Tiểu luận
Một số vấn đề về đổi mới kế
hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã
hội ở Việt Nam
MỤC LỤC
PH N IIẦ 15
M T S V N I M I K HO CH 5 N M VI T NAMỘ Ố Ấ ĐỀĐỔ Ớ Ế Ạ Ă Ở Ệ 15
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay xu thế hội nhập khu vực, thế giới và sự phát triển không ngừng của phương
thức sản xuất đã chi phối ngày càng mạnh mẽ vào nền kinh tế xã hội của tất cả các quốc
gia trên toàn thế giới, và Việt Nam cũng không nằm ngoài sự chi phối đó .Nền kinh tế
nước ta kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành, kinh tế thị trường ngày càng phát triển
mạnh mẽ theo nhiều chiều hướng khác nhau.Điều đó đã đặt ra cho các cơ quan Nhà nước
về quản lý kinh tế phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện các công cụ, chính sách quản
lý và điều tiết nền kinh tế , từ đó tạo ra một mức độ can thiệp hợp lý của Nhà nước vào nền
kinh tế.
Thực tế đã chứng minh rằng, bằng công tác kế hoạch hoá Nhà nước ta đã thực sự có
trong tay một công cụ hiệu quả trong việc điều tiết thị trường qua đó gián tiếp điều tiết nền
kinh tế. Do vậy đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân trở
thành một vấn đề hết quan trọng trong công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta. Khi công tác
kế hoạch hoá được đổi mới và hoàn thiện phù hợp với trình độ phát triển của thị trường, sẽ
tạo ra một sự hợp lý về mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, từ đó phân định rõ ràng
“sân chơi” của chúng trong một nền kinh tế có định hướng như của Việt Nam.
Vấn đề đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá ở nước ta luôn là vấn đề được quan
tâm chú ý ở tất cả các giai đoạn phát triển, vấn đề này luôn được đề cập ở tất cả các kỳ họp
đại hội của Đảng. Thông qua việc phân tích bản chất của công tác kế hoạch hoá và thực
trạng của nền kinh tế nước ta và những yếu tố tác động khác qua từng thời kỳ nhất định,
chúng ta đã xác định được những công việc phải làm để đổi mới và hoàn thiện công tác kế
hoạch hoá ở Việt Nam. Và như Đảng và Nhà nước đã xác định thì đổi mới công tác kế
hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội là trọng tâm của công cuộc đổi mới kế hoạch hoá
phát triển kinh tế xã hội.
Để phục vụ cho bài tập đề án môn học cũng như việc học tập chuyên ngành Kế hoạch,
Em đã chọn đề tài “Một số vấn đề về đổi mới kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội ở
Việt Nam”. Em xin gửi lời cảm ơn tới thầy giáo: Tiến sĩ Ngô Thắng Lợi đã hướng dẫn và
gúp đỡ em trong quá trình hoàn thành bài viết của mình.
Hà Nội ngày 26
tháng 11 năm2004
Sinh viên
Nguyễn Việt Hưng.
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
KẾ HOẠCH 5 NĂM PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
I. KẾ HOẠCH 5 NĂM TRONG HỆ THỐNG KẾ HOẠCH HOÁ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ XÃ HỘI.
1. Hệ thống kế hoạch hoá phân theo thời gian trong nền kinh tế quốc dân.
Hệ thống kế hoạch hoá là một hệ thống các loại hình thức kế hoạch phát triển, đó là
hệ thống các công cụ điều hành và quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước. Trong hệ
thống kế hoạch hoá, mỗi loại hình kế hoạch khác nhau có vai trò khác nhau và chúng có
thể được phân loại theo nhiều góc độ khác nhau.
Nếu xem xét hệ thông kế hoạch hoá theo góc độ nội dung thì hệ thống kế hoạch hoá
bao gồm các bộ phận cấu thành như: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội; Quy hoạch phát
triển; kế hoạch phát triển và các chương trình dự án phát triển.
Trong đó chiến lược phát triển kinh tế xã hội là hệ thống các phân tích, đánh giávà
lựa chọn về quan điểm mục tiêu tổng quát, định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu của
đời sống xã hội và các giải pháp cơ bản, trong đó bao gồm cácchính sách về cơ cấu, cơ chế
vận hành hệ thống kinh tế xã hội nhằm thực hiện mục tiêu đặt ra trong một khoảng thời
gian dài.
Quy hoạch phát triển là sự thể hiện của chiến lược phát triển trong thực tiễn phát
triển kinh tế xã hội của đất nước. Quy hoạch phát triển thể hiện tầm nhìn, sự bố trí chiến
lược về thời gian và không gian lãnh thổ, xây dựng khung vĩ môvề tổ chức không gian để
chủ động hướng tới mục tiêu đạt hiệu quả cao, phát triển bền vững trong tương lai.
Kế hoạch phát triển là một công cụ quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân,
nó là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo
từng thời kỳ bằng hệ thống các mục tiêu chỉ tiêuvà chỉ tiêu biện pháp định hướngpt và hệ
thống các chính sách, cơ chế áp dụng trong thời kỳ kế hoạch.
Chương trình và dự án phát triển kinh tế xã hội được xem như là một công cụ triển
khai thực hiện các kế hoạch phát triển nhằm giải quyết các vấn đề bức xúc về kinh tế và xã
hội. Là một phương pháp kế hoạch hoá được áp dụng nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam
cùng với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế phương pháp kế hoạch hoá quản lý theo
các chương trình dự án mà trọng tâm là các chương trình quốc gia cũng được áp dụng rộng
rãi từ những năm 1992.
