Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Để giải bài toán huy động vốn? doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.57 KB, 8 trang )

Để giải bài toán huy động vốn?
Bạn có ý tưởng kinh doanh hay và bạn có thể biến ý tưởng kinh doanh của bạn
thành hiện thực qua việc thành lập công ty. Mới đầu tưởng như công việc này
không có gì khó khăn.
Tuy nhiên, khi tiến hành thành lập công ty có rất nhiều khó khăn, đặc biệt là vấn
đề về vốn góp và các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động góp vốn.
Vốn luôn là yếu tố quan trọng trong kinh doanh. Nếu bạn có những ý tưởng kinh
doanh hay nhưng không có vốn thì cũng rất khó biến ý tưởng kinh doanh thành
hiện thực. Do vậy, việc huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau sẽ rất cần thiết
nếu bạn muốn có những thành công trên thương trường. Thông thường, bạn sẽ
cùng một số người góp vốn hợp tác làm ăn. Có như thế bạn sẽ đỡ rủi ro hơn trong
hoạt động kinh doanh. Nguyên tắc cơ bản của việc góp vốn thành lập công ty là
nhất trí, không được rút vốn trực tiếp và thực hiện đầy đủ các trách nhiệm góp vốn
của mình. Quan hệ giữa bạn và các thành viên góp viên khác có vai trò đặc biệt
quan trọng. Công ty có phát triển bền vững hay không, trước hết cần cân bằng
trong quá trình góp vốn, chuyển nhượng vốn, chịu trách nhiệm khi có rủi ro và
hưởng lợi.
Nắm bắt những bài học kinh nghiệm điển hình:
Trên thực tế, trong quá trình góp vốn đã có rất nhiều tranh chấp xảy ra. Và điều
cần thiết là bạn cần giải quyết những vướng mắc này thế nào cho êm đẹp. Dưới
đây là một số tình huống trong số rất nhiều những vướng mắc của quá trình góp
vốn tại mỗi công ty nhưng nó là những tình huống điển hình và rất hay xảy ra.
Điều quan trọng là các thành viên góp vốn trong công ty cần tỉnh táo và xử lý
những vướng mắc phát sinh một cách hợp tình, hợp lý chứ không nên vì sự thua
thiệt lợi ích đôi chút mà để vướng mắc ngày càng khó giải quyết hơn.
Việc không dùng tiền mặt góp vốn
Công ty A đang chuẩn bị thành lập, trong đó có John, một thành viên góp vốn đã
đề nghị mình được góp vốn bằng giấy nhận nợ của một công ty khác. Giá trị giấy
nhận nợ này là 250.000 USD. Vấn đề ở đây là có nên để John góp vốn bằng giấy
nhận nợ hay không? Việc đánh giá tài sản góp vốn bằng giấy nhận nợ như thế nào,
nếu không đòi được thì giải quyết như thế nào?


Trong lĩnh vực tài chính của nhiều nước trên thế giới thì một khoản nợ được xem
là một tài sản của chủ nợ, giấy nhận nợ là chứng chỉ quyền tài sản. Nếu các thành
viên của A không phản đối thì việc góp vốn bằng giấy nhận nợ của John hoàn toàn
có thể chấp nhận được. Giấy ghi nhận nợ này sẽ là tài sản của A sau khi công ty
xác nhận việc chuyển nợ từ công ty nhận nợ của John sang cho mình.
Nhưng sau khi công ty A thành lập và đi vào hoạt động một năm thì công ty nhận
nợ của John phá sản và công ty A chỉ đòi được công ty này 150.000 USD. Do
thiếu tiền nên lúc này công ty A tính đến việc đòi John khoản tiền 100.000 USD
còn thiếu để bù vào.
Tuy nhiên, sau khi xem xét và cân nhắc, công ty A nhận thấy hành vi này của
mình là không đúng. Một số thành viên góp vốn trong ban quản trị công ty A lý
giải rằng việc mình không đòi hết số nợ từ công ty nhận nợ không làm phát sinh
trách nhiệm của John vì khoản nợ này đã được chuyển cho công ty A từ ngày mới
thành lập. Việc công ty nhận nợ lâm vào tình trạng phá sản sau khi công ty A hoạt
động được một năm là hoàn toàn độc lập với việc góp vốn của John. Khi các thành
viên trong công ty A thoả thuận chấp nhận khoản nợ là một phần vốn góp thì họ
phải biết rằng đã là khoản nợ thì có thể đòi được và cũng có thể không đòi được.
Trong quá trình hoạt động, công ty nhận nợ đã trả được 150.000 USD và công ty
A đã tiếp nhận số tiền này. Điều đó cho thấy công ty A đã là chủ nợ hợp pháp của
công ty nhận nợ đó. Và do vậy, phần vốn góp của John bằng giấy biên nhận nợ là
hoàn toàn hợp pháp, công ty A sẽ không có quyền buộc John phải nộp thêm số
tiền còn thiếu.
Việc định giá tài sản góp vốn
Peter góp vốn vào công ty B bằng một mảnh đất ở ngoại ô thành phố của mình.
Các thành viên công ty Peter nhất trí miếng đất của Peter trị giá 200.000 USD
(mặc dù hiện tại giá của nó chỉ là 90.000 USD) vì tin rằng với sự phát triển của
thành phố thì trong tương lai mảnh đất đó sẽ gần trung tâm hơn và do vậy giá trị
cũng sẽ cao.
Nhưng sự việc nào ai ngờ tới, đột nhiên thành phố quy hoạch khác đi, miếng đất
của Peter vẫn xa trung tâm và vẫn chỉ có giá trị là 90.000 USD. Lúc này, câu hỏi

