Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.8 KB, 21 trang )

- trang 1 -
TIỂU LUẬN
Một số vấn đề về phá sản
doanh nghiệp
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 2 -
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU trang 1
THỰC TRẠNG – VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN THEO PHÁP LUẬT
trang 2
A.Nhận thức chung về phá sản trang 2
B.Khi xem xét về phá sản cũng cần phân biệt sự giống và khác nhau giữa
phá sản và giải thể: trang 3
C. Giải quyết việc phá sản theo pháp luật hiện hành (thủ tục giải quyết yêu
cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp) trang 4
I.Những đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp: trang 4
II.Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp và thủ tục tuyên bố phá sản: trang 7
III.Hội nghị chủ nợ: trang10
IV.Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp trang 10
V.Tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản của doanh
nghiệp trang 11
VI.Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trang 11
C. Kết luận trang 12
I/ Thực tiễn phá sản doanh nghiệp ở nước ta trang 12
II/ Một số kiến nghị của bản thân góp phần hoàn thiện pháp luật phá sản
doanh nghiệp trang 14
III/ Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và vấn
đề xử lý vi phạm trang 16


KẾT LUẬN trang 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO trang 19
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 3 -
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của quy luật kinh tế
trong đó có quy luật cạnh tranh nên đã làm nảy sinh các mối quan hệ mới
mà bản thân kinh tế kế hoạch hoá không hàm chứa được. Đó là hiện tượng
phá sản.
Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá
trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người
lao động ít nhiều sẽ bị xáo trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các
vấn đề tiêu cực phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp và hợp tác xã.
Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản đã
làm nảy sinh nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng
những quan hệ nợ nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ
giữa doanh nghiệp mắc nợ với người lao động do tình trạng mất khả năng
thanh toán nợ gây ra. Vì vậy việc giải quyết kịp thời các vấn đề đó có ý
nghĩa rất quan trọng nhằm thiết lập một trật tự cần thiết để thúc đẩy sự phát
triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền chủ thể của các mối quan hệ hay các
bên liên quan.
Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ. Cho nên
thực tiễn giải quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua còn gặp không
ít khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp là sự cần
thiết và cấp bách. Vì những lý do trên nhóm chúng tôi quyết định chọn đề
tài: “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” nhằm để tìm hiểu thêm
một phần nào đó về luật phá sản của nước ta hiện nay. Vì vậy mà việc tìm
hiểu về những việc làm của doanh nghiệp, hợp tác xã trước khi lâm vào

tình trạng phá sản là một vấn đề quá sâu rộng mà trong thời gian ngắn ngủi
nhóm của chúng em không thể nào tìm hiểu được hết, mà chúng em chỉ cố
gắng nắm bắt được một phần nào đó về luật phá sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã. Trong thời kỳ kinh tế hiện nay của nước ta thì càng phải biết rõ
thêm về luật kinh doanh mà luật phá sản là một phần rất nhỏ trong hệ thống
luật pháp nhà nước ta khi mới vừa gia nhập WTO.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 4 -
THỰC TRẠNG – VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT VIỆC PHÁ SẢN
THEO PHÁP LUẬT
A. Nhận thức chung về phá sản
So với Luật phá sản 1993 luật phá sản 2004 đã có bổ sung nhiều quy
định mới về thủ tục phá sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã về thủ tục phá
sản. Trong phạm vi bài làm dưới đây chúng em chỉ tiếp cận một số nội
dung mới trong sự đổi mới bổ sung giữa Luật 2004 và 1993.
Theo Điều 5 LPS 2004:Thủ tục phá sản
1. Thủ tục phá sản được áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản bao gồm:
a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;
b) Phục hồi hoạt động kinh doanh;
c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ;
d) Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản.
Như vậy ta có thể hiểu thủ tục phá sản là một thủ tục lớn bao gồm
nhiều thủ tục cấu thành (thủ tục nhỏ) và giữa những thủ tục cấu thành đó có
mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau. Tính thứ tự, nối
tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục cấu thành. Đây là
bước phát triển về lý luận của pháp luật phá sản nước ta.
Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 tuy cũng có những quy định về
phục hồi hoạt động kinh doanh, thanh lý tài sản của doanh nghiệp nhưng
Luật chưa thừa nhận những nội dung đó là những thủ tục cấu thành độc lập,