Tóm lại khi xem xét hệ thống kế hoạch hoá dưới góc độ nội dung ta thấy được rằng
kế hoạch hoá là một quá trình liên tiếp nhau, bổ trợ nhau và thể hiện mối quan hệ định
hướng và thực hiện giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống kế hoạch hoá.
Khi chúng ta xem xét hệ thống kế hoạch hoá ở góc độ thời gian thì hệ thống kế hoạch
hoá lại được phân chia thành 3 loại kế hoạch chủ yếu là: Kế hoạch dài hạn; kế hoạch trung
hạn và kế hoạch ngắn hạn.
1.1. Kế hoạch dài hạn.
Khi nói kế hoạch dài hạn ta có thể hiểu đó là những chiến lược phát triển kinh tế xã
hội có khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Và ngoài chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10
năm, 20 năm chúng ta còn có thể có các chiến lược phát triển kinh tế xã hội có thời gian
dài từ 20 đến 25 năm và chúng được gọi là “tầm nhìn”. Để tạo thuận lợi cho việc xây dựng
và bố trí các chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho10 năm, “tầm nhìn thường có nội dung
tổng quát hơn, linh động hơn hay mềm hơn và có tính chất định tính hơn so với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Điều quan trọng của việc phân định giữa chiến lược phát triển
kinh tế xã hội và tầm nhìn là phải thống nhất về mục tiêu định hướng của chúng sao cho
những bước đi trước “thuận” và tạo tiền đề cho bước đi sau đồng thời có khả năng hiệu
chỉnh khi cần thiết.
Một kế hoạch dài hạn thường có nội dung để giải đáp những câu hỏi: Chúng ta đang
đứng ở đâu? Muốn đi đến đâu? Đi bằng cách nào? Và làm thế nào để biết được chúng ta đã
đi đến đó? Để trả lời mỗi một câu hỏi trên chúng ta phải tiến hành những công việc cụ thể
như:
- Nhận dạng thực trạng của nền kinh tế : Quá trình nhận dạng thực trạng phải được
đánh giá toàn diện và trong một khoảng thời gian dài tương đương với thời kỳ của chiến
lược phát triển sẽ xây dựng. Nó là cơ sở để rút ra kết luận đúng đắn cho câu hỏi: Chúng ta
đang đứng ở đâu?.
- Xây dựng các quan điểm phát triển, đó là những tư tưởng chủ đạo thể hiện tính
định hướng của các kế hoạch dài hạn. Việc xác định các quan điểm chủ dạo có ý nghĩa
quan trọng trong việc tìm ra các bước ngoặt của con đường phát triển , nó tạo động lực cơ
bản xuyên xuốtquá trình phát triển của đất nước.
- Xây dựng hệ thống mục tiêu, các mục tiêu chủ yếu là mục tiêu tổng quát, chủ yếu
tập trung vào các vấn đề nâng cao đời sống xã hội của các tầng lớp dân cư, thay đổi bộ mặt
đất nước, tạo thế vững chắc cho đất nước, phản ánh những biến đổi quan trọng của nền
kinh tế.
- Xây dựng hệ thống chính sách và biện pháp. Đây là thể hiện sự hướng dẫn về cách
thức thực hiện các mục tiêu đề ra. Nó bao gồm các chính sách và biện pháp về cơ cấu và
cơ chế vận hành hwj thống kinh tế –xã hội, các chính sách về bồi dưỡng , khai thác, huy
động, phân bổ và sử dụng hợp lý cá nguồn lực phát triển.
1.2 Kế hoạch trung hạn.
Kế hoạch trung hạn là những kế hoạch có khoảng thời gian từ 3 đến 10 năm. Ở một
số nước trên thế giới như nước Pháp, khi phân chia theo thời gian thì hình thức duy nhất
của kế hoạch là kế hoạch 5 năm, nước Đức thường xây dựng kế hoạch trung hạn 5 năm, ở
Malaysia có kế hoạch trung hạn 5 năm, kế hoạch trung hạn 3 năm, ở Việt Nam kế hoạch
trung hạn thường là kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch trung hạn (kế hoạch 5 năm) là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh
tế xã hội và quy hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch
trung hạn xác định các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong
thời kỳ kế hoạch và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các
chương trình phát triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của
khu vực kinh tế tư nhân.
1.3. Kế hoạch ngắn hạn (kế hoạch năm- kế hoạch tác nghiệp).
Trong hệ thống kế hoạch phát triển thì kế hoạch 5 năm là công cụ chính sách định
hướng còn kế hoạch hàng năm là công cụ thực hiện. Đặc biệt nếu thực hiện kế hoạch 5
năm theo hình thức “cuốn chiếu” thì kế hoạch hàng năm thực chất sẽ là một phần định
hướng của kế hoạch 5 năm. Vì vậy, vai trò hay chức năng đầu tiên của kế hoạch năm là cụ
thể hoá kế hoạch 5 năm, phân đoạn kế hoạch 5 năm để từng bước thực hiện kế hoạch 5
năm. Quy mô và sự cấu thành của kế hoạch năm vì thế chủ yếu đươc quyết định bởi ngân
sách, các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm, các tiến trình trong nghiên cứu khả thi và những dự án
triển khai trong thời kỳ trước. Bên cạnh đó kế hoạch năm còn là công cụ để điều chỉnh kế
hoạch 5 năm có tính đến đặc điểm của từng năm. Ngoài ra, kế hoạch hàng năm còn đóng
vai trò độc lập quan trọng, nó có thể bao hàm các nhiệm vụ, các chỉ tiêu chưa được dự kiến
trong kế hoạch 5 năm, bảo đảm tính linh hoạt, nhạy bén của kế hoạch hoá nói chung.
