Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Bình giang bai sang thu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.36 KB, 10 trang )

TT&VH) - “Cuối bài thơ tôi đề là “Thu 1977”. Đây là chìa khóa của bài
thơ mà rất nhiều người giảng về bài thơ này không hiểu hoặc không
chú ý”- nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, tác giả
của bài thơ “Sang thu” trong SGK lớp 9
tâm sự. Nếu như họ lưu ý đến chữ “Thu
1977” thì sẽ hiểu được rằng đây là một
trong những mùa Thu đầu tiên của người
lính vừa bước ra khỏi chiến tranh và sự
bình yên quý giá biết chừng nào
Nhà thơ trầm ngâm kể về thời khắc ông đặt
bút viết bài thơ. Năm 1977, ông tham gia trại
viết văn quân đội ở một làng ngoại ô Hà Nội
(nay là Khương Hạ, Thanh Xuân, Hà Nội). Đất
nước ta lúc này vừa trải qua chiến tranh, cuộc
sống thanh bình đã trở lại. Trong cái mơ hồ
phảng phất gió thu và lá thu đang ngả màu,
nhà thơ đã trèo lên cây ổi chín vàng trong cả
một vườn ổi bạt ngàn ở nơi này. Không có gì
đặc hơn, sánh hơn cái màu, cái mùi ổi chín
vàng nhuốm trong cái nắng vàng của mùa Thu Không gian cao vút, sâu
thăm, yên tĩnh.
Bài thơ bật lên từ đó, ngay khi nhà thơ còn ngồi trên cây ổi, những vần thơ
được “được làm trong đầu” chứ chưa đụng chạm gì đến giấy bút. “Bài thơ
hình thành rất nhanh và chính tôi cũng lấy rất làm tâm đắc nên thuộc lòng
rồi “nhâm nhi” đọc suốt buổi không chán ”.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”.
Nhà thơ đã đến với mùa Thu bằng cách ấy, bằng “hương ổi trong gió se”
chứ không phải là bằng hình ảnh quen thuộc như vòm trời cao xanh, heo
may phảng phất, hương cốm Giải thích cho sự “khác thường” này, nhà
thơ Hữu Thỉnh cho biết: “Mùa Thu biểu hiện rất nhiều hình ảnh khi chuyển


mùa. Và tất cả những hình ảnh đẹp cũng đã được các nhà thơ cổ khai
thác hết cả rồi. Tôi không muốn lặp lại nữa nên giữa trời đất mênh mang,
giữa cái khoảng khắc giao mùa kỳ lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay
động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là
với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu
thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con
Sang thu
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua
ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
(Thu, 1977 )
đò lững lờ trôi, những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ
ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông Nó giống như mùi bờ bãi, mùi con
trẻ Hương ổi tự nó xộc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm
hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành
chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một
thế hệ ”.
Gửi gắm nhiều điều sâu lắng
“Bài thơ không chỉ báo cho người đọc biết thu đã trở trong cảnh sắc thiên
nhiên mà còn ngay trong cuộc sống của con người, trong tâm hồn tôi và

chắc với rất nhiều người yêu thu “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình
sang thu”. Hai câu thơ này không hẳn nói về hiện tượng giao mùa như một
số người hiểu và phân tích. Khi tôi viết bài thơ này tôi đã liên tưởng đến
những đám mây mùa Hạ. Đó là những đám mây tràn trọn vẹn vào mùa
Thu. Thế nhưng có gì ngăn cảm xúc của tôi lại theo chiều hướng đấy
Mây mùa Hạ thường chứa nhiều màu sắc, thậm chí đầy giông bão tựa hồ
những ước mơ khao khát của tuổi trẻ. Những ước mơ khao khát ấy
thường lấy đi rất nhiều sức lực của tuổi trẻ. Tuy nhiên giữa mơ và thực là
hai thế giới luôn đối lập nhau và chẳng phải ước mơ nào cũng trở thành
hiện thực.

