vậy nó là cơ sở để họ
quyết định có tiếp tục hay ngừng việc cung cấp (bán hàng) thiết bị, vật tư cho doanh
nghiệp;
* Với cơ quan thuế, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là cơ sở để
cơ quan thuế xác định được các khoản thu từ doanh nghiệp, trong đó có thuế thu nhập
doanh nghiệp; Với các cơ quan chức năng của nhà nước, thông qua kết quả hoạt động
kinh doanh, họ có các quyết định điều chỉnh các cơ chế chính sách tài chính, cơ chế
quản lý sao cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ví dụ chính
sách ưu đãi về Tài chính - Tín dụng, việc sát nhập, cổ phần, bán, cho thuê, giải thể
doanh nghiệpv.v Với những người tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, đương
nhiên kết quả hoạt động kinh doanh trực tiếp liên quan đến thu nhập của họ v.v
* Với bản thân doanh nghiệp:
Trong điều kiện hiện nay, đương nhiên để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp
phải bán được sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Việc bán được sản phẩm có nghĩa
là sản phẩm do doanh nghiệp làm ra đã được thị trường chấp nhận, do đó doanh nghiệp
sẽ thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm, từ đó mới có điều kiện để bù
đắp được những chi phí đã bỏ ra, tiếp tục quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Mặt

khác, để tồn tại và phát triển, số tiền thu về do bán sản phẩm phải lớn hơn số tiền mà
doanh nghiệp đã bỏ ra để sản xuất và bán được sản phẩm đó. Nói cách khác, sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phải có hiệu quả tức là phải thu được lợi nhuận. Như vậy,
lợi nhuận phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Có được lợi nhuận, doanh nghiệp mới thực hiện được việc bổ xung thêm vốn, từ
đó mới có điều kiện để mở rộng hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư phát triển, tạo ra
những tiền đề cơ bản để tiếp tục nâng cao hiệu quả của sản xuất kinh doanh, đồng thời
không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, thực hiện
được các nghĩa vụ với nhà nước, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
của ngành nói riêng, của đất nước nói chung. Với tất cả những ý nghĩa nói trên, người ta
thấy rằng cần thiết phải tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khi tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp.
* Nội dung chủ yếu của phân tích kết quả hoạt động kinh doanh bao gồm:
- Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Phân tích chỉ tiêu lợi nhuận bán hàng.
* Tài liệu chủ yếu dùng để phân tích:
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (mẫu số B.02-DN).
- Thuyết minh báo cáo tài chính (mẫu số B.09-DN).
- Báo cáo chi tiết về kết quả sản xuất, chi phí và giá thành sản phẩm, và tiêu thụ
sản phẩm v.v
Sau đây sẽ lần lượt tiến hành phân tích các nội dung nói trên.
2.1. Phân tích môi trường kinh doanh và tác động của nó đến các quyết
định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường kinh doanh là tập hợp những lực lượng "ở bên ngoài" mà các doanh
nghiệp đều phải tính đến khi xác định chiến lược kinh doanh, vì các doanh nghiệp
không thể là một thực thể cô lập và hoạt động của nó không thể tự đóng kín với môi
trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp thường đa dạng, sinh
động và sự biến động của nó có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến kết quả kinh

