Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

sự khác nhau giữa icc 2009 và 1982

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.63 KB, 2 trang )

* Sự khác nhau giữa ICC 2009 và 1982?
- Insufficiency of Packing or Preparation được mở rộng theo chiều hướng
thuận lợi hơn cho người được bảo hiểm. Theo phiên bản 2009, tổn thất do đóng gói
bao bì bị loại trừ chỉ khi do chính người được bảo hiểm hoặc những người làm công
cho họ thực hiện việc đóng gói. Sự thay đổi của điều khoản loại trừ này của ảnh
hưởng liên quan đến trường hợp hàng mua theo giá FOB và giá CFR khi đó việc ký
kết bảo hiểm do người mua thực hiện.
Insolvency and Financial Default được sửa lại cho tốt hơn theo hướng thuận
lợi cho người được bảo hiểm. Theo bản ICC 1982 quy định trường hợp mất mát, hư
hại hay chi phí xuất phát từ tình trạng không trả được nợ hoặc thiếu thốn về tài
chính ở người Chủ tàu, người quản lý người thuê hoặc người khai thác tàu. Nhưng ở
bản 2009 quy định chỉ loại trừ trường hợp người được bảo hiểm nhận thức hoặc lẽ
ra nhận thức được sự thiếu thốn về tài chính của mình. Tuy nhiên nếu hàng hóa bán
được hoặc có sự đảm bảo của người mua sẽ mua hàng thì các tổn thất sẽ không bị
loại trừ.
Nuclear Fission and/or Fusion exclusions được nêu cụ thể hơn bằng cách quy
định thêm về Institute Radioactive Contamination Exclusion Clause of 2002. Phản
ứng hạt nhân còn mở rộng hơn gồm cả vũ khí, thiết bị sử dụng cho chiến tranh.
Unseaworthiness and Unfitness exclusion được mở rộng có lợi hơn cho người
được bảo hiểm. Bảo hiểm chỉ loại trừ khi người được bảo hiểm tiết lộ tình trạng tàu
hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển. Điều khoản 5 này sẽ không áp dụng trong
trường hợp hàng hóa được cam kết có người mua. Tuy nhiên, rất hiếm khi người
bảo hiểm tiết lộ về tình trạng hàng hóa được cam kết có người mua. Tuy nhiên, rất
hiếm khi người bảo hiểm tiết lộ về tình trạng tàu không đủ khả năng đi biển ngoại
trừ
Terrorism (Clause 7): được định nghĩa với mục đích làm rõ nghĩa hơn ở điều
khoản 7.3 và bổ sung thêm điều khoản 7.4
The Transit clause (Clause 8) điều chỉnh theo hướng có lợi cho người được
bảo hiểm. Bổ sung thêm điều khoản 8.3 bảo hiểm sẽ kết thúc khi “người được bảo
hiểm hoặc nhân viên của người được bảo hiểm quyết định sử dụng phương tiện vận
tải hoặc container nào khác để trữ hàng thay cho cách thông thường”. Trong khi


trong ICC 1982 quy định phải giao hàng đến nơi nào đó được điền tên trước trên
đơn bảo hiểm.
The Change of Voyage clause (Clause 10): được mở rộng ra bởi việc bỏ bớt
cụm từ “held covered”. Có nghĩa là khi thay đổi nơi nhận hàng, trong một số trường
hợp nếu cần thiết sẽ có thể thay đổi mức phí bảo hiểm chứ không chắc chắn vẫn giữ
nguyên mức phí bảo hiểm và điều điện thương lượng riêng như trong ICC 1982
nêu. Ngoài ra, còn có sự bổ sung thêm điều khoản 10.2.
KẾT LUẬN
Tóm lại, các điều kiện bảo hiểm hàng hóa ICC 2009 ra đời sau thay thế dần
cho ICC 1982 và những điều kiện bảo hiểm trước nhằm đáp ứng được nhu cầu phát
triển hàng hoá, thương mại, mang thêm đặc tính luật lệ pháp lý chung, thống nhất
để phù hợp được điều kiện rủi ro được bảo hiểm ở mỗi quốc gia khác nhau. Ở Việt
Nam, bảo hiểm hàng hài cũng phát triển những điều kiện rủi ro được bảo hiểm qua
những quy tắc chung 1990, cũng quy định chủ yếu gồm ba điều kiện A, B,C và
những quy định phụ. Thêm vào đó, văn bản bảo hiểm đó cũng tương đương với ICC
1982 của Luân Đôn, chỉ khác về mặt hình thức. Điều đó cho ta thấy Việt Nam cũng
đang trên đà phát triển mạnh trong công thương nghiệp, không những thế, có thể
hiện tại và trong tương lai, các nhà làm luật sẽ có những thay đổi bổ sung thêm các
nội dung để các điều kiện bảo hiểm ngày càng được hoàn thiện thêm, phù hợp với
sự phát triến kinh tế thương mại.

×