chưa nhìn nhận được tính đặc thù về mối quan hệ giữa các thủ tục đó.
Trong Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, phục hồi hoạt động kinh doanh
gần như là một hoạt động bắt buộc trước hoạt động thanh lý. Chỉ sau khi
phục hồi không thành công – thực hiện kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh
doanh không đem lại kết quả, con nợ vi phạm cam kết hoặc Hội nghị chủ
nợ không chấp nhận kế hoạch phục hồi hoặc con nợ không có kế hoạch thì
lúc đó Tòa án mới có thể quyết định chuyển sang tuyên bố phá sản với con
nợ và thanh lý tài sản của nó. Giải quyết mối quan hệ giữa hai thủ tục phục
hồi và thanh lý như vậy là cứng nhắc và máy móc.
Thực tế cho thấy trong nhiều trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu
cầu giải quyết tuyên bố phá sản đã có nhiều con nợ ngừng hoạt động, hoàn
toàn không còn khả năng phục hồi nhưng do Luật quy định, thẩm phán vẫn
phải tuần tự thực hiện các quy định của thủ tục phục hồi. Điều này chỉ làm
kéo dài thời gian vô ích, không có ý nghĩa gì cả.
Điểm tiến bộ được khá nổi bật trong Luật phá sản 2004 chính là
những quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành trong
thủ tục phá sản. Điều này cho phép Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá
sản một cách uyển chuyển tùy thuộc vào những tình huống cụ thể. Tòa án
có thể quyết định tuyên bố phá sản với con nợ ngay mà không cần thụ lý
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản (khoản 1 Điều 87 Luật phá sản 2004: Trong
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 5 -
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp tiền tạm ứng phí phá
sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh
nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn tiền và
tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì Toà án ra quyết định tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản).
Hoặc sau khi thụ lý (khoản 2 Điều 87: Sau khi thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu, giấy tờ do các bên có liên quan gửi
đến, Toà án ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản,

nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản không còn tài sản
hoặc còn nhưng không đủ để thanh toán phí phá sản.) hoặc khi đình chỉ thủ
tục thanh lý tài sản (Điều 86: Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh
nghiệp, hợp tác xã bị phá sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ
tục thanh lý tài sản). Thủ tục phục hồi không còn là một thủ tục bắt buộc
trước thủ tục thanh lý tài sản trong tiến trình giải quyết yêu cầu tuyên bố
phá sản. Không những thế, khi mà nhiệm vụ của thủ tục này không thể thực
hiện được hoặc thực hiện không thành công thì có thể chuyển đổi sang thủ
tục thanh lý tài sản ngay (Điều 79, 80).
Khi xem xét về phá sản cũng cần phân biệt sự giống và khác nhau
giữa phá sản và giải thể :
* Giống nhau:
-Doanh nghiệp ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh
-Bị thu hồi con dấu và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
-Phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản
* Khác nhau:


Phá sản doanh nghiệp
- Phá sản khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá
sản.
- Phá sản theo quyết định của Tòa án (Nói cách khác giải thể doanh
nghiệp thực hiện theo trình tự thủ tục của luật doanh nghiệp, phá sản thực
hiện theo trình tự thủ tục của luật phá sản).
- Phá sản sẽ chuyển quyền điều hành cho một ủy ban tạm thời quản lý
để giải quyết tình trạng công nợ trên cơ sở phân chia toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp sau khi thanh lý một cách hợp lý cho tất cả các chủ nợ liên
quan trong giới hạn của số tài sản đó.
- Chủ doanh nghiệp sau khi phá sản hầu như không có quyền gì liên

quan đến tài sản của doanh nghiệp.
- Giám đốc doanh nghiệp phá sản phải ngừng giữ chức giám đốc ở một
doanh nghiệp khác ít nhất là hai năm.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 6 -


Giải thể doanh nghiệp
- Giải thể xuất phát chủ yếu từ ý chí chủ quan của chủ sở hữu Doanh
nghiệp tư nhân, tất cả các thành viên hợp danh (Công ty hợp danh), Hội
đồng thành viên, chủ sở hữu Công ty (Công ty TNHH), Đại hội đồng cổ
đông (Công ty cổ phần) khi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không tìm được
hướng đi mới.
- Giải thể theo quyết định của chủ Doanh nghiệp (Doanh nghiệp tư
nhân), tất cả các thành viên hợp danh ( Công ty hợp danh), Hội đồng thành
viên, chủ sở hữu Công ty (Công ty TNHH), Đại hội đồng cổ đông (Công ty
cổ phần).
- Doanh nghiệp giải thể chỉ đơn thuần là giải quyết dứt điểm tình trạng
công nợ, Thanh lý tài sản chia cho các cổ đông, trả giấy phép.
- Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện xong các nghĩa vụ tài sản
vẫn có thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh khác nếu có thể.
- Giám đốc doanh nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập, điều hành
công ty mới.
B. Giải quyết việc phá sản theo pháp luật hiện hành (thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp)
I. Những đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố
phá sản doanh nghiệp :
*Đối tượng có quyền:
-Chủ nợ có bảo đảm một phần: là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị

tài sản bảo đảm ít hơn khoản nợ đó.
-Chủ nợ không có bảo đảm: là chủ nợ có khoản nợ không bảo đảm
bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc người thứ ba.
-Người lao động: Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không
trả được lượng, các khoản nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì đại diện Công đoàn hoặc
đại diện người lao động (nơi chứa có tổ chức Công đoàn) có quyền nộp đơn
yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
-Đối với công ty hợp danh: Theo điều 18 Luật phá sản (khi nhận thấy
công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp danh có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh).
Điều 18. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thành viên
hợp danh
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 7 -
1. Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì
thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
công ty hợp danh đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo
đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này.
-Đối với Doanh nghiệp nhà nước: Theo điều 16 luật phá sản (khi
nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh
nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì
đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản đối với doanh nghiệp).
Điều 16. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ sở hữu
doanh nghiệp nhà nước
1. Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản
mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu

cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo
đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này.
-Đối với công ty Cổ phần: Theo điều 17 Luật phá sản (khi nhận thấy
công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông
có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của điều lệ
công ty).
Điều 17. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các cổ đông
công ty cổ phần
1. Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ
đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì
việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường
hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội cổ
đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ
thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo
đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định tại Điều 15 của Luật này, trừ các
giấy tờ, tài liệu quy định tại các điểm d, đ và e khoản 4 Điều 15 của Luật
này.
*Đối với nghĩa vụ:
Theo điều 15 Luật phá sản (khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã
lâm vào tình trạng phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 8 -
của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã).
Điều 15. Nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản:

1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản
thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã
có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp
tác xã đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau
đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã;
c) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Toà án có thẩm
quyền quy định tại Điều 7 của Luật này.
4. Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài
liệu sau đây:
a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác
xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng
mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà pháp
luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức
kiểm toán độc lập xác nhận;
b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực
hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn;
c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm
nơi có tài sản nhìn thấy được;
d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ
tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản
nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn
có bảo đảm và không có bảo đảm;
đ) Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã
trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các
khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa

đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm;
e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp
mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về
những khoản nợ của doanh nghiệp;
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 9 -
g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã
phải cung cấp theo quy định của pháp luật.
5. Trong thời hạn ba tháng, kể từ khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác
xã lâm vào tình trạng phá sản, nếu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
II. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp và t hủ tục tuyên bố phá sản :
Thẩm quyền của tòa án:.
Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhận đơn và
giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp được thành lập
và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; Hợp tác xã theo Luật hợp tác xã đã
đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh thành phố.
Toà án nhân dân huyện, quận có thẩm quyền nhận đơn và giải quyết
yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh tại cơ
quan đăng ký kinh doanh cấp huyện, quận đó.
Những người có quyền nộp đơn:
- Chủ nợ
- Người lao động trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả
được lương, các khoản nợ khác cho người lao động.
- Chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước
- Các cổ đông công ty cổ phần
- Thành viên hợp danh công ty hợp danh.
Những người có nghĩa vụ nộp đơn:

- Doanh nghiệp, Hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
▪ Hồ sơ cần thiết:
I. Người nộp đơn là chủ nợ
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của ngời làm đơn;
c) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản;
d) Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đến
hạn mà không đợc doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán;
đ) Quá trình đòi nợ;
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 10 -
e) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
II. Người nộp đơn là người lao động
1. Đại diện cho người lao động được cử hợp pháp sau khi được quá nửa
số người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã tán thành bằng cách bỏ
phiếu kín hoặc lấy chữ ký; đối với doanh nghiệp, hợp tác xã quy mô lớn, có
nhiều đơn vị trực thuộc thì đại diện cho người lao động được cử hợp pháp
phải đựơc quá nửa số người được cử làm đại diện từ các đơn vị trực thuộc
tán thành.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của ngừơi làm đơn;
c) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản;
d) Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền lương và các khoản nợ khác
mà doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được cho người lao động;
đ) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
III. Người nộp đơn là doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá

sản
1. Khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá
sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác
xã có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp,
hợp tác xã đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các nội dung chính sau
đây:
a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã;
c) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
3. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho Toà án có
thẩm quyền quy định tại Điều 7 của Luật phá sản.
4. Phải nộp kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản các giấy tờ, tài
liệu sau đây:
a) Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp
tác xã, trong đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình
trạng mất khả năng thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ty cổ phần mà
pháp luật yêu cầu phải được kiểm toán thì báo cáo tài chính phải đựơc tổ
chức kiểm toán độc lập xác nhận;
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 11 -
b) Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực
hiện, nhưng vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn;
c) Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm
nơi có tài sản nhìn thấy được (mẫu 1).
d) Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ
tên, địa chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản
nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn
có bảo đảm và không có bảo đảm (mẫu 2).

