Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

VAN HAY 12 VÀ CŨNG RẤT BỔ ÍCH CHO KÌ THI TNTHPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.4 KB, 61 trang )

Phân tích nhân vật Tràng trong truyện "Vợ nhặt"
Phân tích nhân vật Tràng
I . Mở bài
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt
Nam hiện đại. Ông thường viết về nông thôn và những con người dân quê ,
lam lũ hồn hậu , chất phác mà giàu tình yêu thương . Vợ nhặt là một trong
những sáng tác tiêu biểu của ông . Tác phẩm đã khắc hoạ thành công nhân
vật Tràng , một người lao động nghèo khổ nhưng giàu tình yêu thương , luôn
khao khát hạnh phúc gia đình giản dị , biết hướng tới tương lai tươi đẹp .
II . Thân bài
Kim Lân rất am hiểu nông thôn và đời sống của nhân dân nên ông có những
trang viết sâu sắc, cảm động. Truyện Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí)
được coi là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân. Thiên truyện có một quá
trình sáng tác khá dài. Nó vốn được rút ra từ tiểu thuyết Xóm ngụ cư (cuốn
tiểu thuyết viết dang dở ở thời kì trước Cách mạng). Hoà bình lập lại, Kim
Lân viết lại. Vợ nhặt mang dấu ấn của cả một quá trình nghiền ngẫm lâu dài
về nội dung và chiêm nghiệm kĩ lưỡng về nghệ thuật.
Trong truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân bộc lộ một quan điểm nhân đạo sâu sắc
của mình. Nhà văn phát hiện ra vẻ đẹp kì diệu của người lao động trong sự
túng đói quay quắt, trong bất kì hoàn cảnh khốn khổ nào, con người vẫn
vượt lên cái chết, hướng về cuộc sống gia đình, vẫn yêu thương nhau và hi
vọng vào ngày mai. Tiêu biểu cho những con người đó là nhân vật Tràng .
Tràng được khắc hoạ nổi bật trong bối cảnh ngày đói vô cùng thê thảm ở
nông thôn Việt Nam do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra năm 1945 .
Những người năm đói được miêu tả với “khuôn mặt hốc hác u tối”, “Những
gia đình từ những vùng Nam Định, Thái Bình, đội chiếu lũ lượt bồng bế, dắt
díu nhau lên xanh xám như những bóng ma”, và “bóng những người đói dật
dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma”. Trong không gian của thế giới ngổn
ngang người sống kẻ chết ấy, tiếng quạ “gào lên từng hồi thê thiết” cùng với
“mùi gây của xác người” càng tô đậm cảm giác tang tóc thê lương. Cái đói
huỷ diệt cuộc sống tới mức khủng khiếp. Trong một bối cảnh như thế Kim


Lân đặt vào đó một mối tình thật là táo bạo , dở khóc , dở cười giữa Tràng và
Thị , một mối duyên bắt nguồn từ bốn bát bánh đúc giữa ngày đói .
Kim Lân đã tạo nên một tình huống độc đáo : Tràng nhặt được vợ để từ đó
làm nổi bật khao khát hạnh phúc , tình yêu thương , cưu mang đùm bọc lẫn
nhau của những con người đói . Ngay cái nhan đề Vợ nhặt đã bao chứa một
tình huống như thế : nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm
1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết, giá trị một
con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ có mấy
bát bánh đúc ngoài chợ .Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ) đã trở thành rẻ
1
rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện còn có một mạch khác: chủ thể của
cái hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo, xấu xí, dân ngụ cư,
đang thời đói khát mà đột nhiên lấy được vợ, thậm chí được vợ theo thì quả
là điều lạ. Lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho hàng xóm,
bà cụ Tứ – mẹ Tràng và chính bản thân Tràng nữa.
Tình huống truyện trên đã khơi ra mạch chảy tâm lí cực kì tinh tế ở mỗi nhân
vật , đặc biệt là Tràng.
Anh cu Tràng cục mịch, khù khờ, bỗng nhiên trở thành người thực sự hạnh
phúc. Nhưng hạnh phúc lớn quá, đột ngột quá, khiến Tràng rất đỗi ngỡ ngàng
“đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi
đấy ư?”. Rồi cái ngỡ ngàng trước hạnh phúc kia cũng nhanh chóng đẩy thành
niềm vui hữu hình cụ thể. Đó là niềm vui về hạnh phúc gia đình – một niềm
vui giản dị nhưng lớn lao không gì sánh nổi Chàng thanh niên nghèo khó
“Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.
Mặc dù người vợ được hắn nhặt về , nhưng Tràng không hề rẻ rúng , khinh
miệt thị . Trái lại , Tràng vô cùng trân trọng , coi chuyện lấy thi là một điều
nghiêm túc . Khát vọng mái ấm gia đình đã khiến Tràng vượt qua lo lắng về
cái đói “ đến thân còn chẳng lo nổi , lại còn đèo bòng” . Tràng chậc lưỡi “ kệ”
cái đói , mua cho thị cái thúng con , vài xu dầu và dẫn thị về căn nhà lụp xụp
rách nát của mẹ con mình . Tràng hồi hộp chờ câu đồng ý chấp thuận của bà

cụ Tứ .
Buổi sáng hôm sau , Tràng thấy khoan khoái như người từ trong giấc mơ đi
ra . Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà
như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là một điều thật bình dị nhưng có ý
nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời Tràng . Hắn thấy hắn nên người . Một
nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Một niềm vui
thật cảm động, lẫn cả hiện thực lẫn giấc mơ.
Chi tiết: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn cũng muốn làm một việc gì để
dự phần tu sửa lại căn nhà” là một đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi
thay cả số phận lẫn tính cách của Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán
đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức. Tràng đã có một ý thức bổn phận
sâu sắc: “hắn thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng thật
sự “phục sinh tâm hồn” đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc.
Câu kết truyện “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp
phớichứa đựng bao sức nặng về nghệ thuật và nội dung cho thiên truyện.
Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội
rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người.
Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không
nhìn thấy được. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và
giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều
hi vọng hơn.
2
III . Kết bài .
Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân , là tác phẩm giàu giá trị
hiện thực , nhân đạo ; là bài ca về tình người ở những người nghèo khổ , ca
ngợi niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng của con người . Truyện xây
dựng thành công hình tượng nhân vật Tràng , một người lao động nghèo khổ
mà ấm áp tình thương , niềm hi vọng , lạc quan qua cách dựng tình huống
truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế, khiến
tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp dẫn.

(Sưu tầm)
"Vợ nhặt" của Kim Lân
I. Tác giả nói về tác phẩm:
1. “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi dân tộc và mọi thời đại.
Cho nên đó cũng thuộc về bản chất của đời sống. Các nhà văn viết về cái đói
ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý
tưởng thường trực trong tôi là những người đói dù thế nào đi nữa vẫn luôn
luôn khao khát cuộc sống tốt hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc
sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ.
2. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con người trong cái hoàn
cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không còn lối thoát. Tôi muốn
hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau, không phải là sự giành giật nhau
(…). Bối cảnh của truyện là khi cái đói hoành hành khắp nơi. Nhưng các nhân
vật của truyện thì đứng ở ngưỡng cửa của cái đói. Nơi ngưỡng cửa khốn khổ
đó, họ sẽ chứng tỏ số phận và tính cách của mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ
bắt đầu một niềm tin mới, một niềm hạnh phúc mới, dù là rất mong manh.
3. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn
vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hy
vọng vào tương lai.
II. Một số điểm lưu ý trong quá trình tiếp cận tác phẩm:
1. Không khí ngày đói và bối cảnh nhặt vợ:
Cái đói hiện hình cụ thể trên nền không gian ảm đạm đầy ám ảnh của cái
chết rình rập cuộc sống những người dân ở xóm ngụ cư. Không gian tối sầm
vì đói khát được mô tả đầy ấn tượng: quạ bay, thây người chết còng queo,
người sống dật dờ, lặng lẽ như bóng ma. Cái đói hiện hình trên gương mặt
một anh chàng vô tâm như Tràng , làm thay đổi diện mạo và thói quen cố
hữu, đè nặng lên đôi vai, cái lưng gấu, dập tắt “nụ cười tủm tỉm”. Ngay cả
những đứa trẻ cũng “ủ rũ”. Bầu không gian dự báo tai ương ập đến bất kỳ lúc
nào. Ấy là những ngày đói Ất Dậu khiến những người đã qua năm 2000 “nhắc
lại vẫn rùng mình” (Nam Cao).