2. Kế hoạch 5 năm trong hệ thông kế hoạch hoá phát triển kinh tế-xã hội.
2.1. Khái niệm và nội dung cơ bản của kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy
hoạch phát triển trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước. Kế hoạch 5 năm xác định
các mục tiêu chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, nâng cao phúc lợi xã hội trong thời kỳ kế hoạch
và xác định các cân đối, các chính sách phân bổ nguồn lực, vốn cho các chương trình phát
triển của khu vực kinh tế Nhà nước và khuyến khích sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân. Nội dung chủ yếu của việc lập kế hoạch 5 năm bao gồm:
- Xác định nhiệm vụ tổng quát và các mục tiêu, chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế –xã
hội của đất nước trong giai đoạn 5 năm như: Mục tiêu tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, huy động tiết kiệm, các chỉ tiêu về phúc lợi xã hội …
- Xác định các chương trình và lĩnh vực phát triển . Các vấn đề được đưa vào chương
trình và lĩnh vực phát triển có sự lựa chọn, nó thực sự phải là các vấn đề nổi cộm, trọng
yếu cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Các chương trình phát triển chính là cơ
sở hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu phát triển của kỳ kế hoạch 5 năm.
- Phần xây dựng các giải pháp lớn của kế hoạch 5 năm sẽ bao gồm 2 nội dung cơ bản:
Một là xác định các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đỗi xuất nhập
khẩu, cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua toàn xã hội; xác định các khả năng
thu hút vốn cả trong và ngoài nước,đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ
đầu tư giữa các vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá,
xã hội; xác định các quan hệ cung cầu một số hàng hoá vật tư chủ yếu. Hai là xây
dựng, hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ
máy quản lý và các vấn đề tổ chức thực hiện.
Trong hệ thống kế hoạch hoá kế hoạch 5 năm vừa là sự cụ thể hoá các chiến lược
phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch phát triển vừa là công cụ định hướng cho các kế
hoạch hàng năm. Dựa vào hệ thống chỉ tiêu mục tiêu và các cân đối lớn của kế hoạch 5
năm các kế hoạch hàng năm được xây dựng, từ đó đảm bảo sự thống nhất về mục tiêu của
kế hoạch hàng năm với kế hoạch 5 năm và mục tiêu định hướng của quy hoạch phát triển
và chiến lược phát triển. Từ đó ta có thể thấy được kế hoạch 5 năm là cầu nối giữa chiến
lược phát triển, quy hoạch phát triển với các kế hoạch hàng năm hay là cầu nối biến các
mục tiêu mang tính định tính cao thành các công việc cụ thể bằng việc theo đuổi mục tiêu
hàng năm mang tính định lượng nhiều hơn.
2.2. Sự cần thiết lựa chọn kế hoạch 5 năm làm kế hoạch trọng tâm trong hệ thống
kế hoạch hoá phát triển kinh tế –xã hội.
Nghị quyết Đại hội 9 của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xác định “xây dựng kế hoạch
5 năm trở thành công cụ chủ yếu của hệ thống kế hoạch hoá phát triển”.
Trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội ta thấy kế hoạch 5 năm (kế
hoạch trung hạn) là loại hình kế hoạch có khoảng thời gian nằm giữa kế hoạch dài hạn
(chiến lược phát triển, quy hoạch phát triển ) và kế hoạch ngắn hạn(kế hoạch hàng năm).
Do vậy khi xét về mặt thời gian thì điều đâu tiên ta thấy kế hoạch 5 năm đã đảm bảo mối
quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Do khoảng thời gian 5 năm vừa đúng bằng một nhiệm kỳ
làm việc của cơ quan chính phủ, là thời hạn mà theo đó lợi tức đầu tư bắt đầu có sau 1 năm
hoặc một vài năm, do vậy tạo thuận lợi cho việc tập trung quan điểm lãnh đạo, thuận lợi
cho việc đổi mới và hoàn thiện việc thực hiện các kế hoạch phát triển mới. Khi một nhiệm
kỳ làm việc của chính phủ kết thúc cũng là lúc một kế hoạch 5 năm kết thúc, do vậy trong
quá trình thực hiện kế hoạch phát triển nếu còn tồn tại những hạn chế hay không đạt được
những mục tiêu đã đề ra, việc quy kết trách nhiệm sẽ dễ dàng hơn. Từ đó buộc mỗi cá nhân
có trách nhiệm thực hiện mục tiêu chung một cách tốt nhất, không để xảy ra tình trạng
thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao rồi bắt người đi sau
(nhiệm kỳ sau) phải giải quyết hậu quả do chính mình gây ra.
Kế hoạch 5 năm là khoảng thời gian đủ ngắn để đảm bảo tính chính xác của các mục
tiêu đề ra. Do sự biến động không ngừng của nền kinh tế, sự phát triển mạnh mẽ không
ngừng của nền sản xuất xã hội cũng như việc hiện đại hoá các công cụ dự báo…dẫn đển
rủi ro cao đối với các chỉ tiêu của các kế hoạch dài hạn.