đ) Danh sách những ngươì mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã
trong đó ghi rõ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các
khoản nợ đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa
đến hạn có bảo đảm và không có bảo đảm (mẫu 3).
e) Danh sách ghi rõ tên, địa chỉ của các thành viên, nếu doanh nghiệp
mắc nợ là một công ty có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về
những khoản nợ của doanh nghiệp;
g) Những tài liệu khác mà Toà án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã
phải cung cấp theo quy định của pháp luật.
IV. Người nộp đơn là chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước
1. Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản
mà doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản thì đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo
đơn yêu cầu được thực.
V. Người nộp đơn là các cổ đông công ty cổ phần
1. Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ
đông hoặc nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
theo quy định của điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì
việc nộp đơn được thực hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường
hợp điều lệ công ty không quy định mà không tiến hành được đại hội cổ
đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu trên 20% số cổ phần phổ
thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó.
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo
đơn yêu cầu được thực hiện như mục III, trừ các giấy tờ, tài liệu điểm d, đ
và e .
VI. Người nộp đơn là thành viên công ty hợp danh
1. Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì

thành viên hợp danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với
công ty hợp danh đó.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 12 -
2. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, các giấy tờ, tài liệu gửi kèm theo
đơn yêu cầu đợc thực hiện:
▪ Thời gian giải quyết:
- Ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản: 30 ngày kể từ
ngày toà án thụ lý hồ sơ.
- Niêm yết danh sách chủ nợ, người mắc nợ: 60 ngày kể từ ngày toà
án ra quyết định mở thủ tục phá sản.
- Khiếu nại và giải quyết khiếu nại danh sách chủ nợ: 15 ngày kể từ
ngày niêm yết.
- Hội nghị chủ nợ: 15 ngày kể từ ngày khoá sổ danh sách chủ nợ.
▪ Địa điểm tiếp nhận:
- Tổ thụ lý, Văn phòng TAND ĐỊA PHƯƠNG
III. Hội nghị chủ nợ :
Hội nghị chủ nợ là cơ quan quyền lực cao nhất của các chủ nợ do Tòa
án triệu tập và chủ trì. Hội nghị này được lập ra nhằm giúp cho các chủ nợ
và doanh nghiệp có cơ hội đàm phán với nhau để đi đến vấn đề thanh toán
ổn thỏa: có 2 trường hợp
- Phục hồi: nếu hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua nghị quyết
đồng ý với giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh , kế hoạch thanh
toán nợ cho các chủ nợ thì doanh nghiệp sẽ được hoạt động trong tối đa 3
năm có sự giám sát của chủ nợ. Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận
nghị quyết của hội nghị chủ nợ.Nghị quyết này có hiệu lực đối với tất cả
các bên có liên quan. Sau 3 năm , nếu doanh nghiệp hoàn tất nợ đúng hạn
thì doanh nghiệp đó tiếp tục hoạt động.
- Thanh lý tài sản của doanh nghiệp: nếu nghị quyết của hội nghị
chủ nợ không đồng ý cho doanh nghiệp cơ hội phục hồi hoặc hội nghị chủ

nợ không thành thì Tòa sẽ quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản. Thứ tự
thanh lý tài sản như sau:
+ Các khoản phí , lệ phí , chi phí phá sản
+ Các khoản lương , trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định
của pháp luật và hợp đồng
+ Các khoản nợ không có bảo đảm trả cho các chủ nợ trong danh sách
chủ nợ
+ Phần còn lại là của chủ doanh nghiệp( thông thường là không còn).
IV. Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
*Hòa giải:
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 13 -
Hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của
bên thứ ba làm trung gian để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm
kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
Việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản liên quan đến nhiều vấn đề
của doanh nghiệp, từ giải quyết quan hệ vay - nợ giữa chủ nợ và doanh
nghiệp, đến quan hệ lao động, đất đai, hợp đồng và các tranh chấp khác
liên quan đến con nợ. Song phá sản chưa được coi là một vụ án, và chưa
được tiến hành như một thủ tục tố tụng đặc biệt. Mối quan hệ giữa Luật
Phá sản doanh nghiệp với các luật liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật
Thương mại, luật về thi hành án, Bộ luật Lao động, Luật Đất đai chưa
được làm rõ. Thậm chí giữa các luật còn có điểm thiếu thống nhất. Thí dụ:
Luật Thương mại quy định thương nhân (bao gồm pháp nhân, cá nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác) có quyền tuyên bố phá sản, nhưng Luật Phá sản chỉ
quy định việc phá sản doanh nghiệp.
Hiện tại, pháp luật quy định tòa án chỉ thụ lý giải quyết phá sản khi
doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn do 2 nguyên nhân:
thua lỗ, hoặc rơi vào trường hợp bất khả kháng.

Luật hiện hành quy định chỉ áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời sau
khi tòa đã mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Nhưng việc tẩu
tán tài sản có thể diễn ra ngay sau khi con nợ hoặc chủ nợ nộp đơn khởi
kiện.
V. Tuyên bố phá sản doanh nghiệp và phân chia giá trị tài sản của
doanh nghiệp
Tài sản phá sản là tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản được xác định từ thời điểm tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Tuy nhiên để bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ trước những
hành vi bất hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện, thời điểm
xác định tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xa lâm vào tình trạng phá sản có
thể được đẩy lên ở thời điểm 3 tháng trước ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu
mở thủ tục phá sản.
VI. Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp
*Quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản:
1/Thẩm phán ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá
sản đồng thời với việc ra quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản. Đây
là thủ tục phá sản bình thường.
2/ Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn nộp tiền tạm
ứng phí phá sản do Tòa án ấn định, chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
không còn tiền và tài sản khác để nộp tiền tạm ứng phí phá sản thì Toà án
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 14 -
ra quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản. Đây là thủ tục
phá sản đặc biệt.
3/ Sau khi thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và nhận các tài liệu,
giấy tờ do các bên có liên quan gửi đến, Toà án ra quyết định tuyên bố
doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản, nếu doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào
tình trạng phá sản không còn tài sản hoặc còn nhưng không đủ để thanh