Ðó giống như là một chân lý và con người phải biết ý thức được một điều
rằng không thể đạt được hết những ước vọng tốt đẹp của mình, nhất là
những ước vọng đó lại được sinh ra ở thời tuổi trẻ. Sự dang dở, sự mất
mát là một hiện thực chúng ta buộc phải chấp nhận trong cuộc sống của
mình. Ngay cả người lính cũng vậy. Rất nhiều đồng đội của tôi đã nằm lại
ở tuổi còn rất trẻ ở ngưỡng mùa đẹp nhất của cuộc đời. Vì thế nên đám
mây trong thơ ấy chỉ “vắt nửa mình sang Thu” thôi. Nửa còn lại đã trở
thành ký ức”. Hai câu cuối cùng: Sấm cũng bớt bất ngờ/ Trên hàng cây
đứng tuổi . Chủ thể bài thơ và cái kiêu hùng của mùa Thu đã toát lên chính
là ở hai câu thơ này. Đó là cốt cách của một người lính không chỉ là trong
một buổi chiều mùa Thu mà là một buổi chiều hòa bình. Có thể nó có vẻ
ngang tàng “sấm cũng bớt bất ngờ” nhưng lại mang một vẻ đẹp dịu dàng,
sâu lắng của mùa thu hòa bình. Ở đây hàng cây đứng tuổi chính là chủ thể
trữ tình trong bài thơ đã trải qua bao nhiêu gian nan vất vả, giờ đã vươn
lên và không gì làm chúng run rẩy.
Nhiều người bỏ qua “chìa khóa” của bài thơ
Có một chi tiết mà các cô giáo và thầy giáo khi giảng về bài thơ Sang thu
làm người sáng tác ra nó không hài lòng. Nhà thơ Hữu Thỉnh tâm sự:
“Cuối bài thơ tôi đề là “Thu 1977”. Đây là chìa khóa của bài thơ mà rất

nhiều người giảng về bài thơ này không hiểu hoặc không chú ý. Nếu chú ý
thì sẽ hiểu thêm được rằng đây là một trong những mùa Thu đầu tiên của
người lính vừa bước ra khỏi chiến tranh. Nếu như họ là lính trong thời
chiến họ mới hiểu được rằng đôi lúc chúng tôi đã rất mong trên đầu không
có tiếng máy bay dù chỉ để được đi tắm giặt, đi hái rau hoặc tranh thủ đọc
vài trang sách, mà cũng không có. Suốt ngày người lính trong thời chiến
phải đối diện với tiếng súng nổ, tiếng bom rơi và tiếng động cơ phản lực
Chính vì vậy mà có lúc nào đó không phải nghe những âm thanh ấy thì
quả là quý giá vô cùng”.
Ông bày tỏ quan điểm: “Giảng văn thơ không nên chỉ phân tích trên văn
bản, câu chữ mà hãy tìm hiểu sâu hơn cái tác giả muốn gửi gắm. Nó có
thể nằm ngay trên tựa đề bài thơ, câu đề từ, lời ghi chú, ngày tháng hay
một lời đề tặng.
43
Thanked 27 Times in 12 Posts
Sang thu của Hữu Thỉnh
Mùa thu quả nhiên là mùa nhạy cảm bậc nhất trong năm. Con
người cùng Tạo vật thảy đều nhạy cảm. Tuy nhiên, cái thời điểm
mà sự nhạy cảm của hồn tạo vật luôn thách thức với sự nhạy cảm
của hồn người vẫn là thời khắc giao mùa - chớm thu. Các kênh
cảm giác và cả tâm cảm nữa của mỗi hồn thơ dường như đều
được huy động tối đa để nắm bắt những làn sóng, những tín hiệu
mơ hồ nhất từ những giao chuyển âm thầm trong vạn vật.
Chả thế mà, bao đời nay luôn có sự đua ganh giữa hồn thơ với
hồn tạo vật. Cho nên, tôi sẽ không nấn ná làm cái việc rút tỉa
những thi ảnh và thi tứ tiêu biểu về thời điểm nhạy cảm ấy của
thơ ca các thời, nghĩa là không tái hiện lại một truyền thống, một
tiền đề nữa. Mà cùng Hữu Thỉnh, bước ngay… Sang thu
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se

Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi
Thu, 1977
Tôi mừng cho Hữu Thỉnh và bài thơ, nó vừa giành được một chỗ
xứng đáng trong chương trình Văn và Tiếng Việt của nhà trường.
Kể từ nay, hương ổi của thi phẩm sẽ phả vào tâm hồn của nhiều
thế hệ học trò, sẽ được những tâm hồn ấy mang tới bao nẻo thu,
đến cả những miền chưa từng có mùa thu nữa.
1. Từ cấu trúc …
Trước tiên, thử đi vào cấu trúc của thi phẩm.
Đọc kĩ hơn thì thấy rằng: cùng viết về thiên nhiên lúc giao mùa,
nhưng mỗi khổ thơ vẫn nghiêng về một ý. Về cảnh vật, khổ một
nghiêng về những tín hiệu mách bảo sự hiện diện đây đó của mùa
thu, từ góc nhìn vườn ngõ : Bỗng nhận ra hương ổi /Phả vào
trong gió se /Sương chùng chình qua ngõ /Hình như thu đã về.
Khổ hai lại nghiêng về những cảnh sắc trời mây sông nước đang
chuyển mình sang thu, với tầm nhìn rộng xa vào bầu trời mặt đất
: Sông được lúc dềnh dàng / Chim bắt đầu vội vã/Có đám mây
mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu. Trong khi đó, khổ ba lại nghiêng
về những biến đổi bên trong các hiện tượng thiên nhiên và tạo
vật : Vẫn còn bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa/Sấm cũng bớt
bất ngờ/Trên hàng cây đứng tuổi. Như vậy, ba khổ thơ đã được

liên kết thành một chỉnh thể nhuần nhị nhờ vào một trật tự khá
tự nhiên : từ gần đến xa, từ thấp đến cao, từ hẹp đến rộng, từ
ngoài vào trong, với các lớp cảnh càng ngày càng đi vào chiều
sâu… Một trật tự hợp lí tự nhiên bao giờ cũng là điều sinh tử để
một sản phẩm nghệ thuật hiện ra như một sinh thể !
Nhưng, cả người khờ khạo nhất cũng phải thấy rằng : thơ thiên
nhiên không đơn thuần chỉ có cảnh. Cùng với cảnh, bao giờ cũng
là tình, dù đậm hay nhạt, dù kín hay lộ. Tình trong cảnh, cảnh
trong tình. Cho nên, đồng hành với mạch cảnh sắc trên đây, là
tâm tư của thi sĩ. Cụ thể là mạch cảm nghĩ trước mùa thu. Sự đan
xen các mạch này là một khía cạnh phức tạp không thể thiếu của
cấu trúc. Sau một thoáng ngỡ ngàng ở khổ một (… Hình như thu
đã về), là đến niềm say sưa ở khổ hai (…Có đám mây mùa hạ/
Vắt nửa mình sang thu), và kết lại ở khổ ba với vẻ trầm ngâm(…
Sấm cũng bớt bất ngờ / trên hàng cây đứng tuổi). Không chỉ có
thế. Tương ứng với những cung bậc của mạch cảm, là các cấp độ
của mạch nghĩ. Khổ đầu : bất giác, khổ hai : tri giác, khổ ba : suy
ngẫm. Mạch cảm và mạch nghĩ bao giờ cũng song hành và
chuyển hoá sang nhau trong cùng một dòng tâm tư . Chúng đan
bện với nhau khiến cấu trúc nghệ thuật càng tinh vi phức tạp. Rõ
ràng, từ khổ một đến khổ ba, thi phẩm là sự đồng hành và hoá
thân vào nhau của ba mạch nội dung vừa rõ nét vừa sống động.
Thế đấy, cấu trúc của thi phẩm này, bề ngoài, có vẻ “dính”,
nhưng bề sâu, đâu phải là thiếu rành mạch. Trái lại là đằng khác
ấy chứ ! Rõ ràng, qua phân tích trên đây cũng đủ thấy rằng : một
tiếng thơ dù bình dị hồn nhiên thế nào đi nữa, vẫn là một kiến
trúc ngôn từ với một cấu trúc thật tinh vi.
2. … đến điệu tâm hồn
Cảm nhận tạo vật lúc sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ
biến suy một chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh thu