Đối với kế hoạch 1 năm thì khoảng thời gian 1 năm không đủ để đánh giá những phát
sinh của chương trình dự án. Những chương trình dự án khi hoàn thành đôi khi chưa bộc lộ
hiệu quả hay những phát sinh ngay mà phải trải qua một thời gian đi vào sử dụng do vậy
trong vòng một năm không thể nhận biết được điều đó. Trong khi đó kế hoạch 5 năm đủ
dài để đánh giá các chính sách giải pháp, chương trình dự án…và tiến hành sử lý những
phát sinh.
Trong quá trình lập kế hoạch thì công việc thu thập, sử lý thông tin đòi hỏi một thời
gian khá dài do vậy kế hoạch hàng năm sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong vấn đề đó bởi vì
quá trình thu thập, sử lý thông tin sẽ làm ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các hoạt động của
kế hoạch đề ra.
Khi nghiên cứu vai trò của kế hoạch 5 năm dưới góc độ nội dung ta thấy: Trước hết
nội dung của kế hoạch 5 năm là sự cụ thể hoá các mục tiêu định hướng, các “ tầm nhìn”
của các chiến lược phát triển kinh tế xã hội nội dung được đề cập trong kế hoạch 5 năm là
các vấn đề được lựa chọn, nó thực sự là các vấn đề nổi cộm, trọng yếu cho sự phát triển
bền vững cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong hệ thống chỉ tiêu của mình kế hoạch 5
năm xác định rõ các cân đối vĩ mô chủ yếu: Cân đối vốn đầu tư, cân đỗi xuất nhập khẩu,
cán cân thanh toán quốc tế, cân đối sức mua toàn xã hội; xác định các khả năng thu hút vốn
cả trong và ngoài nước, đồng thời xác định những quan hệ lớn về phân bổ đầu tư giữa các
vùng kinh tế, giữa công nghiệp, nông nghiệp và các lĩnh vực văn hoá, xã hội; xác định các
quan hệ cung cầu một số hàng hoá vật tư chủ yếu. Ngoài ra kế hoạch 5 năm còn xây dựng,
hoàn thiện những vấn đề cơ chế quản lý, các chính sách kinh tế, về hiệu lực bộ máy quản
lý và các vấn đề tổ chức thực hiện.
Do vậy khi hệ thống chỉ tiêu và các giải pháp của kế hoạch 5 năm được đảm bảo thì
việc xây dựng các kế hoạch hàng năm trở lên dễ dàng hơn và mục tiêu của các cấp kế
hoạch sẽ luôn được thống nhất.
Tóm lại vai trò của kế hoạch 5 năm là rất quan trọng và việc đưa kế hoạch 5 năm trở
thành trọng tâm chủ yếu trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển là hoàn toàn đúng đúng
đắn.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ KẾ HOẠCH 5 NĂM
1. Nội dung các bộ phận cấu thành kế hoạch 5 năm.
Nội dung của một kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế xã hội bao gồm :
1.1 Đánh giá thực trạng.
Đánh giá thực trạng ở đây bao gồm: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm của
thời kỳ trước, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu đã đề ra của kế hoạch từ đó rút ra những bài
học kinh nghiệm cho kỳ kế hoạch 5 năm sắp tới; Đánh giá tình hình kinh tế, chính trị, xã
hội, cơ sở hạ tầng… trong nước và ngoài nước cùng các nhân tố ảnh hưởng khác; Đánh giá
các nguồn lực làm cơ sở cho quá trình phát triển tiếp theo.
1.2 Đưa ra các đự báo phát triển.
Bằng các công cụ và phương pháp dự báo, các nhà dự báo đưa ra những dự báo phát
triển kinh tế xã hội. Ví dụ như dự báo về khả năng vốn đầu tư; dự báo về khả năng ngân
sách; khả năng nguồn lao động…
1.3 Xác định các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
Dựa vào các chiến lược phát triển kinh tế xã hội, các quy hoạch phát triển mà nó đang
phục vụ hệ thống quan điểm mục tiêu của kế hoạch 5 năm được xây dựng.
Hệ thống quan điểm mục tiêu của kế hoạch 5 năm có chức năng cụ thể hoá các mục
tiêu định hướng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội, không được xa rời mục tiêu chính
của chiến lược đã đề ra.
1.4 Xây dưng hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm.
Hệ thống chi tiêu trong kế hoạch phát triển được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ
cần đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo này thể hiện cả về số lượng và chất
lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế, các bộ phận
cấu thành cụ thể của nó và được Nhà nước sử dụng dể thực hiện quá trình điều tiết nền
kinh tế.
Hệ thống chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm chủ yếu mang tính định hướng phát triển
như: tốc độ tăng trưởng kỳ kế hoạch, tỉ trong công nghiệp nông nghiệp và dịch vụ trong
GDP; tỷ trọng lao động xã hội làm việc trong các ngành nói trên; thu nhập bình quân đầu
người; tốc độ tăng trưởng năng suất lao động; kim ngạch xuất khẩu v v
1.5 Xây dựng các cân đối vĩ mô chủ yếu trong nền kinh tế.
Đây cũng là một nội dung quan trọng của công tác kế hoạch hoá. Kế hoạch 5 năm
xây dưng và bảo đảm một số cân đối lớn:
- Cân đối vốn đầu tư phát triển.
- Cân đối thanh toán quốc tế.
- Cân đối ngân sách Nhà nước.
- Cân đối lao động-việc làm.
- Cân đối tích luỹ-tiêu dùng.
- Cân đối cung- cầu một số vật tư hàng hoá chủ yếu.