doanh của doanh nghiệp. Do vậy cần thiết phải phân tích môi trường kinh doanh để
thông qua đó giúp cho các nhà quản lí có thể dự đoán được khả năng có thể xảy ra để
hướng cho doanh nghiệp ứng phó được kịp thời, tránh được những rủi ro không cần
thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Như người ta biết, câu hỏi đầu tiên đặt ra với các nhà quản lí là về chiến lược
sản phẩm. Cụ thể trong giai đoạn hiện tại, đâu là sản phẩm chủ yếu của doanh nghiệp và
trong tương lai, hướng phát triển sản phẩm mới của doanh nghiệp như thế nào Để trả
lời câu hỏi đó, cần thiết phải nghiên cứu, phân tích các vấn đề sau đây:
- Vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp;
- Đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp;
- Quan hệ với các nhà cung cấp;
- Các yếu tố về chính trị, kinh tế, tự nhiên, xã hội, văn hoá, khoa học kĩ thuật v.v
* Trước hết là vấn đề thị trường tiêu thụ sản phẩm: Trước khi quyết định về
qui mô, khối lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã sản phẩm cần sản xuất kinh doanh
thì phải biết rõ khách hàng của doanh nghiệp là ai (đối tượng phục vụ của doanh
nghiệp). Ví dụ nếu người tiêu dùng thuộc các khu đô thị có thu nhập cao thì vấn đề chủ
yếu đối với họ là mẫu mã, chất lượng và tính năng của sản phẩm, còn giá cả của sản
phẩm có cao hơn, họ vẫn chấp nhận được. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp cần
phải đầu tư chiều sâu, hiện đại hoá thiết bị, sử dụng công nghệ cao, tìm nguồn cung cấp
nguyên liệu đúng chủng loại đảm bảo chất lượng, sử dụng đội ngũ lao động có tay nghề
để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú. Trường hợp
người tiêu dùng thuộc vùng nông thôn, miền núi, kinh tế chậm phát triển, thu nhập tiền
tệ thấp, khi đó họ quan tâm chủ yếu đến giá bán của sản phẩm. Trường hợp người tiêu
dùng là các cơ quan, tổ chức, tập thể thì các yếu tố giá cả, thị hiếu không phải là trọng
yếu; Trường hợp người tiêu dùng là các nhà buôn, nhu cầu của họ thường rất lớn vì họ
mua để bán kiếm lời, do đó họ quan tâm đến tất cả các yếu tố có liên quan nói trên.
Trường hợp doanh nghiệp sản xuất sản phẩm để xuất khẩu thì yêu cầu về chất lượng,
qui cách, mẫu mã, bao bì đóng gói và thời hạn giao hàng đòi hỏi doanh nghiệp phải tuân
thủ nghiêm ngặt theo hợp đồng đã kí kết. Cuối cùng nếu người tiêu dùng là các doanh
nghiệp khác, sản phẩm của ta lại là nguyên liệu của họ thì cái họ quan tâm lại là số

lượng, chất lượng và giá cả của sản phẩm. Như vậy tuỳ thuộc vào đối tượng phục vụ mà
doanh nghiệp có các quyết định thích ứng kịp thời, sao cho vừa đáp ứng được nhu cầu
của người tiêu dùng, vừa tăng được lợi ích cho bản thân doanh nghiệp.
* Về đối thủ cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là xu thế tất yếu mà các doanh nghiệp
đều phải chấp nhận. Đối thủ cạnh tranh là các doanh nghiệp hiện tại cùng sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm cùng loại và các doanh nghiệp sẽ hình thành tương lai gần, bao gồm
cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Số lượng các doanh nghiệp cùng loại hình sản
xuất càng nhiều, qui mô càng lớn thì mức độ cạnh tranh càng khốc liệt, vì thế người ta
mói nói "thương trường là chiến trường".
Sức mạnh của cạnh tranh được thể hiện thông qua chất lượng, mẫu mã, giá trị sử
dụng, giá bán của sản phẩm cũng như thông qua phương thức bán, hình thức bán, phương
pháp tiếp thị, quảng cáo v.v Hoạt động trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp
phải tìm biện pháp để giảm chi phí, nâng cao chất lượng, thường xuyên cải tiến mẫu mã,
thay đổi cơ cấu mặt hàng, tìm kiếm thị trường mới và cuối cùng để nâng cao khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp, cần xây dựng và bảo vệ được thương hiệu của doanh nghiệp.
* Về quan hệ với các nhà cung cấp: Để tiến hành sản xuất (để đáp ứng đầu vào),
doanh nghiệp cần xác lập mối quan hệ thường xuyên tin cậy với các nhà cung cấp, bao gồm
các nhà cung cấp thiết bị, vật tư, lao động, tiền vốn, thông tin v.v Mối quan hệ càng rộng,
mức độ càng bền vững thì tính ổn định của đầu vào càng cao và do đó nó là tiền đề rất quan
trọng đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ổn định và phát triển.
* Về các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô:
- Yếu tố chính trị: Tuy tiến hành hoạt động kinh doanh, nhưng kết quả của hoạt
động kinh doanh lại tuỳ thuộc không nhỏ vào yếu tố chính trị. Đó là sự ổn định về chính
trị, vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, các quan điểm, các chính sách, chế
độ của nhà nước về hội nhập, về đầu tư của nước ngoài, về tài chính, tín dụng, giá cả,
thuế v.v Nhận thức được các yếu tố nói trên sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được
giới hạn của hành lang pháp lí, từ đó đưa ra được các quyết định thích hợp cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (Ví dụ khi nhà nước đưa ra các biện pháp
đảm bảo an toàn giao thông, giảm lượng xe máy lưu thông trên đường thì các nhà sản