3
Sự kiện tương phản với hiện thực là buổi chiều Tràng về làng cùng người đàn
bà lạ mặt. Điều không bình thường hiện ra trên khuôn mặt “phớn phở khác
thường” và nụ cười “tủm tỉm” trở lại trên môi Tràng. Điều khác lạ trong thái
độ của Tràng thay đổi với đám trẻ con vốn quen suồng sã với anh ta. Sự kiện
tạo ra sự tò mò ngạc nhiên từ trẻ con đến người lớn. Niềm vui nho nhỏ lóe
lên trong cuộc sống tăm tối đói khát nghèo khổ nhanh chóng bị nỗi lo thường
trực về cái đói và cái chết lấn át. Kim Lân đã đem đến cho người đọc cảm
giác ái ngại, xót xa cho sự trớ trêu của số phận người nghèo trước thực tại
khủng khiếp.Hạnh phúc thành hình trên nền cuộc sống tột cùng bi kịch, khi
sự sống bị dồn vào ngõ cụt không lối thoát. Con đường duyên phận thành
con đường rước thêm “cái của nợ đời” khiến những người biết nghĩ đều phả
ithở dài ái ngại. Bóng tối mở ra mênh mông, mùi gây của xác người, tiếng
quạ vẫn gào lên thê thiết. Nỗi bất hạnh dường như đang chờ ở phía trước.
2. Con đường về nhà Tràng - sự thay đổi trong tâm lý nhân vật:
Sự thật quá lớn lao vượt quá suy nghĩ mơ ước thường nhật của anh Tràng
nghèo khổ, xấu xí khiến Tràng không nhận biết hoàn cảnh giống mọi người.
Choán ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc của riêng anh. Kim Lân đã
khắc họa những chi tiết thật sống động về một gã trai được vợ “thích ý”, “cái
mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình”. Cũng là tiếng “càu nhàu” nhưng khác
hẳn với cái “càu nhàu” của người đàn bà cảm thấy sự hẩm hiu của thân phận,
Tràng tỏ ra bối rối thật sự trước hạnh phúc đang được tận hưởng. Mọi cử chỉ
thật buồn cười: “lật đật”, “nhìn ngang nhìn ngửa”, “như người xấu hổ chạy
trốn”. Kim Lân đã lồng vào giữa cảnh đói khát những tiếng cười hóm hỉnh về
một anh chàng có vợ để xua dần không khí đượm màu tang tóc ra khỏi hạnh
phúc giữa hai người.
Ngay sau đó, một không gian đượm chất trữ tình đã hiện lên trên “con đường
sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút”. Chỉ còn “tiếng gió trên bờ tre rì
rào và tiếng lá khô kêu sào sạo dưới bàn chân”. Đó là không gian dành cho
những đôi lứa tâm tình. Nhưng Kim Lân hoàn toàn không có ý định thi vị hoá

câu chuyện, bởi từ suy nghĩ đến lời nói, hành động của các nhân vật vẫn
chập chờn những nỗi lo thường trực.
Chỉ “trong một lúc” ngắn ngủi nhưng nhà văn đã lý giải được sự thay đổi lớn
lao trong tâm hồn Tràng, tạo mối dây ràng buộc hai con người khốn khổ lại
với nhau. Dẫu chỉ là cảm nhận mơ hồ nhưng với Tràng, khoảnh khắc ấy vô
cùng thiêng liêng. Hạnh phúc tủm tỉm cười cùng anh, giúp anh “quên hết
những cảnh sống ê chề, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe doạ, quên cả
những tháng ngày trước mặt”. Rõ ràng, đối với Tràng hạnh phúc không còn
là sự vô tình ngẫu nhiên nữa. Nó giúp anh tự tin hơn, tự chủ được tình cảm
của mình. Thiêng liêng thay phút ấy hai chữ “tình nghĩa”, như dự báo khả
năng của con người từng bước vượt qua hoàn cảnh, tiếp sức cho con người
vượt lên định mệnh nghiệt ngã và tạo ra mối đồng cảm đầu tiên cho những
người trước đó còn xa lạ.
Hạnh phúc có thể được cảm nhận rõ qua ngôn ngữ đối thoại và tiếng cười của
4
những người trong cuộc. Câu chuyện giữa hai người mang theo không khí
chờ đợi hạnh phúc đang đến, rất bình dân nhưng đã kéo hai con người khốn
khổ xích lại gần nhau. Thật ngỡ ngàng khi đến lúc này thị mới quan tâm đến
gia cảnh của Tràng. Vẻ ngờ nghệch của anh trai quê đã làm nên nụ cười “tủm
tỉm” của người đàn bà. Kim Lân quả thật đã dụng công mô tả tiếng cười của
từng nhân vật. Từ nụ cười “tủm tỉm” thường nhật của Tràng đến nụ cười
“tủm tỉm” của thị đã có một ý nghĩa khác nhau. Để rồi niềm vui nhân lên, lan
toả làm thành khoảnh khắc “bật cười” của Tràng khi ngộ ra bản thân, rồi cả
âm vang “hì hì…” ý nhị và hài hước, cuối cùng bùng lên thành khoảnh khắc
“hắn thích chí ngửa cổ cười khanh khách” rồi “phì ra cười” làm hiện rõ một
anh Tràng đang ngập tràn vui sướng. Đó cũng là lúc họ nói với nhau bằng
ngôn ngữ của vợ chồng, rất quê mùa nhưng cũng rất đáng yêu.
Nhưng con đường - hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi khi họ chạm vào cái cổng
nhà Tràng, bước vào “cái nhà vắng teo rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn
những búi cỏ dại”. Sự thực nghèo khó phơi bày trần trụi khiến hạnh phúc

bỗng trở nên chơi vơi. Tràng chỉ biết “cười cười” khoả lấp nhưng nỗi thất
vọng đã hiện rõ, khi “thị nhếch mép cười nhạt nhẽo”. Đến lúc này, thực tại
buộccon người phải đối diện với nó, khiến con người không dám tự tin chính
mình để làm nên hạnh phúc. Ranh giới hạnh phúc - bất hạnh thật mong
manh khi mọi cử chỉ, tâm trạng của thị như nói lên tất cả nỗi tủi hổ, đắng cay
của một kiếp đàn bà khốn khổ: “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư
khư cái thúng, mặt bần thần”. Không ai báo trước được điều gì sẽ xảy đến
trong mối quan hệ của hai con người đói khổ ấy. May mắn thay, giữa lúc
đang “tây ngây”, “sờ sợ”, “lấm lét”, “loanh quanh” rối bời ấy, Tràng vẫn còn
“tủm tỉm cười” được. Dẫu sao anh cũng đã có những phút giây để được sống
trong hạnh phúc. Dẫu cho hạnh phúc ấy đang có nguy cơ tuột khỏi tầm tay
như một trò đùa của số phận, tràng vẫn còn cảm giác được một cách đầy đủ
về ý nghĩa thiêng liêng của bước ngoặt đời mình: “Ra hắn đã có vợ rồi đấy
ư?”. Khi ý thức được nhen lên, chắc chắn con người có đủ dũng khí để vượt
lên hoàn cảnh, không để hạnh phúc vuột khỏi tầm tay.
3. Người vợ nhặt:
Người đàn bà mà số phận đã xô đẩy để đến với Tràng không phải là nàng
tiên hạnh phúc. Câu chuyện được kể lại về cuộc gặp gỡ giữa họ quả thật là
một chuyện cười ra nước mắt. Hai lần gặp gỡ, duyên phận buộc ràng. Kim
Lân đã tạo nên những ấn tượng thật khó quên về thị - một kẻ không tên,
không tuổi, không nhà, không lai lịch – như một nạn nhân cùng cực đáng
thương của cái đói và miếng ăn.
Không ít nhà văn đã từng viết về cái đói và miếng ăn trong cuộc sống người
dân cùng trước cách mạng tháng Tám. Ngô Tất Tố đã để nước mắt chị Dậu
rơi lã chã khi chứng kiến con mình phải ăn cơm chó (Tắt đèn). Nam Cao
khiến ta phải rùng mình kinh sợ sức hủy diệt của cái đói - miếng ăn với nhân
tính trong bao truyện ngắn đầy nước mắt xót thương của ông (Lão Hạc, Một
bữa no). Kim Lân trở về với đề tài hiện thực cũ, đã dựng nên một tình huống
bi hài có một không hai: bốn bát bánh đúc nên duyên vợ chồng.
5