1.6 Xác định các chương trình phát triển kinh tế xã hội chủ yếu.
Các kế hoạch 5 năm có thể được triển khai bằng các kế hoạch hàng năm, các chương
trình phát triển kinh tế. Do vậy trong nội dung của kế hoạch 5 năm cần xác định những bộ
phận triển khai chủ yếu.
1.7. Xác định các chính sách, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch.
Đây là một phần rất quan trọng của bản kế hoạch, nếu không đề ra các chính sách, giải
pháp thì tất cả các công đoạn ở trên không có tác dụng. Các giải pháp chỉ ra cách thức hoạt
động nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
2. Hệ thống chỉ tiêu kế hoạch 5 năm.
Một nội dung quan trọng không thể thiếu của kế hoạch nói chung và kế hoạch 5 năm
nói riêng đó là xây dựng hệ thống chỉ tiêu. Hệ thống chi tiêu trong kế hoạch phát triển
được hiểu là thước đo cụ thể nhiệm vụ cần đạt được trong thời kỳ kế hoạch. Các thước đo
này thể hiện cả về số lượng và chất lượng. Nó cho phép xác định nội dung cơ bản của quá
trình phát triển kinh tế, các bộ phận cấu thành cụ thể của nó và được Nhà nước sử dụng dể
thực hiện quá trình điều tiết nền kinh tế. Có nhiều cách phân loại hệ thống chỉ tiêu kế
hoạch:
- Đứng trên góc độ phạm vi tính toán, hệ thống chỉ tiêu bao gồm các chỉ tiêu kế hoạch
quốc gia như: Chỉ tiêu phản ánh chương trình phát triển kinh tế đất nước, các dự báo kinh
tế-xã hội, các chỉ tiêu của hệ thốngài khoản quốc gia, nguồn ngân sách Chính phủ và tài
chính Nhà nước. Các chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh, thành phố bao gồm các chỉ tiêu phản ánh
chương trình phát triển của các vùng và ngân sách địa phương. Hệ thống các chỉ tiêu phát
triển của từng ngành, nội bộ ngành như công nghiệp, nông nghiệp và phát triển nông thôn,
giao thông, bưu chính viễn thông…
- Đứng trên góc độ nội dung, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các chỉ tiêu phát triển
kinh tế và các chỉ tiêu phát triển xã hội. Các chỉ tiêu phát triển kinh tế đặt ra nhiệm vụ về
tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và những cân đối nguồn lực chủ yếu. Ví đụ
trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 của nước ta chỉ tiêu kinh tế bao gồm một số chỉ tiêu như:
Đưa GDP năm 2005 bằng 2 lần GDP năm 2001. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân mỗi
năm là 7,5%/năm trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành nông nghiệp là
4,3%/năm, ngành công nghiệp, xây dựng cơ bản là 10,8%/năm và ngành dịch vụ là
6,2%/năm; Chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của từng ngành : nông nghiệp tăng
4,8%/năm,công nghiệp tăng 13%/năm, dịch vụ tăng 7,5%/ năm; Chỉ tiêu cơ cấu ngành
kinh tế theo GDP : Nông nghiệp chiếm 20-21%, công nghiệp 38-39%, dịch vụ41-42%; Chỉ
tiêu tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân năm là16%/năm và một số chỉ tiêu
khác…
Các chỉ tiêu xã hội đưa ra các mục tiêu giải quyết các vấn đề như: Xoá đói giảm
nghèo, công bằng xã hội, phát triển y tế giáo dục, khoa học-công nghệ và các mục tiêu xã
hội khác. Trong KH 5 năm PTKT-XH 2001-2005 một số chỉ tiêu xã hội như: Về giáo dục
có chỉ tiêu học sinh đến trường trong độ tuổi đến năm 2005: Trung học cơ sở là 80%, phổ
thông trung học là 45%; Chỉ tiêu về dân số: Giảm tỉ lệ sinh bình quân 0,05%/năm;Tốc độ
tăng dân số tự nhiên là 1,2%/năm;
Tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động trong vòng 5 năm (trung bình 1,5 triệu lao động
/năm); Tỉ lệ lao động qua đào tạo đến 2005 là 30%; Về y tế-chăm sóc sức khoẻ: Đảm bảo
nhu cầu thuốc chữa bệnh 40%; Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 22-5%(2005).
Để thực hiện sự gắn bó giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội, hiện nay người
ta thường đặt ra các chỉ tiêu lồng ghép. Các chỉ tiêu lồng ghép đảm bảo thể hiện được cả
hai yêu cầu trong một chỉ tiêu. Ví dụ chỉ tiêu thu nhập bình quân trên đầu người, nhu cầu
việc làm mới v v
- Đứng trên góc độ quản lý, hệ thống kế hoạch có chỉ tiêu pháp lệnh, chỉ tiêu hướng
dẫn và chỉ tiêu dự báo. Chỉ tiêu pháp lệnh được Quốc hội và Chính phủ phê duyệt và trở
thành bắt buộc phải hoàn thành trong thờ kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu hướng dẫn thường mang
tính định hướng hoạt động của các ngành, dịa phương, các đơn vị kinh tế và dùng để phân
tích, so sánh đánh giá mức độ phát triển của các đối tượng kế hoạch hoá. Các chỉ tiêu dự
báo ở tầm vĩ mô làm cơ sở luận chứng cho các chỉ tiêu pháp lệnh phê chuẩn và được xem
như các số liệu, thông tin kinh tế cho các đơn vị kinh tế, các ngành, địa phương và các cơ
quan có liên quan tham khảo.