thường hiện lên qua vẻ tiêu sơ. Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá
tinh tế của một thi sĩ đương thời : Mướp tàn sen cũng đi tu / Lá
tre đã thả một mùa heo may / Con sông không ốm mà gầy / Mắt
em chưa tối đã đầy hoàng hôn. Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác,
không đơn tuyến. Tôi cho rằng, một trong những nét đặc sắc của
bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ phản trái
nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu. Tạm đặt
tên là nhịp mạnh và nhịp nhẹ. Nhịp mạnh bao gồm những động
thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…) : hương ổi phả -
chim vội vã - vẫn còn bao nhiêu nắng… Nhịp nhẹ thì nghiêng về
âm tính (êm, chậm, ít…) : sương chùng chình, sông dềnh dàng,
mưa vơi dần… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả” vào trong gió
se, thì cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính
lúc sông “dềnh dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi nắng “còn” cũng là
khi mưa “vơi”. Đừng nghĩ thi sĩ cố ý đặt bày hai mạch tương phản
nhằm chơi trò lạ hoá. Nó chính là hiện tượng trái chiều mà cùng
hướng ta vẫn thường thấy trong mỗi cuộc đổi thay. Chẳng phải
thế sao ? Chẳng phải bao mạch sống đang cần mẫn chuyển lưu
trong lòng tạo vật làm nên cõi sống trường cửu này vốn vẫn
tương sinh tương khắc như vậy sao ? Và chẳng phải những vận
động trái chiều mà cùng hướng vẫn thường đem đến cho sự sống
thế quân bình ngay trong lòng mỗi nhịp biến thiên hay sao ? Cho
nên, thật thú vị mà cũng thật hiển nhiên là hai nhịp mạnh - nhẹ
với hệ thống hưng - suy, tiêu - trưởng kia lại đan dệt trong nhau
khá nhuần nhuyễn tạo nên cái bản giao hưởng gợi cảm của đất
trời thu. Có thể xem đó là nét phức điệu trong cảm nhận ngoại
giới của hồn thơ Hữu Thỉnh. Toàn cảnh thu trong bước chuyển
mùa, nhờ lối cảm ấy, đã hiện ra không chỉ có biến thiên, mà đây
đó còn cả thế quân bình. Luôn thấy được thế quân bình ngay giữa
những biến thiên thì ít bất ngờ chao đảo. Trong thiên nhiên đã

vậy. Trong cuộc đời cũng thế. Và, tôi ngờ rằng cảm quan quân
bình về đời sống đã ngấm ngầm xui thi sĩ tìm đến cái kết điềm
tĩnh trước ba động, giấu cương sau nhu này :
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi ?
Nói đến câu kết kia, không thể không thêm vài lời về cách lập tứ
dẫn tới kết. Nó rõ nhất ở khổ ba : Vẫn còn bao nhiêu nắng /Đã
vơi dần cơn mưa /Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng
tuổi. Để ý một chút, sẽ thấy rằng đến đây, tâm thế thi sĩ không
còn ngỡ ngàng bất giác như khổ một, say sưa tri giác như khổ
hai, mà lòng đã nặng hơn, đã ra chiều trầm ngâm với suy ngẫm
rồi. Lớp từ mang sắc thái đong đếm ở đây mách với ta điều đó.
Hệ thống các từ còn (-hết), vơi (-đầy), bớt (-thêm) bảo rằng thi sĩ
đang suy xét, đúc kết, chiêm nghiệm. Chiêm nghiệm điều gì ? Về
một lẽ đời trong hai chiều biến đổi trái nhau. Ba câu trên : nắng
“vẫn còn”, tức là đã giảm ; mưa “vơi dần” rõ là giảm ; sấm “bớt
bất ngờ” càng giảm. Cả ba nghiêng về chiều giảm. Nhưng, khi
câu ba nối vào câu kết, thì chiều giảm đột ngột thành chiều tăng,
một chiều tăng kín đáo : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây
đứng tuổi. Ấy là sự từng trải tăng lên, là cây đã trưởng thành.
Nhờ lối viết nén, mấy chữ “bớt bất ngờ” như một nút buộc, câu
thơ bỗng có “cú pháp dính”, lời thơ súc tích hẳn nhờ các làn nghĩa
giao nhập ràng néo nhau : sấm bớt gây bất ngờ (sấm đã e cây),
hay cây bớt bị bất ngờ (cây thôi e sấm)? Có lẽ là cả hai, nhưng
xem chừng, cái vế sau mới là chốt hạ. Nhờ ngữ pháp ấy mà cái ý
cương kia liền được giấu kín nhẹm, thậm chí được nhu hoá. Có
thể nói, đây là lối kết theo kiểu “đảo phách”. Một cú đảo phách
ngoạn mục. Bởi đảo mà cứ như không.
*
Sang thu là bài thơ tinh tế. Điều này khỏi bàn thêm. Chẳng thế