xuất xe máy cần xác định lại qui mô sản xuất và cơ cấu mặt hàng cho phù hợp).
- Yếu tố kinh tế: Vì sức mua có tác động rất lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh, do
đó khi quyết định mở rộng hay thu hẹp qui mô sản xuất kinh doanh, quyết định đầu tư chiều
sâu hay quyết định thay đổi cơ cấu mặt hàng sản xuất kinh doanh, các nhà quản lí doanh
nghiệp đều phải tính đến yếu tố kinh tế hiện thời, như tốc độ tăng trưởng của ngành, của toàn
bộ nền kinh tế, chính sách lãi suất ngân hàng, chính sách khuyến khích hay hạn chế đầu tư
vào một lĩnh vực nào đó, việc đổi mới cơ chế quản lí đối với doanh nghiệp nhà nước v.v
- Yếu tố tự nhiên: Tuỳ thuộc vào đặc điểm của sản phẩm, các nhà quản lý phải tính
đến nguồn lực và tài nguyên thiên nhiên vì nó là yếu tố cơ bản để đảm bảo cung cấp đầu
vào, như điện nước, dầu mỏ, quặng, rừng, đất đaiv.v Mặt khác, để bảo vệ môi trường
sinh thái, các doanh nghiệp cần có quyết định lựa chọn thiết bị, công nghệ sản xuất phù hợp
để trong quá trình sản xuất nó đảm bảo được các tiêu chuẩn do vệ sinh môi trường qui định.
- Yếu tố văn hoá, xã hội: Vì đối tượng phục vụ của doanh nghiệp suy đến cũng
đều là nhu cầu tiêu dùng của con người, do vậy các quyết định liên quan đến sản xuất
đều phải tính đến yếu tố văn hoá và xã hội. Yếu tố này bao gồm: sự gia tăng về dân số,
cơ cấu và việc phân bổ dân cư, thói quen, truyền thống văn hoá và tiêu dùng, vấn đề thị
hiếu tiêu dùng, nhận thức, thái độ của con người trước cuộc sống hiện tại, các quan
niệm, lối sống và các giá trị văn hoá, đạo đức xã hội v.v Các yếu tố nói trên sẽ ảnh
hưởng không nhỏ đến các quyết định sản xuất về số lượng cơ cấu, chất lượng, mẫu mã
của sản phẩm.
- Yếu tố khoa học kĩ thuật: Ngày nay, khoa học kĩ thuật đang phát triển với tốc
độ rất nhanh, do vậy để không bị lạc hậu, để tăng khả năng cạnh tranh, các doanh
nghiệp cần đặc biệt chú ý đến yếu tố khoa học kĩ thuật để có quyết định đúng đắn trong
việc lựa chọn thiết bị, công nghệ, việc ứng dụng các tiến bộ của khoa học kĩ thuật vào
sản xuất để tạo ra bước thay đổi cơ bản về chất lượng, mẫu mã, tăng năng suất lao động,
giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
2.2. Phân tích, đánh giá khái quát kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến nó.
2.2.1 Đánh giá chung kết quả hoat động kinh doanh
Theo chế độ qui định hiện hành, các chỉ tiêu chủ yếu của báo cáo kết quả hoạt