Để kiếm miếng ăn, thị dường như đã đánh mất tất cả sự dịu dàng kín đáo
thùy mị của người phụ nữ. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên, thị đã nhảy xổ vào
Tràng với tất cả vẻ “cong cớn”, “ton ton” và ỡm ờ “liếc mắt, cười tít” với gã
trai xa lạ. Kim Lân khiến ta hình dung cụ thể hoá cảnh “trai tứ chiếng, gái
giang hồ gặp nhau”. Lần thứ hai, thị xuất hiện với bộ dạng thật thê thảm và
cung cách thật khó ưa. Cái đói ghi dấu ấn trên “áo quần rách tả tơi như tổ
đỉa”, dáng vóc “gày sọp đi” và “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai
con mắt”. Đáng sợ hơn, nó không chỉ biến đổi nhân dạng mà còn lấy mất của
thị lòng tự trọng, tính sĩ diện cần thiết ở một con người. Nó làm cho thị trong
lời nói “sưng sỉa, cong cớn” qua lời nói “đon đả” chẳng còn một tư cách người
nào. Tràng thành chiếc phao cứu sinh để thị được ăn. Bởi ăn là sống, không
ăn là chết. Ranh giới sự sống – cái chết đã không cho thị quyền chọn lựa. Thị
trở thành hiện thân của con người bản năng.
Còn gì chua chát hơn sau lúc “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền
chẳng chuyện trò gì”, lại sẵn sàng theo không kẻ cho ăn về làm vợ, chi tiết
ấy khiến người đọc thương hại thay cho chị. Nhân phẩm đã mất, dường như
thị đã biến thành nô lệ của miếng ăn, bởi sau bữa ăn vội vàng thô tục ấy thị
còn tiếp tục cùng Tràng “Ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê:. Ấy vậy mà
tuyệt nhiên nhà văn không để bộc lộ một mảy may thái độ phản ứng nào của
Tràng trước những việc làm đáng khinh của thị, nên đọng lại trong ta một cái
nhìn đầy thương hại cho thị mà thôi. Phải đến khi xuất hiện trong xóm ngụ
cư, thị mới hiện lên với đầy đủ tâm trạng, mặc cảm về thân phận vợ nhặt. Số
phận của thị đã ngoặt sang ngõ rẽ mới sau tiếng tặc lưỡi: “Chặc, kệ” của
Tràng. Nhưng cuộc sống tương lai quá mơ hồ với thị. Trái ngược với Tràng,
thị bước đi trong dáng “Đầu hơi cúi xuống”, “rón rén, e thẹn”, “chân nọ bước
díu cả vào chân kia”. Bởi thị sợ những ánh mắt tò mò sẽ phơi ra sự thật phũ
phàng về thân phận vợ nhặt. Đến lúc chỉ còn hai người với nhau, thị cũng
không giấu nổi ánh nhìn “tư lự”. Ám ảnh thân phận thực sự rõ nét khi thị đã
ở trong nhà Tràng, khi đứng trước một hiện thực đáng thất vọng. Kim Lân đã
đặc tả vào thái độ của thị như gợi tả bao suy tư sâu sắc về kiếp người trong

nhữg ngày đói quay quắt. Cái nghèo gặp cái eo, báo cho họ biết những ngày
túng đói đe doạ. Nếu vấn đề của Tràng quẩn quanh trong mong ước tạo nên
hạnh phúc bền lâu thì vấn đề của thị lúc này là vượt lên nạn đói. Không có
bất cứ một tín hiệu nào bảo đảm cả hai người sẽ vượt qua thử thách của
chính mình. Sự chờ đợi thật nặng nề, căng thẳng. Thị đã dễ dàng đến với
Tràng thì thị cũng dễ dàng bỏ đi. Nhà văn đã kéo dài khoảnh khắc ấy để giúp
người đọc hình dung, giả định những khả năng sẽ xảy đến cho nhân vật, để
có những suy ngẫm cảm thông, ngậm ngùi cho thân phận con người trong
hoàn cảnh trớ trêu.
4. Cuộc gặp gỡ của ba người khốn khổ:
Bà cụ Tứ trở về nhà như bổ sung thêm vào bức tranh ảm đạm của cuộc sống
nghèo khổ, đói kém. Vẻ lam lũ in hình trên dáng đi “lòng khòng”, “vừa đi vừa
lẩm bẩm tính toán”. Trong những lo toan của người mẹ, hẳn sẽ không có dự
tính nào cho hạnh phúc của con trai trong thời điểm cùng cực đói này. Bởi
6
vậy thái độ của Tràng làm bà ngạc nhiên một thì sự xuất hiện của người đàn
bà lạ làm bà ngạc nhiên mười. Sự thực như một ảo ảnh để bà không thể hiểu
nổi. Dầu đã có lời chào nhưng lại làm bà rối bời “băn khoăn”. Vì hơn ai hết bà
hiểu cảnh nhà, hiểu hoàn cảnh con mình không mong có được vợ trong cả lúc
yên hàn chứ chưa cần nói đến tao đoạn trần ai này. Nhà văn đã dồn bút lực
mô tả phút chờ đợi căng thẳng của đôi vợ chồng mới làm bạn với nhau để
người mẹ định đoạt duyên kiếp. Thời gian như kéo dài thêm cùng tâm lý đợi
chờ. Lại càng dài hơn khi bà cụ “cúi đầu nín lặng” sau khi hiểu ra cớ sự.
Những trang viết xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với tâm trạng
mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và
cũng thật đắng cay xa xót. Người đọc có thể nhìn thấy bóng dáng bao bà mẹ
thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ Tứ. Những xung đột bi kịch được
đẩy lên cao trào nhưng cũng được hoá giải phần nào bởi tình thương của
người mẹ. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận,
trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. “Lòng người mẹ nghèo

khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số
kiếp đứa con mình”. Không khí im lặng u uất bao trùm lên ngôi nhà, tâm tư
bà cụ cũng ngập tràn ám ảnh đầy bóng tối: cái đói, cái chết, cái nợ đèo bòng
chất thêm gánh nặng. Định mệnh như cười cợt với hạnh phúc, nụ cười của
thần chết. Nhưng không thể thắng được một niềm tin của những người chưa
tắt hy vọng về tương lai. Nó là cái tâm lý quen thuộc của những người nghèo
khổ, thường tự an ủi mình:
Chớ than phận khó ai ơi
Còn da lông mọc, còn chồi lên cây
Tiếng nói đòi quyền sống mãnh liệt ấy đã thôi thúc làm nên quyết định rất
“nhẹ nhàng” trong lời nói của bà cụ Tứ “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên
phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Hạnh phúc đã vượt qua lực cản đầu
tiên.
Nhưng cuộc sống thực không hề nhẹ nhàng, vẫn bộn bề chồng chất nỗi lo.
Bản thân bà cụ cũng nén chịu vào lòng nỗi đau của riêng mình, đặt vào
miệng những lời an ủi nàng dâu mới nhưng “bóng tối trùm lấy hai con mắt bà
lão”. Trong khoảnh khắc, quá khứ tủi cực dồn về cùng suy nghĩ cho tương lai
dâu – con. Điều cảm động là tình thương ấy đã xoá nhoà khoảng cách “mẹ
chồng nàng dâu” nhưng cách cư xử của bà cụ Tứ vẫn còn là sự chịu đựng,
chấp nhận hoàn cảnh, chưa phải là sức mạnh để vượt lên hoàn cảnh. Mỗi một
lời thân mật với “”nàng dâu mới” chứa đựng bao nỗi niềm u uất để rồi “bà cụ
không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bóng tối vẫn mênh
mông.
Kim Lân đã để vào chính lúc ấy, Tràng “đánh diêm đốt đèn”. Chính nhà văn
đã nói về ngọn đèn xua tan bóng tối này: “Ngọn đèn là niềm yêu thương,
cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn thương của họ” (Tác
giả nói về tác phẩm). Đó là ánh sáng của hy vọng, của quyết tâm tạo dựng
cuộc sống mới. Một lần nữa, Kim Lân lại để cho đôi vợ chồng mới còn lại
7
riêng với nhau, trong “ánh đèn vàng đục ở góc nhà toả ra ấm áp và kéo dài

hai cái bóng trên vách”. Nhưng lần này, không chỉ có tiếng họ thầm thì trò
chuyện mà còn cả “tiếng hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”.
Hạnh phúc mới phải đối mặt với thực tại cuộc sống những ngày tới của lứa
đôi và đêm tân hôn ấm áp tình người đã chống chọi với “tiếng hờ khóc tỉ tê
nghe càng rõ”. Đó là hạnh phúc đòi hỏi con người phải sát lại bên nhau để
vượt qua buồn thương số phận, cái đói và cái chết.
5. Ngày mới:
“Ánh nắng buổi sáng mùa hè” đến với Tràng sau đêm tân hôn màu nhiệm đã
giúp anh nhận ra tất cả sự “thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Dù ở trong trạng thái
“êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra” nhưng bước ngoặt cuộc
sống của Tràng là sự thực mà chính anh là người hiểu rõ nhất. Đẹp làm sao
những cảm xúc của Tràng về tổ ấm của chính anh, gắn với viễn cảnh tương
lai sáng sủa như không gian đầy nắng kia. “Một nguồn vui sướng, phấn chấn
đột ngột tràn ngập trong lòng”, nguồn hạnh phúc tạo nên từ mối ràng buộc
tình cảm và trách nhiệm của Tràng với mẹ, với vợ đã đem lại nguồn hạnh
phúc lớn lao hơn cho Tràng. Anh ý thức rõ hơn bao giờ hết quyền được sống
làm người, quyền sống của con người. Chính anh chứ không phải ai khác sẽ
bảo vệ đến cùng quyền lợi chính đáng ấy.
Ngày mới đến với thị cũng thật khác lạ, làm nên vẻ đẹp của một cô Tấm bước
ra từ quả thị trong cổ tích. Hạnh phúc mới đã trả lại cho chị vẻ “hiền hậu
đúng mực” và chính bàn tay từng đẩy chiếc xe bò duyên phận, bàn tay quệt
đũa ngang miệng, hôm qua đã sắp đặt, sửa sang nhà cửa gọn gàng sạch sẽ.
Bàn tay ấy “đang quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt
đất”. Âm vang giản dị, bình thường ấy báo hiệu sự hồi sinh, sức sống mới trở
lại trong tâm hồn chị. Tưởng chừng mọi nỗi lo đã được giải toả khi ngày mới
bắt đầu, ngay cả “bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường,
cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Nhưng hình ảnh “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại” đã cho ta biết tất cả
mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống mới của gia đình Tràng diễn ra trên nền hiện thực
còn nguyên mối đe doạ. Lùm rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo, câu