toán phí phá sản. Đây là thủ tục phá sản đặc biệt.
Ở trường hợp 2 và 3 là dành cho những doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản đã hoàn toàn không còn tài sản hoặc còn tài sản
nhưng không đủ nộp tiền tạm ứng phí phá sản hay không đủ để thanh toán
phí phá sản. Những trường hợp này tòa án áp dụng thủ tục rút gọn để tuyên
bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nhằm chấm dứt sự tồn tại nhằm
chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp, hợp tác xã về phương diện pháp lý
cũng như kết thúc việc nợ nần trong vụ việc phá sản.
C. Kết luận
I/ Thực tiễn phá sản doanh nghiệp ở nước ta
Một doanh nghiệp khi đã có đầy đủ dấu hiệu của phá sản thiết nghĩ
cũng nên nhanh chóng xử lý theo luật, nhằm hạn chế những tổn thất rủi ro
cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp, hạn chế những tác đông xấu mang
tính phản ứng dây chuyền lên toàn bộ nền kinh tế.Nợ, cấu trúc vốn và vấn
đề phá sản của doanh nghiệp.
Trên thực tế sử dụng nợ không những đáp ứng cho nhu cầu hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mà đối với quản trị tài chính doanh nghiệp thì
đây còn là một vấn đề mang tính “nghệ thuật” trong việc họach định cấu
trúc vốn nhằm đạt tới mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp với những
phân tích để hưởng lợi ích từ tấm chắn thuế.
Một doanh nghiệp nên gia tăng nợ cho đến khi giá trị từ hiện giá của
tấm chắn thuế vừa đủ để dược bù trừ bằng gia tăng trong hiện giá của các
chi phí kiệt quệ tài chính. Đôi khi kiệt quệ tài chính có thể đưa đến tình
trạng phá sản, nhưng đôi khi nó chỉ có nghĩa là công ty đang gặp khó khăn,
rắc rối về tài chính tạm thời. Ở các mức nợ trung bình, xác suất kiệt quệ tài
chính không đáng kể, và chi phí kiệt quệ tài chính khá nhỏ làm cho lợi thế
của tấm chắn thuế trở nên vượt trội.
Nhưng tại một thời điểm nào đó, kiệt quệ tài chính sẽ tăng nhanh với
việc doanh nghiệp vay nợ thêm; chi phí kiệt quệ tài chính cũng lớn lên
nhanh chóng, làm cho lợi ích thu được từ tấm chắn thuế của vay nợ giảm đi

và cuối cùng biến mất. Khi một doanh nghiệp sử dụng nợ cũng đồng nghĩa
với những rủi ro về tài chính.
Một doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao đôi khi rơi vào tình trạng “thiếu tự
tin”, thận trọng quá mức khi thực hiện quyết định đầu tư, dễ bỏ qua những
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 15 -
cơ hội đầu tư tốt, đi ngược lại tiêu chí tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Một
vấn đề khác của doanh nghiệp khi sử dụng cấu trúc vốn thâm dụng nợ đó
chính là tình trạng đầu tư kém hiệu quả, đầu tư không vì mục tiêu tối đa
hoá giá trị doanh nghiệp, hậu quả tất yếu là doanh nghiệp sẽ nhanh chóng
rơi vào tình trạng khó khăn trong thực hiện các nghĩa vụ nợ.
Tại Việt Nam quản trị tài chính trong các doanh nghiệp có những lúc
bị xem nhẹ. Việc lựa chọn nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu hoạt động kinh
doanh đôi khi được hình thành một cách tự phát, không dựa trên những
nguyên lý cơ bản của một chiến lược quản trị tài chính hiện đại, kết hợp với
tình trạng đầu tư tràn lan kém hiệu quả và không đúng sở trường và chức
năng hoạt động như: chứng khoán, địa ốc trong bối cảnh biến động khó
lường của những thị trường này thì tình trạng thua lỗ khó có thể tránh
khỏi. Từ thực tế đó tình hình nợ và nợ xấu tại các doanh nghiệp đã và đang
phát sinh khó có thể kiểm soát.
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên tại các doanh nghiệp đặc
biệt là doanh nghiệp nhà nước như: Tính kém minh bạch trong công bố
thông tin, năng lực yếu kém , sự thiếu trách nhiệm … dẫn tới tình trạng các
nhà quản lý doanh nghiệp đã đưa ra các quyết định đầu tư kém hiệu quả và
kết quả là tình trạng nợ chồng lên nợ như đã trình bày ở trên. Theo chúng
tôi cần phải đánh giá tình trạng nợ tại các doanh nghiệp một cách toàn
diện, chặt chẽ và nghiêm túc để có thể kiểm soát thời điểm doanh nghiệp
bắt đầu rơi vào tình trạng khó khăn trong việc thực hiện các nghĩa vụ nợ
hay nói một cách khác là khi doanh nghiệp rơi vào tình trạng khánh kiệt tài
chính để doanh nghiệp có biện pháp tái cấu trúc đưa doanh nghiệp thoát