động kinh doanh của các doanh nghiệp bao gồm:
- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ;
- Các khoản giảm trừ;
- Doanh thu thuần;
- Giá vốn hàng xuất bán;
- Doanh thu hoạt động tài chính;
- Chi phí tài chính;
- Chi phí bán hàng;
- Chi phí quản lý doanh nghiệp;
- Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh;
- Thu nhập khác;
- Chi phí khác;
- Lợi nhuận khác và cuối cùng là;
- Tổng lợi nhuận trước thuế.
Dựa vào mẫu sổ báo cáo nói trên, người ta nhận thấy rằng, tổng số lợi nhuận
trước thuế tuỳ thuộc vào 9 nhân tố ảnh hưởng, trong đó nhân tố doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ, doanh thu hoạt động tài chính, thu nhập khác, là những nhân tố ảnh
hưởng (tác động) thuận chiều, còn các nhân tố: các khoản giảm trừ, giá vốn của hàng
xuất bản, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính, chi phí khác
đều tác động ngược chiều đến tổng số lợi nhuận trước thuế.
* Trước hết là doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ.
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ phản ánh số tiền thu được hoặc sẽ thu
được về bán sản phẩm hàng hoá và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp cho khách hàng,
bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm ngoài giá bán (nếu có).
Như ở trên đã chỉ rõ, nhân tố này ảnh hưởng thuận chiều đến tổng lợi nhuận
trước thuế, do vậy doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp để tăng doanh thu bán hàng và
cung cấp dịch vụ.
Như người ta biết, doanh thu tuỳ thuộc vào khối lượng hàng hoá (dịch vụ) bán ra
và giá bán của nó. Trong điều kiện hiện nay, khi cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt
thì trừ những hàng hoá và dịch vụ do nhà nước qui định giá bán, nói chung giá bán biến

động là tuỳ thuộc vào thị trường và có xu hướng giảm. Do vậy để tăng doanh thu bán
hàng và cung cấp dịch vụ, các doanh nghiệp chỉ có thể áp dụng những biện pháp chủ
yếu để tăng được khối lượng của hàng hoá (dịch vụ) bán ra. Việc tăng hay giảm khối
lượng hàng hoá (dịch vụ) bán ra nó lại tuỳ thuộc vào việc tăng hay giảm khối lượng,
chất lượng của sản xuất và tuỳ thuộc vào kết quả công tác bán hàng của doanh nghiệp.
* Đối với các khoản giảm trừ:
Các khoản giảm trừ, theo qui định hiện hành bao gồm:
- Chiết khấu thương mại;
- Giảm giá hàng bán;
- Trị giá hàng bán bị trả lại;
- Thuế xuất khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng tính theo phương
pháp trực tiếp.
+ Chiết khấu thương mại phát sinh khi khách hàng mua với khối lượng lớn; Như
vậy để giảm chiết khấu thương mại thì phải hạn chế khách hàng mua hàng với khối lượng
lớn, điều đó là trái với yêu cầu của công tác quản lý sản xuất kinh doanh nói chung, quản
lý bán hàng nói riêng. Nói cách khác, để tăng doanh thu bán hàng, cần khuyến khích
người mua với khối lượng lớn, do đó chiết khấu thương mại sẽ có xu hướng tăng lên.
+ Đối với giảm giá hàng bán: Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt, để
chiếm lĩnh được thị trường nhằm tăng được doanh thu, các doanh nghiệp thường sử
dụng giá bán như là một công cụ quan trọng. Do vậy xu hướng thực tế là cạnh tranh
càng khối liệt, giá bán của sản phẩm cạnh tranh càng có xu hướng giảm. Nói cách khác,
trong điều kiện hiện nay, để tăng doanh thu, không thể áp dụng biện pháp tăng giá bán
mà ngược lại, cần thực hiện chính sách giảm giá. Đối với hàng bán bị trả lại, đây là
những hàng hoá không thoả tmãn được nhu cầu của người tiêu dùng, không phù hợp với
những điều khoản trong hợp đồng, như chất lượng không đảm bảo, mẫu mã không phù
hợp, giao hàng không đúng thời hạn v.v Nói chung trong kinh doanh, cần hạn chế,
loại trừ phát sinh của yếu tố nói trên vì nó làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên
thương trường.
+ Đối với các loại thuế: Theo luật định, nộp thuế là nghĩa vụ của doanh nghiệp
đối với nhà nước, do đó không thể trốn lậu thuế để tăng doanh thu.