đặt ra cho công ty B là vẫn chấp nhận cho Peter góp vốn với giá trị 200.000 USD
hay chỉ là 90.000 USD.
Thường thường khi góp vốn thì các nguyên tắc về tài chính của các quốc gia
thường quy định người định giá tài chính phải trung thực và chịu trách nhiệm về
tính chính xác đối với tài sản góp vốn. Trường hợp giá trị tài sản góp vốn được
định cao hơn giá trị thực tế của nó tại thời điểm góp vốn thì người góp vốn và
người định giá phải góp đủ số vốn như đã định.
Tại công ty B, các thành viên công ty đều thừa nhận việc định giá tài sản góp vốn
cao hơn giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn, do đó các thành viên của công ty B
buộc phải định giá lạ tài sản một cách trung thực so với thời điểm và tiến hành góp
thêm đủ số vốn 200.000 USD như đã ghi ban đầu. Số vốn góp thêm 110.000 USD
được các thành viên thoả thuận phân bố theo số tiền thực tế góp thêm để điều
chỉnh quyền sở hữu trong công ty. Việc các thành viên của công ty B cùng nhau
đóng góp thêm 110.000 USD là để bảo đảm lợi ích cho các chủ nợ và khách hàng.
Việc phân chia lợi nhuận
Mark cam kết sẽ góp 300.000 USD vốn bằng tiền mặt vào công ty C. Ngay tại thời
điểm thoả thuận, Mark đã nộp 100.000 USD, số tiền còn lại các thành viên của
công ty C đồng ý cho Mark góp tiếp khi công ty cần.Thoả thuận góp vốn của các
thành viên không ấn định cụ thể thời hạn Mark phải tiến hành góp đủ vốn, do vậy
tại thời điểm thành lập công ty cần được xem là thời hạn Mark phải hoàn thành
nghĩa vụ góp vốn. Sau một năm, công ty C kinh doanh có lãi, trong quá trình chia
lợi nhuận thì công ty chỉ chia lợi nhuận cho Mark theo tỷ lệ tương ứng với số tiền
100.000 USD mà Mark đã nộp chứ không phải số vốn là 300.000 USD như trong
thoả thuận góp vốn.
Mark đã phản đối việc làm này của công ty C bởi theo Mark thì tỷ lệ góp vón quy
định trong Công ty C là căn cứ xác lập tỷ lệ bỏ phiếu, tỷ lệ để chia lợi nhuận và
phân chia thiệt hại giữa các thành viên công ty. Vì vậy khi Mark đã cam kết góp
vốn 300.000 USD thì trách nhiệm của Mark đối với khoản nợ của công ty không
chỉ là số vốn đã góp mà là số vốn đã cam kết góp, hay nói cách khác là nếu công
ty C bị phá sản thì Mark cũng phải chịu rủi ro trên toàn bộ số vốn đã cam kết góp