khỏit tình trạng khánh kiệt tài chính, tránh được khả năng phá sản có thể
xảy ra.
Ngược lại nếu không thể vượt qua tình trạng này nên mạnh dạn áp
dụng biện pháp phá sản nhằm hạn chế những tổn thất rủi ro cho các nhà
đầu tư vào doanh nghiệp, hạn chế những tác động xấu mang tính phản ứng
dây chuyền lên toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là trong giai đoạn nhạy cảm
của nền kinh tế hiện nay
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi sử dụng nợ cũng có thể lâm vào tình
trạng phá sản nếu doanh nghiệp không sớm nhận ra và không có biện pháp
tái cấu trúc tài chính kịp thời; mặt khác tại Việt Nam suy nghĩ và chấp nhận
phá sản chưa phải là vấn đề luôn được các nhà quản trị doanh nghiệp dễ
dàng chấp nhận.
Pháp luật phá sản là bộ phận cấu thành không thể thiếu của pháp luật
kinh doanh để giải quyết mối quan hệ nợ nần trong hoàn cảnh đặc biệt: khi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng khánh kiệt tài chính không thể phục hồi.
Thủ tục phá sản thường chỉ được biết đến như một thủ tục đòi nợ tập thể,
trong đó vấn đề trọng tâm là bảo vệ và đảm bảo công bằng cho các chủ nợ.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 16 -
Quyền lợi của doanh nghiệp bị phá sản chỉ là vấn đề được cân nhắc phụ
thuộc vào tâm điểm đó, thậm chí pháp luật phá sản còn trừng phạt đối với
chủ thể này.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các nhà
lập pháp cũng nhận thức rằng kinh doanh là hoạt động chứa đựng tính rủi
ro nên các con nợ cần được đối xử khoan dung hơn. Mặt khác, tuy lợi ích
của chủ nợ và doanh nghiệp phá sản có vẻ đối lập nhưng chúng lại có mối
quan hệ mang tính tương hỗ. Vì thế, pháp luật phá sản hiện đại không chỉ
đặt mục tiêu bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ mà đồng thời cũng bảo vệ
quyền lợi của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thủ tục phá sản
còn được xem là một cơ hội để các doanh nghiệp mắc nợ có thể được phục

hồi.
Luật phá sản 2004 ra đời được đánh giá như là một cố gắng của các
nhà lập pháp Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp
luật đối với tình trạng phá sản doanh nghiệp bằng việc khắc phục những
hạn chế bất cập của Luật phá sản doanh nghiệp 1993, bổ sung những nội
dung mới trên cơ sở tổng kết thực tiễn 9 năm áp dụng Luật phá sản doanh
nghiệp 1993, tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, thể chế hóa chính sách
của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
II/ Một số kiến nghị của bản thân góp phần hoàn thiện pháp luật
phá sản doanh nghiệp
Để Luật phá sản thực sự đi vào cuộc sống cần khắc phục những vấn
đề sau:
Thứ nhất, khái niệm phá sản vẫn chưa triệt để. Điều 3 Luật phá sản
2004 không quy định rõ số nợ và thời gian quá hạn không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán của con nợ. Vì vậy về hình thức, con nợ chỉ cần mắc nợ số
tiền là 1.000 đồng và quá hạn thanh toán 1 ngày sau khi chủ nợ có đơn yêu
cầu đòi nợ cũng có thể bị xem là lâm vào tình trạng phá sản.
Điều này có thể dẫn đến sự lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản từ phía các chủ nợ. Kinh nghiệm một số nước khi xây dựng
khái niệm phá sản theo trường phái định lượng thì thường có quy định về
số nợ cụ thể, về thời hạn trễ thanh toán nợ từ phía con nợ sau khi chủ nợ có
yêu cầu đòi nợ.
Thứ hai, về các loại chủ nợ, Luật chỉ phân biệt chủ nợ có đảm bảo,
chủ nợ không đảm bảo, chủ nợ có đảm bảo một phần (điều 6). Các chủ nợ
khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trong thủ tục phá sản. Chủ nợ có
đảm bảo và chủ nợ không có đảm bảo có quyền và nghĩa vụ khác nhau
trong quá trình tham gia vào thủ tục phá sản. Về nguyên tắc, Luật phá sản
2004 đã thể hiện tinh thần bảo vệ lợi ích của chủ nợ có đảm bảo triệt để
hơn so với chủ nợ không có đảm bảo.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC

- trang 17 -
Tuy nhiên một số quy định của Luật phá sản 2004 lại không phù hợp
với tinh thần chủ đạo đó. Cụ thể, ngay từ khi có quyết định thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản thì quyền được thanh toán nợ đến hạn của chủ nợ
có đảm bảo đã bị hạn chế, bị tạm đình chỉ cho đến khi có quyết định thanh
lý tài sản (điều 27, điều 35), trừ khi trường hợp được tòa án cho phép.
Trong khi đó các chủ nợ không có đảm bảo vẫn có thể được thanh toán các
khoản nợ đến hạn của mình sau khi có quyết định thụ lý đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản. Việc thanh toán các khoản nợ không có đảm bảo chỉ bị
cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản (điều 31).
Chủ nợ có khả năng bù trừ nghĩa vụ với doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản cũng có lợi thế hơn chủ nợ có bảo đảm. Theo điều 48 chủ nợ
này có quyền thỏa thuận với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản để
thực hiện việc bù trừ và không có bất kỳ sự hạn chế nào của Luật, không
chịu sự giám sát của thẩm phán. Rõ ràng điều này là không hợp lý.
Ngoài chủ nợ có bảo đảm, chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo
đảm một phần, còn một loại chủ nợ nữa mà Luật không đề cập đến mặc dù
sự hiện diện của loại chủ nợ này trong thủ tục phá sản là hoàn toàn hiện
thực và chủ nợ này có quyền đặc trưng của mình.
Đó là chủ nợ mới – chủ nợ xuất hiện trên cơ sở các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản. Luật đề
cập đến các khoản nợ mới (Điều 31) nhưng Luật lại không nói về chủ nợ
mới. Luật thừa nhận sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản mọi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường nhưng phải
chịu giám sát, kiểm tra của Thẩm phán, Tổ quản lý tài sản (Điều 30). Điều
này có nghĩa là doanh nghiệp có thể giao kết hợp đồng mới – xuất hiện
những chủ nợ mới, các khoản nợ mới. Đây cũng là điểm không chặt chẽ
của Luật 2004.
Về lý thuyết, chủ nợ mới – khác với các chủ nợ cũ (những chủ nợ
xuất hiện trên cơ sở các hợp đồng giao kết trước khi có quyết định mở thủ

tục phá sản) luôn có quyền được ưu tiên thanh toán trong mọi trường hợp.
Chỉ có như vậy các quy định của Luật về thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp mới có tính khả thi. Nếu không có sự bảo đảm của
Luật về quyền ưu tiên thanh toán thì không một chủ nợ nào lại giao kết hợp
đồng với một con nợ đã có quyết định mở thủ tục phá sản và mọi cố gắng
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng khánh
kiệt tài chính chỉ là mong muốn không có tính khả thi.
Quyền ưu tiên thanh toán của chủ nợ mới cần được thừa nhận trong cả
thủ tục thanh lý tài sản. Một vấn đề được đặt ra: Các chủ nợ mới có quyền
tham gia vào danh sách chủ nợ hay không? Câu hỏi này không được trả lời
rõ ràng trong Luật. Các chủ nợ có đảm bảo mặc dù có quyền ưu tiên thanh
toán nhưng vẫn phải có tên trong danh sách chủ nợ để có quyền đòi nợ, có
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 18 -
quyền tham gia vào hội nghị chủ nợ. Theo lôgíc này thì các chủ nợ mới
cũng phải có tên trong danh sách chủ nợ. Tuy nhiên yêu cầu này có một số
khó khăn. Vấn đề là danh sách chủ nợ được lập trong thời hạn 75 ngày kể
từ ngày cuối cùng đăng báo quyết định của tòa án mở thủ tục phá sản. Sau
13 ngày niêm yết và giải quyết khiếu nại nếu có thì danh sách này được
đóng lại.
Trong khi đó doanh nghiệp có quyết định mở thủ tục phá sản vẫn tồn
tại, vẫn hoạt động kinh doanh, vẫn phải ký kết các giao dịch mới, có các
chủ nợ mới và chỉ chấm dứt hoạt động kinh doanh khi có quyết định thanh
lý tài sản (Điều 82). Để giải quyết khó khăn này, Luật cần quy định khả
năng bổ sung danh sách chủ nợ trong trường hợp cần thiết.
III/ Hậu quả pháp lý của quyết định tuyên bố phá sản doanh
nghiệp và vấn đề xử lý vi phạm
Nếu căn cứ vào tính chất của vụ phá sản, có hai loại Phá sản về hiệu
quả kinh tế và Phá sản về tài chính:
1) Phá sản về hiệu quả kinh tế là tình trạng các khoản lợi nhuận ròng