Qua phân tích chi tiết ở trên, có thể rút ra kết luận rằng không thể đưa ra các
quyết định giảm các khoản giảm trừ (trừ trị giá hàng bán bị trả lại) để tăng doanh thu
bán hàng cho doanh nghiệp.
* Đối với giá vốn của hàng xuất bán: ảnh hưởng của nhân tố này là ngược
chiều đến lợi nhuận bán hàng. Trong các doanh nghiệp sản xuất, giá vốn của hàng xuất
bán chính là giá thành sản xuất của sản phẩm xuất kho. Như vậy, đây là nhân tố chủ yếu
làm tăng (giảm) lợi nhuận bán hàng của doanh nghiệp, do đó nó là trọng điểm của công
tác quản lý sản xuất kinh doanh nói chung, quản lý lợi nhuận nói riêng. Nhân tố này sẽ
được phân tích chi tiết và cụ thể hơn khi phân tích chỉ tiêu lợi nhuận bán hàng.
* Đối với doanh thu hoạt động tài chính: Việc phát sinh doanh thu hoạt động
tài chính sẽ làm tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, do đó nó là yếu tố làm
tăng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh.
Trong điều kiện hiện nay, đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu nhập hoạt
động tài chính còn chiếm tỉ trọng nhỏ và nó có xu hướng tăng dần trong tương lai.
* Đối với chi phí tài chính: Việc phát sinh chi phí tài chính là ngược chiều với
nội dung phát sinh doanh thu hoạt động tài chính, nghĩa là nếu hoạt động tài chính bị lỗ
thì đó chính là các khoản chi phí tài chính và nó sẽ làm giảm lợi nhuận thuần từ hoạt
động kinh doanh.
* Đối với chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chi phí bán hàng và chi phí quản lý
doanh nghiệp là yếu tố cấu thành giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ. Đối với các
doanh nghiệp có hoạt động tài chính và hoạt động khác thì chi phí quản lý doanh nghiệp
có liên quan đến các hoạt động nói trên và khi cần phân bổ cho từng hoạt động, có thể
dựa vào doanh thu của từng hoạt động. Các loại chi phí nói trên khi phát sinh đều làm
giảm kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.
* Đối với thu nhập khác: Việc phát sinh thu nhập khác sẽ là điều kiện để tăng lợi
nhuận khác, nó bao gồm thu từ nhượng bán, thanh lí tài sản cố định, thu tiền phạt, thu nợ
khó đòi, thuế được hoàn lại, tiền thưởng, quà biếu, thu nhập kinh doanh bị bỏ sót hoặc chưa
ghi sổ kế toán của năm trước. Thực tế các khoản thu nói trên cũng chiếm tỉ trọng không
đáng kể của các doanh nghiệp, do đó không phải là trọng điểm của công tác quản lý.

* Đối với chi phí khác: Đây là những chi phí của các hoạt động ngoài hoạt động
sản xuất kinh doanh, như lỗ do các sự kiện hay nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động thông
thường của doanh nghiệp, chi phí bị bỏ sót của kì trướcv.v. và nói chung nó phát sinh
ngược chiều với sự phát sinh của thu nhập khác. Nhân tố này ảnh hưởng ngược chiều
đến kết quả kinh doanh.
* Về ví dụ phân tích: Giả định tại Công ty X có các số liệu như sau:
(Đơn vị: 1 triệu đồng)
Chỉ tiêu
Dự kiến
(kế hoạch)
Thực hiện
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ 50.000 52.000
2. Các khoản giảm trừ 2.000 2.500
Trong đó: Chiết khấu thương mại 2.000 2.500
3. Giá vốn của hàng xuất bán 38.000 39.500
4. Doanh thu hoạt động tài chính 1.000 1.200
5. Chi phí tài chính 800 900
6. Chi phí bán hàng 2.000 2.050
7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 3.000 3.050
8. Thu nhập khác - 250
9. Chi phí khác - 150
10. Tổng lợi nhuận trước thuế 5.200 5.300
Dựa vào số liệu của Bảng 2.1 ta có thể lập bảng phân tích như sau:
(Bảng 2.2.)
Chỉ tiêu
Dự
kiến
(Kế
hoạch)
Thực