chuyện giữa mẹ, con, dâu toàn niềm vui. Không khí “đầm ấm hoà hợp” bỗng
ngừng lại khi miếng ăn hết nhẵn. Khoảnh khắc ấykhiến người đọc có thể
chạnh lòng nhớ không khí truyện “Nửa đêm” của Nam Cao. Cũng vui vẻ đầm
ấm ban đầu, sau hạnh phúc vỡ tan, để lại cay đắng, cùng cực cho một bà lão
suốt đời “tu nhân tích đức”. Liệu bà cụ Tứ, Tràng, thị có lâm vào nghịch cảnh
đầy bi kịch như vậy không? Kim Lân đã để các nhân vật chống chọi hoàn
cảnh ấy mỗi người một cách, tranh đấu quyết liệt với cái đói chết người để
bảo vệ quyền sống, hạnh phúc họ vừa có được. Người đọc sẽ lặng đi khi nhìn
vào miếng ăn của họ - “chè khoán” của bà cụ Tứ. Người mẹ tội nghiệp ấy đã
làm mọi việc có thể để cứu vãn tình thế, ngay cả khi nói rõ là cám vẫn cố
đánh lừa cảm giác bằng tiếng cười rặn ra và lời khen “ngon đáo để”. Người vợ
nhặt đã nhận ra sự thực, dẫu “hai mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và
vào miệng”. Thị thật đáng thương vì cuộc đời chị cũng sẽ không còn lối thoát
8
nào khác. Tình người thật đáng quí để chị chấp nhận hoàn cảnh ăn miếng ăn
của loài vật này. Chỉ có Tràng cảm nhận rõ nhất vị cám “đắng chát và nghẹn
bứ”. Dường như khoảnh khắc ấy đã bùng lên sức mạnh phản kháng trong
anh. Nhưng bị bủa vây trong vòng cùng quẫn, những con người ấy đã bắt
đầu “tránh nhìn mặt nhau”, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người”. Sức
mạnh tố cáo tội ác huỷ diệt sự sống của kẻ thù Pháp - Nhật trong câu văn
thật thấm thía trong phút câm lặng đột ngột này. Nhưng có thể nhận ra lúc ý
thức rõ nhất về hoàn cảnh cuộc sống bên ngoài tác động, họ tránh nhìn nhau
không phải vì sợ hãi, cũng không phải chuẩn bị cho ánh mắt nhì nnhau đầy
thù hận mà tủi hờn chất chứa trong lòng sẽ giúp họ cùng nhìn về một hướng
giải thoát khỏi cuộc sống lầm than, hướng đến sự sống, tương lai sẽ khác
hơn.
Kim Lân dựng lên đoạn cuối câu chuyện khi những người cùng khổ này nói về
“Việt Minh” và hình ảnh đoàn người đói cùng lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên
trong óc Tràng, bởi điều kiện khách quan tác phẩm hoàn thành sau cuộc cách
mạng long trời lở đất của dân tộc lật nhào bộ máy hủy diệt của kẻ thù dân

tộc, trả lại hạnh phúc tự do thật sự cho con người. một kết cục làm rõ tư
tưởng của tác phẩm là cần thiết để câu chuyện thoát khỏi lối mòn bi kịch của
văn học hiện thực trước cách mạng viết về những nạn nhân đáng thương bị
đè bẹp bởi hoàn cảnh. Nhưng theo sự phát triển của tình huống truyện, dẫu
kết cục là nỗi tủi hờn vẫn hàm chứa trong đó sức mạnh phản kháng của
những con người từng bước ý thức và làm chủ hoàn cảnh, vượt lên số phận.
đó cũng chính là điểm khác biệt về nhân vật điển hình trong văn học sau
1945 với văn học trước đó.
Kim Lân đã ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân hậu, đem đến những cảm
nhận mới mẻ về con người và khơi dậy sức mạnh tình thương giúp con người
vượt qua tất cả trở lực của cuộc sống và bản thân họ. Tác phẩm ấm lòng ta
bởi niềm tin vào con người tuyệt đối .
***
*****
Vợ nhặt- Kim Lân
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1/8/1920, quê ở
làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hoàn cảnh gia
đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt
đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng
trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và “Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện
(“Đứa con người vợ lẽ”, ” Đứa con người cô đầu”, ”Cô Vịa”…) mang tính chất
tự truyện, nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông
thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân. Ông được dư
luận chú ý nhiều hơn khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá
phong phú ở thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện: ”Đôi chim
thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một cách sinh động những thú chơi
lành mạnh, qua đó thể hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân
9
trước Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu
đời, trong sáng, tài hoa.

Sau Cách mạng tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn
chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam _mảng hiện thực
mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên
chồng” (tập truyện ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962).
Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào
Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã
viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một
người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Nguyên Hồng, ông là nhà văn
một lòng đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc
sống nông thôn (Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK Văn
học 12)
Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người nông thôn, Kim Lân
luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào
lòng người đọc. Đặc biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã
thể hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác phẩm thấm đẫm
tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về
hạnh phúc gia đình của người nông dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua
đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nông dân trong thời chiến và
những ao ước giản dị của họ , tạo nên sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng
người đọc .
Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người đọc.Chuyện dựng vợ
gả chồng là chuyện hệ trọng trong cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình
ảnh “Vợ Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn nhân
trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn đói mùa xuân Ất Dậu
1945,một trong những thời kỳ đen tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác
phẩm thứ ánh sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng
vạng”.Và thấp thoáng trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh những con người
“xanh xám như những bóng ma”,”nằm ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái
thây nằm cong queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ vực
thẳm giữa sự sống và cái chết,một không khí “vẩn lên cái mùi ẩm thối của

rác rưởi và mùi gây của xác ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã
gợi lên một không khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người nông dân
lúc bấy giờ mới khó khăn,cực nhọc đến dường nào,gây xúc động cho mỗi
chúng ta khi ông cha ta đã trải wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay
gạo, chịu đói rét.
Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một con người hoang sơ
ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều tàn của một cuộc sống không ra cuộc
sống.Tràng được Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc bây
giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh ra,bộ mặt thì thô
kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh
hệch”,”cái đầu trọc nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng
10
vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã hội đói nghèo
.Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém phần hoang dã như thế: cành
dong rấp cổng,tấm phên rấp che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà
Tràng cũng chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng bỏ,một
thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng tạo nghệ thuật của
mình,gây ra những bất ngờ cho người đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối
sầm lại vì đói khát ấy,một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về
với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước vào cuộc sống của
Tràng.
Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ dạng giống như con
gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới
cái ranh giới phân chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được
“thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách hiển hách,oanh
liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa: chỉ buông ra có một lời ỡm ờ tán
tỉnh,mà “cô nàng” đã vội vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về
một thời thảm hại. Nhưng đó không phải là một chuyện cổ tích hay theo một
mô tuýp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây lại là một sự thật não lòng.Người
vợ mà được Tràng nhặt về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một

dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng là một bức ký họa
khác với tự nhiên,với những đường nét tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực
gầy lép,khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi
như tảo đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc đời
Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim Lân cho ta nhận
thấy:cái người phụ nữ đói rách kia còn xa mới có thể coi là hiền thục;làm sao
mà Kim Lân có thể tả cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà lao động nghèo
tài thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi tả vợ của Tràng
rất cong cớn nhưng không nanh nọc,trơ trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng
sỉa, đanh đá,trơ trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ
tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua những lời yêu đại loại
như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì
có vợ.Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về.”. Đó
là ngôn ngữ của tình duyên,hay cũng chỉ là bốn bát bánh đúc mà người đàn
ông nổi hứng khao và người đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng buông
một lời trò chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói
kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy của người phụ nữ
đói rách sáng lên.Có xót xa không,khi cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại
cũng có thể xe duyên cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó.
Điều đó,ta nhận thấy dường như không có sự cách biệt giữa Kim Lân và
người nông dân,nên ông mới có thể miêu tả người nông dân trong những
năm nghèo đói mới chân thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười
thì bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương cảm.Những trang viết
về những con người “dưới đáy” thế này thì không làm ta khinh ghét họ mà
xót thương và buồn cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn
trong cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính cái xã hội đó
cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái nghèo đói.Ở đây ,tác giả không phải
11
nói về những nét thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân

cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng sống mờ tối,lắt lay,nhà
văn đã tìm ra một cơ hội song để biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát
thèm được sống, được thương yêu và hy vọng.Niềm ao ước hạnh phúc đó
không thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một tương lai không mấy sáng sủa
và nó cũng không bị diệt trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và
chính bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng nào.
Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy nghĩ:”thóc gạo này đến
cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bồng”.Nhưng rồi
anh lại tặc lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với một sự
việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái
tặc lưỡi đó đồng nghĩa với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo
đói, để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người. Đó là khát vọng
làm người mà một kẻ thô kệch,chất phác như Tràng vẫn có đã khiến Tràng
liều lĩnh một phen.Và Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một lúc,Tràng hình
như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng ngày,quên cả cái đói khát
ghê gớm đang đe dọa từng ngày,và quên cả những tháng ngày trước
mặt.Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà đi
bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người đàn ông nghèo khổ
ấy,nó ôm ấp,mơn man khắp da thịt Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ
trên sống lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc:
Khác với những người có đầu óc bi quan thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ
không làm giảm đi giá trị của lòng người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương
yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như rằng không còn cần
gì hơn là một miếng cơm ăn.
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim Lân,hạnh phúc, đến
lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một con người như chính Tràng chẳng
hạn.Tràng hôm nay đã không còn giống như Tràng của những ngày hôm
qua.Anh Tràng hôm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa xoa mãi vai kia,chỉ
vì đi bên một người đàn bà ở một nơi vắng vẻ,muốn buông một câu tình tứ
mà chịu không sao nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời

một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một mình tui mấy u”. Ắt
hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng đúng thôi,nhưng có ai đã từng sống qua
mà không thấy: có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn ngơ,những sự “khổ sở
êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật là hạnh phúc.Cái xúc
động mà Tràng đang có vào buổi lần đầu đi bên người vợ nhặt,ngẫm ra cũng
không ít điều xót xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động,lâng
lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám và chai sạn thành một đứa trẻ lớn
tuổi hiền lành.
Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó không chỉ là một
sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận ra dưới cái cười,một tiếng thở dài
thương cảm cho những kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua
có hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử chỉ có vẻ lãng
mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì Tràng đã có cái hãnh diện mà trước
kia anh ta chưa từng có.cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có
12
một đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có lấy một lần
sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào đấy, đắt quá,có mà thôi chả
cần.”,một lời nói nghe sao mà thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó
là một niềm vui không tầm thường,bởi trong hoàn cảnh như thế của Tràng
lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó lớn hơn, trong trẻo,qúy
báu hơn đâu có thể cho là một niềm vui hạ cấp?”
Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ mình với mẹ:”Kìa
nhà tôi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất tài trong việc sử dụng những lời
thoại ít chữ,văn xuôi hết sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ
mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình cảm chứa đọng
trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là “nhà tôi” ấy,cái người con dâu đang
thực hiện những nghi lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa
trải qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ chồng diện kiến
“nhan sắc” của mình một lần nhưng những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở
ruột nở gan như một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ Tràng,người

đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?
Hà!…”.Tuy sự xác nhận ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được
một cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương
yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng
vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng Bây giờ
hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao ước của những người
nông dân luôn mong có được một gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí
Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng Thị Nở
xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho người ta,cùng nhau mỗi
ngày được thưởng thức “bát cháo hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vô
cùng giản đị như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân
Việt,và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy và tiếng nói đầy
tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm thiết tha cho người đọc.
Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để nương tựa thân phận
người phụ nữ của mình trong cảnh đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất
vọng thầm kín khi thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố
nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà rách nát và rúm
ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt bần thần khi bước vào nơi ở của
anh chàng mới lúc ban ngày còn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng
tối lại khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường “rước dâu”
dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cô nàng cong cớn và trơ trẽn hồi nào bỗng trở
nên e dè ngượng ngập;và có khó chịu lắm trước những sự tò mò trêu cợt thì
cũng chỉ dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên cũng
không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên con đường về nhà chồng,cả
cái dáng điệu khép nép ngồi mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng
túng tất cả những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom,xám xịt và
rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng dâu thực sự,một bông
hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng ngạc nhiên trước những thay đổi của
nàng ta:”Tràng nom thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu
đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở

ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân
13
khi chị vợ kia lại chịu đi theo một người đàn ông như Tràng ,xấu xí và xa lạ
như để tránh sự cô đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà chồng thì nàng ta
vẫn chẳng thoát được cái đói của cuộc đời.Nhưng bù cho điều đó nàng lại
nhận được một món quà khác đó là tình thân,tình thương,một mái ấm gia
đình,một nghĩa vụ phải biết lo lắng cho nửa kia của mình và cũng là điều mà
Kim Lân muốn nói:dù đói khổ,khó khăn vất vả nhưng không thể thiếu trong
cuộc sống tình thương yêu gia đình, điều đó mới có thể giúp ta cảm thấy
được mình vẫn là một con người bình thường như bao người khác.
Kim Lân thật tài trong những câu đối thoại giữa vợ chồng Tràng.Nó lửng
lơ,với những câu nói trổng không,dân dã,bình thường,nghe rất lạ lẫm đối với
những cặp vợ chồng khác đến hay đối với hai người dân đói khổ bỗng thoáng
chốc trở thành vợ chồng,ngay cả khi đi chung với nhau vẫn còn chưa hết
ngượng ngùng.Và nó không chỉ thể hiện qua lời nói,mà còn qua cái củng vào
trán cùng với một tiếng “dơ”,cái cười hì hì của gã đàn ông,và trước đó là cái
lườm của chị vợ giống như nhân vật Thị Nở của Nam Cao:”Một người đàn bà
thật xấu khi yêu cũng lườm.”Nhưng đối với chị vợ của Tràng thì đó còn là một
người đàn bà đói rách đang đong đưa con mắt để quên cái xấu,cái nghèo của
mình mà nghĩ đến “tình yêu vợ chồng”.Một cái nét đẹp, đáng quý, đáng yêu,
đáng buồn cho cái hạnh phúc của đời thường,nạn nhân của xã hội nghèo
khổ,nắm bắt ngay những thời cơ để được yêu, để được biết thế nào là hạnh
phúc, được hưởng thụ một lần trong đời và để được sống như bao ngừơi
khác,và nếm được hương vị của gia đình.
Và một nhân vật được Kim Lân đưa vào ngay giữa truyện đó là bà cụ Tứ,mẹ
của Tràng,một nhân vật làm nổi bật cái khát khao của hai chữ “gia đình” lúc
bấy giờ.Bà cụ không hài hước như đôi vợ chồng Tràng,mà đó là một con
ngừơi đã một kiếp phải sống trong nỗi đau,vất vả,nuôi con khôn lớn.Và cũng
chính cái kinh nghiệm từng trải,lòng ám ảnh của một quá khứ nặng nề với
nhiều nỗi đắng cay và những băn khoăn của người làm mẹ:”Bà lão nhớ đến

ông lão,nghĩ đến đứa con gái út.Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dái dằng
dặc của mình.Vợ chồng chúng nó lấy nhau,cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố
mẹ trước kia không?”. Điều đó cho ta thấy rằng bà cụ Tứ về những nghịch
cảnh éo le của việc hôn nhân, đặc biệt là một cuộc hôn nhân “vội vã” và
trong cái thời điểm cũng chẳng ư là thích hợp.Và bà cụ cũng tự nghĩ rằng đó
là một duyên kiếp không nên có:”Chao ôi,người ta dựng vợ gả chồng cho con
là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau
này.Còn mình thì…biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn
đói khát này không?”.Nhưng sự tình đã rồi,trứơc mắt bà là ngừơi con
dâu,mặt cúi xuống,”tay vân vê tà áo đã rách bợt”.Và rồi bà cụ Tứ cũng
chuyển cách nghĩ về việc có vợ là một cơ may:”Người ta có gặp bước khó
khăn đói khổ này,người ta mới lấy đến con mình.Mà con mình mới có vợ
được…Thôi thì bổn phận bà là mẹ,bà đã chẳng lo lắng được cho con…”câu văn
nghe thật cảm động nhưng có chút gì nhoi nhói,một chút tủi hờn,ai oán số
phận,nén cái cảm giác bất đắc dĩ trứơc việc đã bày ra trứơc mắt,hoà với chút
rưng rưng,xao xuyến một niềm vui.Qua đó ta càng lại thấy qúy trọng người
mẹ chồng này hơn khi bà nói nhẹ nhàng với nàng dâu mới:”Thôi thì các con
đã phải duyên phải kiếp với nhau,u cũng mừng lòng”,lột tả cái thần thái của
14
tấm lòng vị tha cao cả,giấu đi những giọt nứơc mắt xót thương vì sợ gây cho
người mình thương xót nhiều lo lắng:”Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho
sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ.” Đó là thứ ánh sáng mờ trong
đêm tối,một ánh sáng cho cái tương lai không ổ định,một thứ không biết lúc
nào tắt,nhưng cũng là niềm hy vọng nhỏ nhoi của bà cụ Tứ dành cho vợ
chồng Tràng.Có thể nói bà cụ Tứ là người có nhiều hy vọng nhất:từ cái việc
đan cái phên ngăn riêng chỗ của vợ chồng đứa con trai cho kín đáo;rồi
việc”khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà” và những ước mơ nghe thấy chạnh
lòng “rồi may ra ông giời cho khá…Có ra thì rồi con cái chúng mày về
sau.”Tuy đã gần đất xa trời nhưng bà không ước ao gì cao xa,bà chỉ ao ước
cho con mình,cho gia đình ,cho thế hệ con cháu mai sau,vun vén những gì