mà các chi tiết gợi cảm của thi phẩm đã cuốn hút nhiều người yêu
thơ. Nào những hương ổi phả vào trong gió se, nào sương chùng
chình qua ngõ, rồi thì sông được lúc dềnh dàng… xem ra, thi ảnh
nào cũng tài hoa. Mà ấn tượng nhất hẳn phải là cảnh tượng Có
đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu. Làm xác định cái không
xác định, khiến cái vô hình thành hữu hình, làm định dạng cái vốn
mơ hồ, là lối viết đâu có gì lạ về thi pháp. Thế mà thi ảnh lại mới,
hình sắc lại gợi. Đám mây thực thế mà ảo thế ! Cái cách “vắt nửa
mình” kia sao mà thi vị ! Có thật chăng một đám mây vốn của
mùa hè đang mải mê lấn sân sang mùa thu ? Có mà không có,
thật mà không thật. Cứ y như giữa mùa thu và mùa hè vẫn có
một lằn ranh làm bằng sợi dây vô hình giăng ra giữa thinh không,
khiến đám mây yêu kiều và đỏng đảnh kia có thể vắt nửa mình
qua đó mà khoe sắc phô duyên vậy !
Mà đâu chỉ trong quan sát, ở thi phẩm này, Hữu Thỉnh còn tỏ ra
tinh hơn nữa trong sự đồng điệu với nhịp chuyển mùa. Những
hiện tượng riêng lẻ thì gồm cả hai hệ thống tín hiệu trái chiều, có
chậm có nhanh. Nhưng cái nhịp luân chuyển chung chi phối vạn
vật thì bao giờ cũng khẩn trương và mau lẹ. Nhịp luân chuyển ấy
dường như đã nhập vào mấy chữ tưởng rất không đâu mà lại thần
tình này: Sông được lúc dềnh dàng/Chim bắt đầu vội vã ; Vẫn còn
bao nhiêu nắng/Đã vơi dần cơn mưa”. Mấy chữ ấy đi với nhau
thành cặp, hô ứng và tiếp ứng nhau làm hiển thị cái nhịp luân
chuyển trong tạo vật vốn mải mê mà vô hình.
Người đọc cũng dễ say với những nét tài hoa trong việc sử dụng
nhuần nhuyễn yếu tố cổ điển của thi sĩ. Đọc Hữu Thỉnh, có một
chất rất dễ nhận : dân gian. Còn có một chất khác, luôn cặp kè,
mà xem ra lại khó thấy : Đường thi. Sao lại cặp kè ? Thì một
trong những chiêu rất Hữu Thỉnh chẳng phải là chế tác thi liệu
dân gian bằng thi pháp Đường ư ? Cố nhiên, anh không chỉ có