hiện
Chênh lệch (+
-)
Làm
tăng (+)
giảm (-)
lợi
nhuận
Số tiền
(trđ)
%
1. Doanh thu án hàng và cung cấp
dịch vụ
50.000 52.000 +
2.000
+ 4 + 2.000
2. Các khoản giảm trừ.
- Trong đó: Chiết khấu thương
mại
2.000
2.000
2.500
2.500
+ 500
+ 500
+ 25
(+25)
- 500
(- 500)
3. Giá vốn của hàng xuất bán 38.000 39.500 +

1.500
+ 3,94 - 1.500
4. Doanh thu hoạt động tài chính 1.000 1.200 + 200 + 20 + 200
5. Chi phí tài chính 800 900 + 100 + 12,5 - 100
6. Chi phí bán hàng 2.000 2.050 + 50 + 2,5 - 50
7. Chi phí quản lý doanh nghiệp 3.000 3.050 + 50 + 1,66 - 50
8. Thu nhập khác - 250 + 250 - + 250
9. Chi phí khác - 150 + 150 - - 150
10. Tổng lợi nhuận trước thuế 5.200 5.300 + 100 + 1,92 -
Căn cứ vào các số liệu của bảng 2.2 ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
- So với mục tiêu đặt ra (dự kiến), tổng số lợi nhuận trước thuế trong kì đã tăng
100 triệu đồng, với tỉ lệ tăng là 1,92%. Việc tăng được tổng số lợi nhuận trước thuế sẽ
tạo điều kiện thuận lợi để đơn vị thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác, như nộp
ngân sách, trích lập các quỹ, bổ xung thêm vốn, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá
cho người lao động. Để đánh giá chính xác, cụ thể kết quả nói trên, cần dựa vào mức độ
và tính chất ảnh hưởng của từng nhân tố.
- Trước hết, việc tăng doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trong kì 2000
triệu đồng, điều kiện các nhân tố khác không đổi đã làm tăng tương ứng tổng lợi nhuận
trước thuế là 2000 triệu đồng. Xét về mức độ thì đây là nhân tố chủ yếu làm tăng lợi
nhuận trong kì. Xét về tính chất, ta thấy việc tăng doanh thu phản ánh kết quả tăng cả số
lượng và chất lượng của sản xuất, đồng thời đơn vị đã tổ chức tối công tác bán hàng, do
đó nó là tác động của nhân tố chủ quan.
- Các khoản giảm trừ trong kì tăng 500 triệu đồng đã làm giảm lợi nhuận tương
ứng là 500 triệu đồng. Theo tài liệu cho thì đây là số tăng của chiết khấu thương mại,
chứng tỏ khối lượng hàng hoá bán buôn trong kì đã tăng và do đó việc giảm lợi nhuận
nói chung, lợi nhuận bán hàng nói riêng là đương nhiên.
- Giá vốn của hàng xuất bán trong kì tăng 1500 triệu đồng đã làm giảm tương ứng
lợi nhuận trong kì là 1500 triệu đồng. Xét về mức độ thì đây là nhân tố chủ yếu làm giảm
lợi nhuận của đơn vị. Thực chất ảnh hưởng của nhân tốt này là ảnh hưởng của giá thành sản
xuất; như vậy có thể suy ra rằng giá thành sản xuất trong kì đã tăng hay là đơn vị đã quản