là 300.000 USD chứ không phải 100.000 USD. Hơn nữa công ty C chưa có yêu
cầu chính thức bằng văn bản yêu cầu Mark phải góp đầy đủ số vốn này, nên chưa
có cơ sở để cho rằng Mark không thực hiện đúng trách nhiệm góp vốn. Trước
những lý lẽ của Mark, công ty C đã phải chia lợi nhuận cho Mark theo đúng tỷ lệ
số vốn đã cam kết góp là 300.000 USD.
Cách thức huy động vốn hiệu quả và đúng luật định:
Từ những bài học trên có thể thấy tầm quan trọng của việc huy động vốn. Pháp
luật mỗi nước đều có những điều chỉnh rất đa dạng và phong phú đối với hoạt
đông huy động vốn, tuỳ thuộc vào trình độ phát triển cũng như những đặc điểm
của thị trường mà pháp luật kinh doanh có những quy định khác nhau.
Trong luật của Pháp và một số nước Latinh, việc gọi vốn của công ty được quy
định ngay từ khi nó được thành lập. Pháp luật đề ra loại trách nhiệm hữu hạn nếu
gọi vốn riêng tư và cổ phần nếu gọi vốn công chúng. Ranh giới gọi vốn đã được
định. Muốn thay đổi phương thức huy động vốn phải đổi hình thức công ty. Luật
kinh doanh của Mỹ thì làm khác. Mỹ không định loại hình công ty lúc đầu mà để
cho công ty trong quá trình hoạt động sẽ chọn cách gọi vốn. Và từ cách gọi vốn đó
công ty có một loại hình. Nếu chọn cách gọi vốn riêng tư thì công ty không phải
đăng ký với Sở giao dịch chứng khoán và công ty sẽ là loại “Closely held
corporation”. Nếu gọi vốn của công chúng thì phải đăng ký và lúc đó nó là một
“Public corporation” đại chúng.
Thị trường chứng khoán luôn là nơi huy động vốn hiệu quả nhất trong các phương
thức huy động vốn. Tại đây, mục tiêu của đại đa số các công ty là huy động vốn
dài hạn, phục vụ các kế hoạch đầu tư lâu dài. Ở Mỹ và Anh, khi thành lập, ngay ở
Bản chứng thư lập hội (articles of association) những người sáng lập công ty ấn
định số vốn của công ty là bao nhiêu, chia ra bao nhiêu phần bằng nhau, gọi là cổ
phần. Khi cổ phần bán đi thì người mua nhận được biên nhận đã trả tiền gọi là cổ
phiếu và họ trở thành cổ đông.
Tính toán huy động vốn cách nào là việc giải bài toán vốn gọi được nhiều nhưng
chỉ chia quyền quản trị ít. Cổ đông có ba quyền là quản trị công ty, chia lợi nhuận
và sau này được chia tài sản còn lại. Bỏ tiền ra, chấp nhận lời ăn lỗ chịu, cổ đông

thường muốn được quản trị công ty. Trái lại người lập ra công ty lại không muốn
quyền quản trị của mình bị chia xẻ cho nhiều người.
Cổ phần là cách thức giải quyết vấn đề. Công ty bán cổ phần để gọi vốn, giống
như bán một viên kẹo. Ở mức phát triển thấp, công ty chỉ có kẹo làm theo hai
hình, vuông có đề tên người làm chủ và tròn không đề tên ai. Loại vuông không
được chuyển cho ai có tên khác, gọi là cổ phiếu ký danh; loại tròn chuyển cho ai
cũng được, cổ phiếu vô danh. Chuyển nhượng cổ phần dễ dàng cũng là một cách
thu hút người mua.
Đến mức phát triển cao hơn, người lập công ty đánh vào tính ham lợi của cổ đông.
Họ ghi trong chứng thư lập hội là sẽ bán cổ phiếu ưu đãi cho cổ đông nào không
đòi quyền quản trị công ty. Ưu đãi là được ưu tiên chia lời. Ưu tiên thì có thể xếp
loại nên họ chia ra các loại: Thế nào cũng lấy cổ tức (cumulative), Mức lấy điều
chỉnh theo lãi suất (adjustable rate preferred), Có thể chuyển thành cổ phiếu
thường (auction rate preferred) Mục đích của các loại cổ phần này là để “dụ dỗ”
các nhà đầu tư, kiểu như ngoài kẹo ra còn có thêm kẹo mềm, kẹo cao su,…. Đó là
cổ phần hay cổ phiếu ưu đãi. Và như vậy, công ty sẽ có hai loại cổ phần chính để
bán là thường và ưu đãi; riêng loại ưu đãi lại có nhiều thứ.
Chứng thư lập hội sẽ ghi công ty phát hành bao nhiêu cổ phần thường và ưu đãi để
gọi đủ số vốn đã định. Số cổ phần thì phải ghi ngay, nhưng cổ phần ưu đãi có thể
ghi lúc đầu hay sau này khi tăng vốn. Thường thường công ty định một số vốn cao
nhưng không bán hết cổ phiếu mà để chờ sau này khi cần tiền sẽ bán tiếp; khi ấy
có thể bán được giá cao hơn giá cũ dù bán trong chốn riêng tư. Do đó có sự phân
biệt giữa vốn được quyền huy động (authorized capital) và vốn đã thu tiền (paid
up capital).
Để huy động vốn, công ty sẽ bán cổ phiếu cho cổ đông tùy theo số tiền cần có.
Nếu định bán cho công chúng, trước khi bán công ty phải đăng ký cổ phiếu với Sở
giao dịch chứng khoán, được gọi là niêm yết chứng khoán trên thị trường chứng
khoán; lúc đó cổ phiếu có thêm một tên mới là chứng khoán. Nếu chỉ bán cho vài
người thì không phải đăng ký cổ phiếu. Tùy theo tình hình tài chính của công ty,
nếu làm ăn khấm khá, công ty sẽ mua lại số cổ phiếu đặc ưu đem về cất giữ, gọi là