chiêu này. Ở Sang Thu, cái súc tích Đường thi kết hợp với chất
hồn nhiên thơ trẻ cứ loáng thoáng đâu đó trong cách nhìn tạo vật,
trong cách kiệm lời, mà hiển lộ nhất là ở phép đối ngẫu được
dùng khá nhuyễn : Sông được lúc dềnh dàng-Chim bắt đầu vội vã
; Vẫn còn bao nhiêu nắng-Đã vơi dần cơn mưa. Có lẽ khi đọc các
cặp ấy, tâm trí ta bị trôi theo lời thơ bình đạm, ít ai để ý đến nghệ
thuật tổ chức, chỉ lúc chợt ngoái lại, thì mới vỡ lẽ: ồ, ra là phép
đối ! Thế là nhuyễn, là tinh chứ sao !
Tuy nhiên, đó vẫn là những tinh tế tiểu tiết và dễ viết.
Đôi khi quá chú mục vào cái tinh tế trong tiểu tiết có thể quên sự
tinh vi trong đại cục. Tôi muốn nói đến điều khác : ý tưởng bao
trùm. Nó mới là nét tinh vi thuộc về đại cục. Ý tưởng Sang thu
được gói kín vào thi tứ. Một thi tứ đa tầng khiến hình tượng thơ
thành đa nghĩa. Nhờ đó, thi phẩm nhỏ đã mang thi tứ lớn.
Sang thu đa nghĩa, vì ít nhất, có sự chất chồng và giao thoa của
ba lớp nghĩa : trời đất sang thu, đời sống sang thu và đời người
sang thu. Lớp nghĩa thứ nhất dễ thấy. Vì nó ở bề nổi của văn bản
thơ. Nó khiến bài thơ như một bức tranh thiên nhiên. Không. Có
lẽ như những thước phim về cảnh vật thiên nhiên thì phải hơn.
Tranh thì tĩnh, phim mới động. Sự mẫn cảm của tâm hồn thi sĩ đã
được dịp phô diễn qua những thi ảnh giàu mỹ cảm trong việc nắm
bắt bao vận động, chuyển động, biến động âm thầm và sâu kín
của thiên nhiên. Nhưng, nếu chỉ thế thôi, Sang thu cũng mới là
thơ tạo vật. Hữu Thỉnh chưa đem đến cái gì mới hơn so với các
tiếng thơ thuộc thi đề thu của những người đi trước. Đồng thời,
cũng chưa phổ được vào đó hơi thở của thời mình, tinh thần của
thế hệ mình.
Hai lớp nghĩa sau mới thật là thứ hương ổi riêng mà Hữu Thỉnh
phả vào trong thi đề này. Tất nhiên, những hàm ý kín đáo kia
toát lên trước hết từ nghĩa bóng đây đó của các thi ảnh. Ai cũng

có thể thấy những ẩn ý nào đó thấp thoáng sau lối viết ẩn dụ
trong các thi ảnh rải rác ngay từ đầu sương chùng chình, sông
dềnh dàng, chim vội vã v.v… Nhưng nếu chỉ có thế thì ý nghĩa của
chúng còn lờ mờ, chưa xa gì hơn một lối nói sinh động về sự vật,
chưa đủ tạo hẳn ra một lớp nghĩa khác cho văn bản. Lớp nghĩa
kia chỉ thực sự bật hầm khi hình ảnh cuối cùng đột hiện : Sấm
cũng bớt bất ngờ / Trên hàng cây đứng tuổi. Chữ “đứng tuổi” bật
sáng, phát động một lớp nghĩa khác cho bài thơ. Nó đâu chỉ nói
cây, mà còn nói người. Nhân hoá cây là bề nổi, giấu người vào
cây là bề sâu. Tự dưng, chúng ta thấy từ mạch hình ảnh thiên
nhiên rải khắp bài thơ bỗng bừng dậy một lớp nghĩa khác gắn với
con người và cuộc đời.
Có thể thấy rõ hơn nữa, khi nhìn trong tương quan khác.
Cảm thụ nghệ thuật, căn cứ quan trọng nhất là văn bản. Nhưng,
chỉ bó hẹp trong văn bản không thôi, dễ làm nghèo nghệ thuật.
Trong thực tế, thông điệp nghệ thuật của một tác phẩm không chỉ
cất lên từ những gì thuộc nội bộ văn bản, mà còn vang lên cả từ
tương quan giữa văn bản với những thứ bên ngoài vốn thiết thân
với nó nữa. Ví như hoàn cảnh sáng tác . Tác giả cho biết thời
điểm viết Sang thu là mùa thu 1977, ở nhiều lần in cũng ghi rõ
như vậy. Điều này ngẫu nhiên chăng ? vô nghĩa chăng ? Không
hẳn. Bấy giờ, cuộc sống vừa qua khỏi thời chiến đầy khốc liệt
đang chuyển sang thời bình êm ả. Nghĩa là, đời sống cũng vừa
sang thu. Đây là lúc trong lòng đời có bao trăn trở xao động. Nhìn
bài thơ trong tương quan với thời điểm ấy, tự dưng chúng ta thấy
các hình ảnh đó đây nhấp nháy lên những nghĩa khác : nghĩa thế
sự. Đặc biệt từ khổ hai trở đi. Nếu ở khổ đầu, thơ còn nặng về tạo
vật, thì từ khổ thứ hai đã bảng lảng cái bóng đời. Hèn chi, cùng
diễn tả nhịp vận động chầm chậm, nhưng Sương chùng chình qua
ngõ thật khác với Sông được lúc dềnh dàng. “Chùng chình” còn dễ