thu được từ hoạt động kinh doanh không tương xứng với vốn đầu tư đã bỏ
ra. Mức lợi nhuận tương xứng ở đây được hiểu là mức lợi nhuận cơ hội
tương ứng với mức rủi ro của cuộc đầu tư đó. Một doanh nghiệp có thể bị
lâm vào tình trạng phá sản về hiệu quả kinh tế ngay cả trong trường hợp
doanh nghiệp đó không có bất cứ món nợ nào. Bởi lẽ, đối tượng chính
được đề cập trong hình thức phá sản này là lợi nhuận kinh doanh được đo
lường độc lập với chi phí trả lãi vay của doanh nghiệp;
2) Phá sản về tài chính được dùng để chỉ một doanh nghiệp bị lâm
vào tình trạng không được thực hiện các nghĩa vụ trả nợ mà nó đã cam kết
với các chủ nợ theo đúng kỳ hạn. Một doanh nghiệp bị thua lỗ liên tục
trong kinh doanh (phá sản về hiệu quả kinh tế) sẽ bị gánh nặng nợ nần
chồng chất và sẽ dẫn tới tình trạng bị phá sản về tài chính.
Nếu căn cứ vào nguyên nhân phá sản, có Phá sản trung thực và Phá
sản man trá. Phá sản trung thực là hậu quả khách quan và trực tiếp của tình
trạng không thích ứng của doanh nghiệp mắc nợ trước các đòi hỏi khắt khe
và nghiệt ngã của thương trường Tức là việc phá sản xuất phát từ những
nguyên nhân khách quan như thiên tai, địch hoạ, khủng hoảng kinh tế,
chiến tranh, chênh lệch tỷ giá hối đoái… Phá sản man trá hoàn toàn là hậu
quả của những thủ đoạn, hành vi gian dối, có sự sắp đặt từ trước của chủ
doanh nghiệp mắc nợ lợi dụng cơ chế phá sản để chiếm đoạt tài sản của các
chủ nợ. Chẳng hạn, con nợ gian lận trong việc ký kết các hợp đồng chuyển
giao tài sản, báo cáo sai hoặc đưa ra những thông tin không trung thực
Đây là một hành vi cạnh tranh nguy hiểm và vì vậy thường được xử lý rất
nghiêm khắc về mặt hình sự.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 19 -
Như vậy, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu cực cần
được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu
cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của
chính phủ đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này

cần phải được thể hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các
nội dung như: tiêu chí xác định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá
sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu
tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố phá sản…
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 20 -
KẾT LUẬN
Đối với chúng em Luật phá sản còn quá mới mẻ, chúng em chỉ biết
tìm hiểu những gì mà chúng em có thể biết đựơc. Luật phá sản của nước ta
còn quá nhiều thủ tục cần phải rút ngắn thời gian. Trong Luật PS DN cần
có thủ tục “phá sản rút gọn” hoặc thủ tục thanh lý đặc biệt đối với những
trường hợp có khoản nợ không lớn, con nợ tự nguyện nộp đơn, vụ việc đơn
giản hoặc có sự nhất trí của các bên. Theo đó, giảm bớt thủ tục đăng báo,
khiếu nại, triệu tập các chủ nợ một lần, rút ngắn thời gian giải quyết, trao
quyền rộng rãi hơn cho khối chủ nợ trong việc quản lý và quyết định các tài
sản còn lại của DN. Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực
nhất định về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm
cho sức ép về việc làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã
hội, thậm chí các tội phạm.
Pháp luật về phá sản luôn là một hệ thống mở và vận động để phù
hợp với các yêu cầu của mỗi nền kinh tế ở các giai đoạn khác nhau. Tuy
nhiên sự hình thành nhanh chóng các công ty đa quốc gia cùng với toàn cầu
hoá trong điều kiện hiện nay đòi hỏi các nền kinh tế phải có cách nhìn nhận
hiện tượng phá sản một cách thống nhất, và sư hợp tác chặt chẽ giữa các
quốc gia để bảo đảm an ninh kinh tế chung trên cơ sở giảm thiểu các bất lợi
bắt nguồn từ phá sản.
Vì vậy chúng em tìm hiểu về Luật phá sản của doanh nghiệp là cũng
để biết thêm về luật kinh doanh của nhà nước, nắm bắt được thêm kiến
thức về luật nhà nước Việt Nam nhiều hơn để có thể áp dụng vào thực tế
để không sai sót, không làm trái luật pháp đã quy định. Là những nhân viên

kế toán thì chúng em cần phải có nhiều kiến thức về chuyên môn kế toán
mà còn phải có kiến thức về luật pháp đề làm việc tránh sai sót gây ra hậu
quả không tốt cho cơ quan của mình.
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC
- trang 21 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Luật kinh doanh – Trường Đại học công nghiệp TP.HCM.
-Luật phá sản số 21/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004 về phá sản.
-Tài liệu ở các trang web:
+
+
+ …
Đề tài tiểu luận nhóm 2 “Một số vấn đề về phá sản doanh nghiệp” – ĐHKT04TC

×