treasury stock. Số còn lại nằm trong tay cổ đông sẽ gọi là outstanding share.
Sau khi gọi vốn lần đầu, những lần sau, muốn tăng vốn, công ty bán nốt số cổ
phiếu hãy còn giữ lại lúc đầu, hay phát hành một đợt cổ phiếu mới, gọi là phát
hành mới. Loại nào, bao nhiêu thì do hội đồng quản trị công ty quyết định. Cứ mỗi
lần phát hành mà muốn bán cho công chúng thì lại phải làm đủ thủ tục niêm yết
như lần đầu. Điều này khác với khi vay tiền ngân hàng. Ở đó làm thủ tục lần đầu,
lần sau chỉ ký lại. Do vậy, phí tổn để huy động vốn trên thị trường chứng khoán
cao hơn là khi đi vay ngân hàng.
Bên cạnh đó, nếu đã bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán rồi, mỗi lần
phát hành mới, công ty đặt ra ba cách “dụ dỗ” cổ đông hiện có hay để thưởng cho
nhân viên cao cấp của mình.
Cách thứ nhất là phát hành cổ phiếu lựa chọn (stock option) cho nhân viên. Khi
cầm nó nhân viên được quyền mua hay bán một số chứng khoán của công ty theo
một giá đã định trước khi hết hạn vào một ngày nào đó. Cổ phiếu lựa chọn có thể
là một Call option cho họ quyền mua hay một Put option cho họ quyền bán. Với
giá đã định, người nắm Call option có lợi khi giá chứng khoán của công ty tăng
trên thị trường chứng khoán vào lúc đến hạn mua, thì được mua với giá cũ. Nếu
giá chứng khoán xuống thì người có Put option có lợi vì được bán cho công ty với
giá đã định cao hơn giá hiện thời. Phần thưởng cho họ nằm ở sự chênh lệch giá.
Cách thứ hai là ấn định quyền (rights) cho người nắm cổ phiếu thông thường. Có
rights họ được quyền mua một số cổ phiếu thông thường mới phát hành với một
giá đã ấn định, nếu mua trước một ngày nào đó thường là một năm. Đến ngày hết
hạn mà giá chứng khoán của công ty lên thì họ có lời vì được mua với giá cũ.
Cách thứ ba là Cổ phiếu bảo đảm (stock warrant) dành cho những ai có cổ phần ưu
đãi hay có trái phiếu. Ai có nó sẽ được mua chứng khoán của công ty với giá đã
định trước một ngày hết hạn nào đó. Khi ấy nếu giá lên thì họ có lời.
Những cách “dụ dỗ” này giống như là giấy bạc bọc kẹo thường hay kẹo cao su để
khuyến khích nhà đầu tư góp thêm vốn. Ở đây chúng ta chỉ tập trung vào việc huy
động vốn nên không đề cập đến những vấn đề khác của công ty. Tóm lại, ở Mỹ cổ
phiếu phát ra thu về như thế được là vì công ty được chủ động về vốn, không ai

quản lý vốn của họ. Luật pháp kinh doanh của Mỹ coi số vốn đã đăng ký là tài sản
để trả nợ khi công ty phá sản. Vốn phải phục vụ kinh doanh, nên trong hạn mức
vốn đã đăng ký với chính quyền, công ty có quyền tăng hay giảm một cách linh
hoạt số vốn ấy; có sao thì trả lời với chủ nợ sau này. Để có vốn dài hạn lúc đầu,
hay tăng vốn sau này; công ty bán các loại cổ phiếu thường và ưu đãi. Nếu những
thứ này chỉ bán cho một nhóm nhỏ, gồm những người thân quen, thì họ không
phải đăng ký ở Sở giao dịch chứng khoán. Nếu bán cho công chúng thì phải đăng
ký. Trong những lần tăng vốn sau, công ty có thể ấn định các loại warrants,
options và rights, và những thứ này cũng được bán ra thị trường. Dù bán cho công
chúng hay bán trong chỗ riêng tư, thì công ty vẫn phải làm ăn lời lãi, nếu không thì
chẳng có tiền chia lời hay trả lãi cho cổ đông.
Với những quy định về huy động vốn như vậy, các công ty sẽ luôn hoạt động rất
nhộn nhịp kể cả trong những thời điểm giá chứng khoán tụt dốc. Đồng thời với đó,
các công ty thường xuyên có được những nguồn vốn cần thiết phục vụ hoạt động
kinh doanh của mình trên thương trường.

×