-Theo phạm vi đơn vị đo lường, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch gồm có các chỉ tiêu hiện vật và
chỉ tiêu giá trị. Chỉ tiêu hiện vật xác định mặt vật chất của sản xuất, được đo lường
bằng các đơn vị đo hiện vật như: Cái, trọng lượng, kích thước, dung tích v v Chỉ tiêu
hiện vật có tác dụng xác định cụ thể quy mô của sản xuất và dịch vụ, nó đưa ra khả
năng thiết lập mối quan hệ trực tiếp giữa mục tiêu sản xuất sản phẩm với khối lượng
nhu cầu cung cấp các hàng hoá trung gian. Chỉ tiêu giá trị đo lường cácnhiệm vụ, mục
tiêu và quy mô phát triển của nền kinh tế dưới hình thái tiền tệ,nó được sử dụng để
hình thành các cân đối vĩ mô, cá con số phản ánh tổng hợp nội dung phát triển kinh tế,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hướng phát triển của các ngành, vùng v v
-Ngoài các cách phân loại chủ yếu trên, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch còn được chia thành chỉ
tiêu tương đối và chỉ tiêu tuyệt đối; chỉ tiêu phản ánh chất lượng và số lượng. Tất cả
các chỉ tiêu đều góp phần tăng cường tính định lượng trong kế hoạch hoá phát triển.
Tuy vậy, để thích ứng với các điều kiện thường xuyên biến đổi của kinh tế thị trường
và theo yêu cầu phát triển ngày càng cao của đời sống, xã hội, các kế hoạch phát triển
hiện nay đặt trọng tâm vào các chỉ tiêu xã hội, các chỉ tiêu giá trị, cá chỉ tiêu mang tính
chất hướng dẫn và dự báo.
3. Một số phương pháp xây dựng và quản lý KH 5 năm PTKT-XH.
3.1. Phương pháp truyền thống.
Xây dựng và quản lý các KH 5 năm theo phương pháp truyền thống đã được áp
dụng từ rất lâu trong hệ thông kinh tế xã hội chủ nghĩa, và ngày nay nền kinh tế nước ta
vẫn còn áp dụng dưới những hình thức khác nhau. Đặc trưng của phương pháp này, như
chúng ta đã biết, đó là: khoảng thời gian của thời kỳ 5 năm là cố định( ví dụ: kế hoạch 5
năm 1996-2000; 2001-2005); thích ứng với khoảng thời gian cố định, chỉ tiêu kế hoạch
được xây dựng một lần cho cả thời kỳ 5 năm, các mục tiêu phát triển thường là con số bình
quân hàng năm hoặc tính cho năm cuối của kỳ kế hoạch. Mô hình trên hoàn toàn phù hợp
trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung với nền kinh tế kế hoạchá ổn định, quá trình phát triển
sau được xem như là “quá trình trước cộng thêm một bước”; kinh tế trong nước là một
tổng thể thống nhất bao gồm thành phần kinh tế XHCN là chủ yếu, các mối quan hệ kinh tế
quốc tế cũng được xác diịnh trước theo kế hoạch chung của hội đồng tương trợ kinh tế.
Tuy vậy, nếu nhìn nhận ở góc độ chức năng của kế hoạch trong nền kinh tế thị trường là
điều tiết các quan hệ thị trường, kế hoạchắc phục các khuyết tật của thị trường, bổ sung và
hướng thị trường hoạt động theo mục tiêu của xã hội thì phương pháp truyền thống tỏ ra có
nhiều hạn chế. Chỉ tiêu kế hoạch xây dựng một lần cho cả thời kỳ 5 năm sẽ không cập nhật
được các biến động của thị trường; sự thay đổi môi trường kinh tế trong nước và quốc tế
làm cho các con số kế hoạch trở lên lạc hậu, thiếu tính linh hoạt và khả năng hiệu chỉnh.
Việc quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế quốc dân vì thế mà trở nên cứng nhắc, kém
hiệu quả, thậm chí sai lẹch. Những căn bệnh như: chủ quan, duy ý chí hoặc quan liêu sẽ
sảy ra. Hơn nữa không phải chương trình dự án hoặc chính sách nào cũng được sây dựng
và triển khai bó gọn trong một thời kỳ 5 ăm nhất định. Khi các chính sách, chương trình có
sự gối đầu từ kế hoạch 5 năm này sang kế hoạch 5 năm khác thì cách xây dựng kế hoạch
theo thời kỳ cố định sẽ khó phản ánh được tính liên tục trong mục tiêu hoạt đông và cân
đối ngân sách cho các chính sách, chương trình đó.
3.2. Phương pháp “cuốn chiếu”
Đối với Việt Nam đây là một phương pháp còn rất mới mặc dù phương pháp này đã
được sử dụng phổ biến từ rất lâu ở các nước phát triển. Đặc biệt ở Pháp Nhật Bản, Cộng
hoà liên bang Đức, Ôxtrâylia, mô hình kế hoạch hoá "cuốn chiếu" được áp dụng rộng rãi
cùng với quá trình phát triển kinh tế thị trường và thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế
–xã hội của các quốc gia này. Sự khác biệt của phương pháp này so với kế hoạch hoá kiểu
truyền thống thể hiện ở các diểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, thời kỳ kế hoạch 5 năm không cố định mà được thay đổi theo kiểu cuốn
chiếu sau mỗi năm kế hoạch. Khi một năm thực hiện kế hoạch qua đi thì một năm kế hoạch
mớilại được đưa vào khuôn khổ trung hạn. Ví dụ như kế hoạch 2001-2005 rồi đến kế
hoạch 2002-2006, v v
Thứ hai, các con số kế hoạch được tính theo những mục tiêu tổng thể, bao gồm kế
hoạch chính thức cho một năm hiện hành, kế hoạch dự tính cho năm tiếp theo và dự báo
cho kế hoạch ba năm còn lại. Mức độ chi tiết cụ thể và chính xác của các con số kế hoạch
các năm sau phụ thuộc vào số lượng, độ tin cậy và khr năng cập nhật thông tin.