ưa, “dềnh dàng” đã khó ưa. “Dềnh dàng” đâu chỉ nói về nét riêng
của dòng chảy đã chậm hơn khi con sông vào thu. Dường như nó
còn ngầm tỏ thái độ về cái điệu sống của những đối tượng nào đó
hồi mùa hạ hăng hái xông pha là thế, giờ vào thu đã tự cho phép
mình được dềnh dàng, được xả hơi chăng ? Chả phải vô cớ mà thi
sĩ đem chữ “được lúc” gắn với cái thói “dềnh dàng” ấy của sông.
Cũng như thế, Chim bắt đầu vội vã có phải chỉ đơn thuần nói về
các loài chim lúc sang thu đang gấp gáp bay đi lánh rét không
thôi ? Xem ra, nó còn muốn nói tới đối tượng sống tuỳ thời, xu
thời nào đó nữa ấy chứ ? Đến khổ thứ ba, cái lớp nghĩa thế sự
bảng lảng này còn tỏ hơn nữa. Tôi ngờ rằng đây là khổ thơ mà
anh chàng thi sĩ cũng vừa trải qua một mùa hè bỏng rát đang kín
đáo nói về thế hệ mình và chính mình ? Vâng, tuy đã sang thu,
nhưng lòng vẫn còn bao nhiêu nắng. Đồng thời, bao tủi sầu yếu
đuối, bao cơn mưa thở than nay cũng đã vơi dần. Bước sang thu,
hàng cây trẻ hồi nào giờ đã đứng tuổi. Sự từng trải đã giúp cây
trưởng thành, đủ vững trãi đối đầu với mọi ba động, mọi cú giáng
của cuộc đời : Sấm cũng bớt bất ngờ /Trên hàng cây đứng tuổi.
Không có chữ “đứng tuổi” cứ như lạc hệ thống này, mọi suy cảm
trên sẽ thành võ đoán, lớp nghĩa thời sự vốn khuất mình không
thể phát sáng được. Không có nó, ý ngầm của kẻ viết vừa khó
phát lộ vừa khó gói ghém.
Một cái kết quá là khôn ngoan.
Thì ra, mùa thu đâu chỉ có chuyện tiêu sơ. Mùa thu còn là chuyện
trưởng thành. Mùa thu đâu chỉ có biến thiên. Mùa thu còn tàng ẩn
cả những quân bình tự tại nữa. Chẳng phải đó là những nét độc
đáo mà Hữu Thỉnh đã đem đến cho một thi đề tưởng đã quá ư
quen thuộc hay sao ?
Từ thơ tạo vật, Sang thu đã lẳng lặng thành thơ cuộc đời !

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×