tốt đẹp nhất cho con cháu Có ai ngờ rằng một bà cụ đang chờ về thế giới
bên kia,lại có niềm hy vọng tràn trề không bị tàn lụi theo năm tháng và tuổi
tác.
Tác phẩm luôn đề cập hai vần đề trái ngược nhau, đan xen thành một chỉnh
thể nghệ thuật chung.Ta có thể thấy rõ khi nói về việc Tràng đưa vợ về
nhà,cái nhìn của người dân xóm chợ khi “nhìn theo bóng Tràng và bóng
người đàn bà lủi thủi đi về bến”,:”Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ
bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên.Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống
đói khát,tăm tối ấy của họ.”,rồi sau đó là “một người thở dài”,và sau tiếng
cười rung rúc bất chợt nổi lên là sự nín lặng_nín lặng của nỗi buồn lo.Rồi lại
trong lời bà cụ nói:”Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi.năm nay
thì đói to đấy.Chúng mày lấy nhau lúc này,u thương quá…”.Và rõ nhất là
những giờ phút hạnh phúc của đôi vợ chồng son trên cái nền âm thanh của
tiếng ai hờ khóc người chết đói cứ tỉ tê lúc to lúc nhỏ,dai dẳng tận đêm
khuya.Sự đan xen tình huống truyện ngây ngô của những ngừơi nông dân
chất phác,bình thường với những ước mơ nhỏ nhoi giữa một thế giới ,một
tương lai mở nhạt, một cuộc sống u ám, ranh giới giữa sự sống và cái chết.
Truyện mở ra là buổi chiều chạng vạng mặt người và khép lại trong “ánh
nắng buổi sáng mùa hè sáng loá”.Mở đầu là một anh Tràng cô đơn bước cao
bứơc thấp trên con đường khẳng khiu dưới ánh chiều mờ của một gầm trời
đầy đói khát,nhưng kết thúc là Tràng đã có một gia đình,mọi ngừơi đang xăm
xắn quét tước,thu dọn nhà cửa cho quang qủe và cố làm cho nhau vui trứơc
một bữa ăn loãng thếch và đáng chát,và cũng có len lỏi vào đó một nỗi tủi
hờn trứơc việc phải ăn món ăn vốn không phải là của con người,rồi lại tiếng
trống thúc thuế trên mảnh đất đầy người chết đói,xua đoàn quạ hốt hoảng vù
bay,khiến nền trời thành đen vẩn.Song lại có câu chiện về phá kho thóc Nhật
và hình ảnh lá cờ đõ phấp phới trong óc Tràng.Anh đã nhận thức được con
đường để thoát nghèo đói là đấu tranh,hình ảnh lá cờ soi sáng anh đi đến lý
tưởng đúng đắn nói riêng,và tinh thần đấu tranh của người nông dân đang
thôi th1uc họ mạnh mẽ tháot khỏi kiếp nghèo và một ngọn lửa hy vọng rực

cháy về một tương lai sáng sủa,một khát vọng tình yêu,hơi ấm gia đình,hoà
bình và tự do.Qua đó Kim Lân đã gửi gắm tiếng nói chung của những người
nông dân rũ bùn đứng dậy sáng loà,chiến đấu vì đất nứơc,vì để thoát khỏi số
phận tối tăm trứơc mắt.Hình dáng người nông dân nổi bật trước lá cờ đỏ sao
vàng,lá cờ lý tưởng cách mạng,lá cờ của niềm tin chiến thắng.Và qua đó nói
15
lên một niềm tin,một hy vọng tràn trề về một chiến thắng,sự thoát khỏi cuộc
sống cơ cực và hai từ “hoà bình” ,”tự do”.
Với vốn liếng ngôn ngữ giàu có và đặc sắc,mang đậm tính chất nông thôn,cái
lối viết văn tưởng như dễ dàng mà không thể phỏng theo ,giản dị vô cùng mà
vẫn ánh lên được chất hào hoa Kinh Bắc.những tâm trạng kín đáo nhất cũng
phải hiện lên qua những cử chỉ hành động một cách tinh tế :tiếng gắt vô
duyên vô cớ,một tiếng khẽ ho bình thừơng,những bứơc chân bứơc vội ra
sân,thái độ điềm nhiên và miếng cám vào trong miệng…Nhưng cái đọng lại
cúôi cùng là cái nhìn đời,nhìn đời đầy xót xa và thương yêu của nhà văn,là
niềm tin mà ông muốn trao gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm. Dù cuộc
sống có bi thảm đến đâu đi chăng nữa thì chính cái cội nguồn nhân bản lưu
giữ cho nâhn dân là bất diệt,và con ngừơi không có kháo khát chính đáng
nào hơn là khao khát được sống như một con người, được nên ngừơ,có được
mái ấm gia đình,một cuộc sống ấm no đầy đủ,tình yêu đôi lứa,niềm hạnh
phúc trong cuộc sống và tình thương yêu giữa người với người,và để bảo vệ
chính mình, để thoát khỏi sự áp bức, đói khổ,những ngừơi nông dân trở
thành lá cờ đầu cho công cuộc bảo vệ đất nứơc.
Có thể nói,tác phẩm truyện ngắn “Vợ Nhặt” của Kim Lân là một sự tiếp nối
của những tác phẩm văn chương hiện thực phê phán như của Nam Cao,Tô
Hoài,…từ trứơc Cách mạng tháng Tám .Vẫn những mảnh đời éo le,bất
hạnh,hay gặp những mảnh đời khó khăn trong những tình huống dở khóc dở
cười,hay trong tác phẩm này,chúng ta lại thấy một cuộc sống của những
ngừơi nông dân sau Cách mạng trong cái đói nghèo của một xã hội cần được
phải cải thiện mới, đó là những người có một tâm hồn trong sáng,tràn đầy

lòng yêu thương,luôn luôn ấp ủ trong tâm hồn mình những hy vọng, ước ao
nhỏ bé ,hồn hậu.Chính Kim Lân đã đưa người đọc quay về một thời đen tối
của nạn đói,qua đó ngừơi đọc đồng cảm ,xúc động cho những số phận,
những mảnh đời bất hạnh sống.Người đọc còn nhận ra điều Kim Lân muốn
gửi gắm đã nêu ở trên. Nhữnghình ảnh,chi tiết về anh Tràng cùng chị vợ
trong cuộc hôn nhân “vội vàng”,e ấp,ngại ngùng trên đường về nhà và hình
ảnh bà cụ Tứ trong hình ảnh một ngừơi mẹ,một ngừơi từng trải ,về những
băn khoăn cho con cái thật sự làm đau đớn,chạnh lòng khi đọc đến những
câu văn tha thiết,súc tích biết dường nàoBản thân tôi, khi đọc những dòng
văn mà Kim Lân viết,tôi đã có rất nhiều cảm xúc,những cảm xúc tự hào về
cha ông đã không vì nạn đói,nguy nan trứơc mắt mà từ bỏ để rồi xây dựng
nên đất nứơc Việt Nam như ngày hôm nay,cảm xúc về những ngừơi nông dân
bình dị nhưng lại chất chứa bên trong những niềm hy vọng nhỏ nhoi nhưng
đầy nhiệt huyết. Tuy thời gian đã qua ,nhưng những hình ảnh về một thời
đ1oi khổ,một thời chiến đấu của nhân dân ta vẫn còn hiện lại trong tôi như
mới đây thôi. Điều đó càng làm tôi cảm thấy mình có trách nhiệm trong việc
giữ gìn, bảo vệ và xây dựng đất nước mà chính những người nông dân,và
ông cha ta đã gầy dựng.
**
***
16
1. Về nạn đói mùa xuân 1945
Đây là một nạn đói vô cùng khủng khiếp ở nước ta, chỉ trong vòng vài tháng
đã giết chết hơn hai triệu người từ Bắc Kì đến Quảng Trị (nạn đói mà theo
Nam Cao "có lẽ đến năm 2000, con cháu chúng ta vẫn còn kể lại cho nhau
nghe để rùng mình" - Đôi mắt).
GV nên sưu tầm các tài liệu về nạn đói này để giúp HS hình dung được một
cách cụ thể (ảnh chụp, tác phẩm văn học như tiểu thuyết Mười năm của Tô
Hoài, Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi, tập truyện Địa ngục và Lò lửa của Nguyên
Hồng, ).