Thứ ba, cuối mỗi năm của thời kỳ kế hoạch, trên cơ sở kết qủa thực hiện kế hoạch và
những dự báo, thông tin mới, quá trình xây dựng kế hoạch 5 năm thời kỳ cuốn chiếu mới
lại được thực hiện với các nội dung: xây dựng kế hoạch chính thức cho năm tiếp theo (năm
đầu của thời kỳ mới); điều chỉnh và chính xác hoá thêm chao những dự báo kế hoạch của
năm thứ 2,3,4 và dự báo sơ bộ kế hoạch năm cuối cùng (năm thứ 5 của thời kỳ mới). Đi
kèm theo các chỉ tiêu kế hoạch là những dự kiến về cơ hội, thách thức của thời kỳ kế hoạch
và những kiến nghị, giải pháp cụ thể phù hợp với các diễn biến xảy ra.
Phương pháp "cuốn chiếu" với các nội dung tổng quát nêu trên sẽ khắc phục được
tính nhất thời và không phù hợp mục tiêu kế hoạch với sự đổi thay thường xuyên của môi
trường. Theo phương pháp này việc xây dựng và triển khai kế hoạch 5 năm sẽ không còn
mang tính chất “ thời vụ” mà nó tiếp tục được thời sự hóa để phù hợp với hoàn cảnh và
những yêu cầu mới đặt ra. Các chỉ tiêu kế hoạch sẽ đủ độ tin cậy cho các nhà quản lý và
lãnh đạo sử dụng với tư cách là công cụ định hướng vĩ mô nền kinh tế quốc dân, làm cho
kế hoạch thực hiện tốt chức năng tổ chức can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế thị
trường, đương đầu với khó khăn, biến động bất thường từ thế giới bên ngoài. Ngoài ra, do
các khuôn khổ 5 năm KH 5 năm kế tiếp nhau luôn có 4 năm kế hoạch trùng nhau nên tính
liên tục giữa các kế hoạch 5 năm, các chính sách, chương trình được thực hiện gối đầu giữa
các kế hoạch đó sẽ được đảm bảo.
Tóm lại xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm theo mô hình "cuốn chiếu" là thực sự
thích ứng trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Tuy vậy, đây là một
hướng tiếp cận rất mới. Để vận dụng thành công phương pháp này ở Việt Nam, phải có sự
chuẩn bị về mọi mặt, trong đó những vấn đề sau đây được nhấn mạnh:
Một là, thực hiện tốt chức năng “ tiếp cận từ trên xuống” của công tác kế hoạch hoá
bằng cách nâng cao chất lượng của dự bao kinh tế vĩ mô, sử dụng các công cụ, phương
pháp tính toán hiện đại và các mô hình kinh tế trong dự báo phát triển. Tăng cường cơ chế
phối hợp giữa các cơ quan Bộ KH&ĐT với các Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Ngân hàng,
Thống kê, các Bộ quản lý ngành và các cơ quan chức năng khác trong xây dựng kế hoạch.
Thay đổi hệ thống biểu mẫu, số liêu kế hoạch; phân công tổ chức lực lượng cán bộ kế
hoạch các cấp đảm bảo tính chất hoạt động thường xuyên của quá trình xây dựng và điều
hành kế hoạch 5 năm chứ không phải là cơ chế hoạt động mang tính thời vụ như hiện nay.
Hai là, để có bước chuyển tiếp hợp lý từ kế hoạch hoá theo mô hình thời kỳ cố định
sang phương thức "cuốn chiếu", trước mắt nên có sự thay đỏi trong cách thức quản lý hệ
thống kế hoạch 5 năm thời kỳ này. Công việc cụ thể là cần có sự cập nhật, hiệu chỉnh các
chi tiêu kế hoạch 5 năm sau mỗi năm thực hiện kế hoạch khi xét thấy có những biến đổi
đáng kể trong đời sống kinh tế. Các kế hoạch hàng năm phải có chức năng bổ sung cho kế
hoạch 5 năm và là công cụ phản ánh kế hoạch này.
Ba là, trong thời gian trước mắt có thể tổ chức triển khai thử nghiệm phương pháp
kế hoạch hoá kiểu "cuốn chiếu" cho một số lĩnh vức cụ thể.
PHẦN II
MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH 5 NĂM Ở VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KH 5 NĂM Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
1. Một số kế hoạch 5 năm ở nước ta.
Công tác kế hoạch hoá tiến hành ở Việt Nam đã được hơn 40 năm, cùng với việc
thành lập Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1995). Trong thời gian đó, công tác kế hoạch hoá luôn
luôn là công cụ chủ yếu của Nhà nước để quản lý kinh tế –xã hội và cũng đã từng bước đổi
mới. Quá trình hơn 40 năm kế hoạch hoá ở nước ta có thể chia ra thành hai giai đoạn lớn:
Giai đoạn trước năm 1986.