lý, sử dụng chưa hợp lí lao động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất. Để có đánh giá
chính xác, cụ thể hơn, cần thiết phải đi sâu phân tích đối với giá thành theo từng khoản
mục, qua đó mới biết được nguyên nhân nào đã làm tăng giá thành, từ đó mới có các quyết
định thích hợp của quản lý. Việc phân tích nói trên sẽ được tiến hành ở nội dung tiếp theo.
- Doanh thu hoạt động tài chính tăng 200 triệu đồng đã làm tăng lợi nhuận tương
ứng 200 triệu đồng; Để đánh giá được cụ thể, chính xác tác động của nhân tố này, cần
dựa vào tài liệu hạch toán chi tiết để xác định được nội dung cấu thành của chỉ tiêu nói
trên, vì doanh thu hoạt động tài chính như đã đề cập ở phần trước nó bao gồm rất nhiều
các yếu tố có nguồn gốc phát sinh khác nhau, do đó việc đánh giá cũng khác nhau, ví dụ
lãi tiền vay, lãi tiền gửi, lãi bán hàng trả chậm, thu nhập do cho thuê tài sản, lợi tức, cổ
tức được chia, thu nhập về hoạt động đầu tư, chênh lệch tỷ giá
- Chi phí tài chính trong kỳ tăng 100 triệu đồng đã làm giảm lợi nhuận tương
ứng 100 triệu đồng. Nếu so với thu nhập từ hoạt động tài chính thì kết quả của hoạt
động tài chính vẫn mạng lại lợi ích cho doanh nghiệp, cụ thể làm tăng tổng số lợi nhuận
là 100 triệu đồng (100trđ = + 200 trđ - 100 trđ). Như vậy xu hướng trên cần tiếp tục
động viên và khai thác trong kì tới.
- Chi phí bán hàng trong kì tăng 50 triệu đồng, chi phí quản lý doanh nghiệp
cũng tăng 50 triệu đồng đã làm lợi nhuận giảm tương ứng 100 triệu đồng; Việc tăng chi
phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cũng phản ánh việc quản lý sử dụng lao
động, vật tư, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh nói chung, quá trình bán hàng
nói riêng là chưa hợp lý. Phải dựa vào tài liệu hạch toán chi tiết của các yếu tố nói trên
để biết được cụ thể chi phí đã tăng ở nội dung nào, ví dụ chi phí tiền lương, chi phí
quảng cáo, chi phí văn phòng v.v , từ đó mới có kết luận chính xác và cụ thể hơn và
mới có các quyết định quản lý thích hợp.
- Trong kì phát sinh thu nhập khác là 250 triệu đồng, chi phí khác là 150 triệu
đồng, từ đó làm tổng lợi nhuận trước thuế tăng 100 triệu đồng; Đây cũng là xu hướng
tích cực cần được chú ý để động viên và khai thác trong kì tới.
Tóm lại, qua phân tích chi tiết ở trên, có thể đi đến kết luận như sau:
Việc tăng được tổng lợi nhuận trước thuế trong kì tới chủ yếu là do đơn vị đã tăng
được doanh thu bán hàng. Để đánh giá chính xác tác động của nhân tố này, cần tiếp tục đi

sâu phân tích để làm rõ, trong tổng số tăng đó thì bao nhiêu đó là tăng khối lượng, bao
nhiêu là do điều chỉnh giá bán, từ đó mới có các quyết định quản lý thích hợp để tăng
được kết quả kinh doanh một cách tích cực và bền vững. Mặt khác, nhân tố chủ yếu làm
giảm lợi nhuận trong kì lại là việc tăng giá vốn của hàng xuất bán, cũng chính là giá thành
sản xuất thực tế đã tăng, do vậy cũng cần tiếp tục đi sâu phân tích để làm rõ trong tổng số
tăng của giá thành thì tăng cụ thể ở khoản mục chi phí nào và vì sao khoản mục đó lại
tăng, từ đó mới có các biện pháp thích hợp, cần thiết để hạn chế, loại trừ được tác động
của các nhân tố tiêu cực (làm tăng giá thành) động viên và khai thác được tác động của
các nhân tố tích cực (làm giảm gía thành) với mục đích cuối cùng là tăng được lợi nhuận
cho đơn vị. Những vấn đề nêu ở trên sẽ được nghiên cứu, phân tích ở nội dung tiếp theo.
2.2.2. Phân tích các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh.

×