2. Về tình huống "vợ nhặt"
Một anh nông dân xấu xí, ế vợ, nghèo túng, thuộc loại dân ngụ cư (bị người
làng khinh bỉ) vậy mà "nhặt" được vợ dễ dàng chỉ bằng vài bát bánh đúc.
Thân phận con người rẻ rúng đến thế là cùng.
Tác giả diễn tả tình huống này bằng thái độ ngạc nhiên của dân ngụ cư khi
thấy Tràng đi với một người đàn bà lạ về nhà. Dân xóm ngụ cư ngạc nhiên đã
đành, đến bà mẹ (bà cụ Tứ) cũng ngạc nhiên, thậm chí chính Tràng cũng
ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì không ai ngờ anh ta lại có thể lấy được vợ - bản
thân anh ta cũng không ngờ mình có vợ dễ dàng đến thế.
Tất cả là do nạn đói. Nạn đói khủng khiếp quá nên người đàn bà kia mới phải
lấy đến Tràng. Sức tố cáo của tác phẩm đối với tội ác của bọn thực dân phát
xít thật là mạnh mẽ và sâu sắc. Tác giả không trực tiếp mô tả cảnh chết chóc
thê thảm, cũng không trực tiếp nói đến tội ác của bọn thống trị đế quốc, vậy
mà tội ác của chúng cứ phơi trần ra một cách thật ghê tởm và tình cảnh
người dân đói khát như thế nào cứ bày ra một cách đau xót.
3. Về tâm trạng các nhân vật
Nhưng Tràng "nhặt" được vợ trong hoàn cảnh ấy nên vui hay nên buồn, nên
mừng hay nên lo ? Thời buổi đói khát này, nuôi lấy thân còn chả xong, lại còn
lấy vợ ! Lấy gì nuôi nhau qua trận đói này ? Người ta lấy vợ lấy chồng là lúc
ăn nên làm ra, tiệc tùng vui vẻ. Tràng lấy vợ lại nhờ nạn đói ! Tình huống
truyện đã khơi dậy ở mỗi nhân vật những ý nghĩ và tâm trạng khác nhau,
gắn với thân phận, kinh nghiệm sống của họ và thể hiện tính cách khác nhau
của họ.
- Ở Tràng tuy có hơi "chợn" nhưng cái mừng có phần lấn át cái lo. Vì dù sao
cũng lấy được vợ, lại có vợ theo hẳn hoi. Anh ta có vẻ vui, thậm chí tự hào và
đắc ý nữa. Chưa trải đời nhiều, anh ta chưa hiểu hết cái đáng phải lo đang
chờ vợ chồng anh ta trong tương lai.
- Người "vợ nhặt" của Tràng lại có tâm trạng khác. Chị ta theo Tràng về nhà
17
chỉ là vì miếng ăn chứ có tình cảm gì đâu. Nghĩ cũng xấu hổ. Vì thế, trên

đường về nhà chồng, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng khi thấy người
ta nhìn mình.
- Bà cụ Tứ thì có tâm trạng vừa mừng vừa lo. Lo nhiều hơn, vì bà cụ đã trải
đời nhiều, đã biết thế nào là cái đói, cái nghèo chưa bao giờ buông tha mẹ
con bà. Tràng lấy vợ vào lúc này quả là đèo thêm một gánh nặng chẳng biết
có chịu nổi không. Mặt khác, làm mẹ không lo được vợ cho con, nay nó lấy
được vợ, mừng đấy mà cũng tủi đấy. Nhưng nghĩ người ta có đói mới lấy đến
con mình, nên lẫn với cái lo, cái tủi, còn có tâm trạng "vừa ai oán vừa xót
thương cho số kiếp đứa con mình". Còn đối với người con dâu thì bà cụ dễ
dàng cảm thấy yêu và thương. Vì đó là người đàn bà đã tự nguyện lấy con
mình và cũng là cảnh nghèo đến với nhau ( "Con ngồi xuống đây. Ngồi
xuống đây cho đỡ mỏi chân" - Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương
xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi").
Tóm lại, tâm trạng bà cụ Tứ phức tạp nhất, đầy mâu thuẫn, bởi vì khác với
Tràng, "lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự".
4. Niềm khao khát hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt của người
dân lao động đối với cuộc sống và tương lai
Tình yêu và nhu cầu xây dựng cho mình một tổ ấm gia đình là bản chất của
nhân tính. Buổi sáng, sau ngày đầu tiên Tràng có vợ, không khí của gia đình
Tràng trở nên khác hẳn. Vì nhờ sự có mặt của vợ Tràng, cái gia đình này mới
thật sự là một gia đình, thật sự là một tổ ấm. Mọi người bỗng thấy gắn bó
hơn và có trách nhiệm hơn với nhà cửa, vườn tược của mình. Dường như
trước kia mẹ con Tràng chỉ là sống tạm bợ, sống cho qua ngày. Nay Tràng
bỗng thấy "thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia
đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa
che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng".
Tâm trạng này có được ở một người như Tràng mới thật cảm động. Người ta
lấy vợ lấy chồng, điều ấy có gì đặc biệt lắm đâu. Nhưng với Tràng thì là cả
một ước mơ lớn tưởng chừng không bao giờ có thể thực hiện được. Giá trị
nhân bản sâu sắc của thiên truyện chính là ở chỗ đã phát hiện, đồng cảm và

trân trọng niềm vui sướng rất con người này ở người nông dân nghèo trong
xã hội cũ.
Truyện Vợ nhặt còn có phát hiện sâu sắc : Sống bên cái chết, sống giữa cái
chết, cái chết ngày càng thò bàn tay gớm guốc của nó vào mọi nhà, mọi gia
đình, vậy mà những người nông dân như mẹ con Tràng vẫn tin ở sự sống, ở
tương lai : "ai giàu ba họ, ai khó ba đời", bà cụ Tứ cứ tin vu vơ như thế. Thực
ra chỉ có những người sống hết mình với cuộc sống mới có được niềm tin như
thế. Người nông dân từ nghìn xưa, dù phải sống triền miên trong nghèo đói,
vẫn có niềm tin kì diệu. Niềm tin đó thể hiện ở những thần thoại, cổ tích,
truyện cười, tuồng, chèo, ở ca dao, tục ngữ, v.v. Vì miếng cơm manh áo, họ
buộc phải sống gắn bó với cuộc sống, với cộng đồng, sống quyết liệt, sống
hết mình nên mới có được niềm tin dai dẳng và kì diệu ấy.
18
5. Tạo không khí của truyện
Cần chú ý đến việc dùng chi tiết của tác giả. Chẳng hạn không khí nông thôn
trong nạn đói được tạo nên bởi những chi tiết như tiếng hờ khóc, mùi khói
đống rấm, mùi ẩm thối của rác rưởi và xác người, những người đói đi lại dật
dờ như những cái bóng, v.v. Buổi sáng sau ngày Tràng có vợ, tác giả lại tạo
ra một không khí tươi vui, hồ hởi ở gia đình mẹ con Tràng bằng những hoạt
động hăng hái, xăm xắn của mọi thành.
**
***
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim - một
nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một
lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy.Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt
tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn
trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn
Vợ Nhặt ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của
mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ
đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân

nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ Nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện
rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân
đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.
Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói “Khi viết về nạn đói người ta
thường viết về sự khốn cùng và bi thảm.Khi viết về con người năm đói người
ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một
truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn
hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại.Họ vẫn muốn
sống, sống cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc
sống về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách
dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng
phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn
ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng,
nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm
hải ,thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bón
ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không
gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai,
những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và
nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ
được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc
của Nhật ở cuối thiên truyện.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt
vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ
nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn
19
nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo
bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau,
dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ra rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau
khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân
vật anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người
lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác
rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm
thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước
nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của
người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một
con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch
và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. “Cái đói đã tràn vào
xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh
không biết cuọc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay
cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình.
Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con
người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân
thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm
ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù
vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy
khong hề mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu
mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng
đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải
nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu
thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng
ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng
ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người
chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như
một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn
tay vuốt nhẹ sống lưng”.Tình yêu , hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng
dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những
tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ
nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn
hâu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng

khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh
Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người
chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét
tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm múôn một cảnh gia đình hạnh phúc.
“Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấymình có trách
nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa.
Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là
sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy
đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ
thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đsoi và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số
phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn
tin thế.
20
Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người . Đêm tố íây rồi
sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng cuộc sống tự dong đang ở phía trước sức mạn
của thời đại. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại hạnh phúc, niềm tin ấy
trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt làm thay đổi cuộc sống của xóm
ngụ cư nghèo nèn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối
của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lọn đến cô vợ
hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như
thế? Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo khôgn Tràng về
chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào cảu Tràng nhưng
chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội
thực dân phong kếin đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện
không tên tủoi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”,
điệu bộ trông thật thảm ahị nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho
Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình.
Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con
người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào
tương lai. Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho

tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng
thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng
nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người,
niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và
thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc ,
vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim
Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng : tình cảm, ước vọng ở
cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật
này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp m iêu tả tâm lý nhân vật. BÀ cụ Tứ đến giữa câu
chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không
có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tức vào trong tác phẩm, Kim Lân
đã cho chúng ta tấhy rõ hơn ánh sáng cảu tình người trong nạn đói. Bao giờ
cũng thế, các nhà văn múôn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt
nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đso dĩ nhiên phải có sự đấu tranh
không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong
chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. BÀ cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy
vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức ngươờ mẹ nghèo vốn thương
con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiệ cua rmột người đàn bà
trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ
ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất
chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm
vui nỗi buồn cứ hoà lâẫ vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu
hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng
đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta
mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã
nói , chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi , chúng mày
đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang
ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ
21

nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong
lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con,
thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo,
nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình
người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong
tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở ngươờ
mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng
cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh,
bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến
việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão
nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm ahị. Bà đã đón nhận
hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt chi tiết nồi cám ở
cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám
nghẹn * cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất
chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè
khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm
gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta,
một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một
sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.
Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ
đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình
người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất
chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách
mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật
:Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ
chính là những điếm áng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể
hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và
dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác
phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân

thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào
cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có
đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đsoi nói riêng một
quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn
mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
(Sưu tầm)
Về truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân
MỘT VÀI ĐIỂM ĐÁNG CHÚ Ý VỀ NHAN ĐỀ VÀ TÌNH HUỐNG TRUYỆN
TRONG TRUYỆN NGẮN "VỢ NHẶT" CỦA KIM LÂN
1/ Nhan đề truyện:
Truyện hấp dẫn, cuốn hút người đọc ngay từ đầu bởi một nhan đề rất lạ:
22
“Vợ nhặt”.Nhà văn ở đây không đặt là “Nhặt vợ” mà đặt là “Vợ nhặt”?
+ “Nhặt vợ”: còn có cái gì đó là chủ động, có tính toán của Tràng.
+ “Vợ nhặt”:là một sự bị động, thậm chí là được vợ theo.
Trong một lần trả lời phỏng vấn, chính Kim Lân đã hào hứng giải thích:
“Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi
cái chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, giá trị
của một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ
mấy bát bánh đúc ngoài chợ- đúng là “nhặt” được vợ như tôi nói trong
truyện”.
2/ Tình huống truyện độc đáo:
Sáng tạo tình huống truyện là vấn đề then chốt của nghệ thuật viết truyện
ngắn. Nó khẳng định tài năng cũng như phong cách của nhà văn.
* Tình huống truyện:
Tình huống truyện là diễn biến của sự việc, sự phức tạp của tình tiết; là cái
éo le, nghịch lí ở đời. Sự việc, câu chuyện "xảy ra như thế mà ta cứ ngỡ
không phải thế”.tình huống càng lạ bao nhiêu thì truyện càng hay, hấp dẫn
bấy nhiêu.
* Tình huống truyện độc đáo trong “Vợ nhặt”:

Đó là việc Tràng “nhặt” được vợ- một tình huống đầy kịch tính, xưa nay chưa
từng có; vừa lạ lại vừa éo le:
- Lạ:
+ Người như Tràng mà lấy được vợ, thậm chí lại có vợ theo. Tràng:
• Xấu xí
• Tính cách có phần hơi dở hơi
• Nghèo, dân ngụ cư
→ Hội tụ đầy đủ những yếu tố để Tràng khó, thậm chí không lấy được vợ.
+ Giữa lúc đói khát, nuôi thân còn chẳng xong vậy mà Tràng lại dám “đèo
bòng”, “rước cái của nợ đời ấy về”.
+ Tràng lấy vợ, nhặt được vợ cũng chỉ qua hai lần gặp tình cờ, chỉ với mấy
câu nửa đùa nửa thật vậy mà người đàn bà đã theo Tràng về.→ Cái công việc
mà xưa nay người ta vẫn cho là khó lại vô cùng tình cờ, dễ dàng đối với
23
Tràng.
- Éo le:
+ Tràng lấy vợ- hưởng cái hạnh phúc lớn nhất của một dời người giữa cảnh
“tối sầm lại vì đói khát”, giữa cái lúc mà cái chết và sự sống ranh gới mong
manh, tưởng như âm- dương không có sự cách biệt→ Chen vào hạnh phúc là
nỗi lo chạy trốn cái đói, nỗi lo níu kéo sự sống.
+ Duyên cớ để đưa họ đến với nhau cũng thật buồn lòng: đó là cái đói.Ở đây,
mấy bát bánh đúc thay cho trầu cau dẫn cưới. Nếu không vì cái đói đưa đẩy
thì Tràng cũng khó lòng lấy được vợ.→ Sự thật đáng buồn.
* Phản ứng của mọi người trước sự kiện độc nhất vô nhị này:
- Những người dân trong xóm ngụ cư:
+ “Người trong xóm lạ lắm”, họ “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn
tán”→ Ngạc nhiên tột độ.
+ Sự kiện lạ lùng ấy đem đến một “cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc
sống đói khát, tăm tối” của họ, làm những khuôn mặt “hốc hác, u tối” bỗng
dưng “rạng rỡ hẳn lên”.

+ Họ “cười rung rúc”.
+ Rồi có ngưới thở dài.
+ Tất cả cùng “nín lặng” khi có người nói “ Giời đất này còn rước cái của nợ
đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”
- Bản thân Tràng:
+ Mọi chuyên nhanh chóng quá đến mức chính Tràng – người trong cuộc
cũng cảm thấy ngạc nhiên. Khi đã đưa người vợ nhặt về nhà, nhìn thị ngồi
giữa nhà mà Tràng “vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế”
- Bà cụ Tứ- mẹ Tràng:
+ Vô cùng ngạc nhiên trươc thái độ vồn vã, khác thường của đứa con trai, bà
“hấp háy hay con mắt nhìn Tràng” rồi băn khoăn hỏi Tràng “có việc gì thế
vây?”
+ Ngạc nhiên hơn nữa khi nhìn thấy người đàn bà trong nhà:
● Bà “đứng sững lại”→ Quá đỗi ngạc nhiên.
● Trong đầu bà cụ hiện lên một loạt những câu hỏi : “Quái sao lại có người
24
đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “sao lại chào mình bằn u?”….→ Băn khoăn, ngạc
nhiên.
+ Khi đã hiểu rõ cơ sự bà lão “cúi đầu nín lặng”, thương xót cho số kiếp đứa
con mình.
+ Tủi thân, xót xa vì chưa làm tròn bổn phận làm cha mẹ “người ta dựng vợ
gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ
cái mở mặt sau này, còn mình thì ”→ Độc thoại nội tâm thể hiện tâm lí nhân
vật.
+ Sau đó là “mừng lòng”,chấp nhận con dâu, khuyên nhủ các con đầy lạc
quan…
* Ý nghĩa của tình huống truyện độc đáo này:
- Tình huống truyện là yếu tố để làm nổi bật chủ đề tác phẩm đồng thời tạo
điều kiện cho nhà văn miêu tả tâm lí nhân vật.
- Nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng nên một tình huống

truyện độc đáo. Tình huống ấy vừa phần nào nói lên tình cảnh thê thảm của
người dân; vừa thể hiện sự xót xa trước thân phận của những người dân
nghèo.
→Đây là tình huống vừa mừng vừa tủi, vừa vui vừa lo→ Tình huống hi hữu,
có một không hai.
(sưu tầm)
Tìm hiểu truyện "Vợ nhặt" của Kim Lân
Tác giả
Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920. Quê quán: Phù Lưu, Từ
Sơn, Hà Bắc. Sở trường về truyện ngắn. Thế giới nghệ thuật của ông là xóm
làng quê với người dân cày Việt Nam. Viết rất hay về những thú chơi dân dã
đồng quê như chọi gà, thả diều, nuôi bồ câu, chơi núi non bộ,… mà ông gọi là
thú “phong lưu đồng ruộng”.
Tác phẩm, 2 tập truyện ngắn: “Nên vợ nên chồng” (1955) và “Con chó xấu
xí” (1962).
Xuất xứ
“Vợ nhặt” có tiền thân là truyện “Xóm ngụ cư” - viết ngay sau Cách mạng
tháng Tám. Bản thảo chưa in, 1954 viết lại.
Chủ đề
25

×