Nói đến công tác kế hoạch hoá thì chúng ta đã áp dụng phương pháp này ngay sau khi
cuộc kháng chiến chống Pháp thành công (1954) và cụ thể với kế hoạch khôi phục đất nước
sau chiến tranh (1955-1957) và kế hoạch cải tạo XHCN ở miền Bắc (1958- 1960). Tuy vậy,
nếu nói đến kế hoạch 5 năm thì chúng ta có kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đó là kế hoạch
1960-1965 và sau một thời gian gián đoạn do cuộc chiến tranh lan ra miền Bắc và cả nước
tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước( kế hoạch thời chiến 1965-1975), đất nước
hoàn toàn độc lập và tiếp tục công cuộc phát triển kinh tế-xã hội với kế hoạch 5 năm lầnII
(1976-1980) và kế hoạch 5 năm lầnIII (1981-1985). Do trong giai đoạn này nước ta áp dụng
cơ chế kế hoạch hoá tập trung theo mô hình của một số nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô,
Trung Quốc…nhưng do cơ chế đó không còn phù hợp kết hợp với sự dập khuôn trong xây
dựng hệ thống chỉ tiêu kế hoạch (đánh giá không đung thực trạng nền kinh tế, cách phân bổ
nguồn lực thiếu hợp lý, các chỉ tiêu kế hoạch chạy theo thành tích, quá thiên về chỉ tiêu hiện
vật và phần lớn là chỉ tiêu pháp lệnh…) do vây các kế hoạch 5 năm lầnI và lầnII không đạt
được mục tiêu, trong khi nền kinh tế đang dần rơi vào khủng hoảng.
Giai đoạn sau 1986 đến nay.
Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12-1986) đã xác dịnh đường lối đổi mới kinh tế với
nội dung cơ bản là phát triển sản xuất hàng hoá với sự tham gia của nhiều thành phần kinh
tế, dưới sự quản lý của Nhà nước bằng cơ chế chính sách, pháp luật và các công cụ khác
theo đinh hướng XHCN. Điều đó cũng có nghĩa là nền kinh tế chấp nhận thị trường, do vậy
lúc này kế hoạch hoá trở thành một công cụ hết sức cần thiết để Nhà nước điều tiết thị
trường. Với ý nghĩa kế hoạch là cương lĩnh thứ 2 của Đảng, Đại hôi Đảng VI đề ra phương
hướng, nhiêm vụ và mục tiêu cho kế hoạch 5 năm 1986-1990. Trải qua quá trình đổi mới và
phát triển nền kinh tế, cho đến nay đã có các kế hoạch 5 năm lầnV(1991-1995), kế hoạch 5
năm lần VI(1996-2000) và hiện nay chúng ta đang trong quá trình hoàn thành kế hoạch 5
năm lần VII (2001-2005).
2. Những nhận xét chung về tình hình xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm ở nước
ta.
2.1. Những hiệu quả đạt được.
Đối với thời kỳ trước những năm 1986.
Trong thời kỳ 1955 đến 1985, chúng ta đã qua những mốc lớn như các kế hoạch
khôi phục và phát triển kinh tế, thực hiện cải tạo XHCN ở miền Bắc, rồi chuyển sang kế
hoạch thời chiến, tiếp đó là kế hoạch xây dựng và phát triển kinh tế trên phạm vi cả nước.
Có thể nêu một số nhận xét về công tác kế hoạch hoá thời kỳ đó như sau:
Cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh đã quán triệt đường lối cải tạo, xây dựng và phát triển
kinh tế cũng như đường lối kinh tế của Đảng theo nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa do
các nghị quyết của Đảng xác định trong thời gian đó.
Cơ chế kế hoạch hoá pháp lệnh có nhiều khuyết tật như bây giờ chúng ta nhìn lại và dễ
dàng nhìn thấy. Thế nhưng, phải thừa nhận rằng trong những năm đó, ở miền Bắc đã có
đóng góp đáng kể như: khôi phục, phát triển kinh tế xã hội; nâng cao một bước đời sống
của các tầng lớp nhân dân lao động; xây dựng được một số công trình công nghiệp, giao
thông, giáo dục, văn hoá, y tế có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất và đời sống nhân dân
( dù rằng có công trình xây dựng quá tốn kém ); đảm bảo quốc phòng an ninh v v Trong
thời gian cả nước có chiến tranh, công tác kế hoạch hoá đã có những đóng góp đáng kể về
tổ chức quản lý nền kinh tế thời chiến, bảo đảm ổn định hậu phương miền Bắc trong cuộc
chién tranh phá hoại hết sức ác liệt, làm tròn nghĩa vụ chi viện cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, mang lại những ý nghĩa hết sức to lớn trong việc hoàn
thành cá mục tiêu chiến lược qua những chặng đường lịch sử của đất nước, hoàn thnàh
nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Đối với giai đoạn sau thời kỳ đổi mới.
Từ cuối những năm 80, cùng với quá trình đổi mới toàn diện nền kinh tế, từ kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, công tác
kế hoạch hoá không bị xem nhẹ mà vẫn được vận dụng có kết quả theo hướng đổi mới, phù
hợp với điều kiện và yêu cầu mới. Cùng với quá trình đổi mới kinh tế nói chung, hệ thống
kế hoạch cũng có những đổi mới quan trọng và cơ bản về nội dung phương pháp cũng như
cách thức của các loại hình kế hoạch trong đó có kế hoạch định hướng phát triển kinh tế-
xã hội 5 năm.
Những kết qủa đổi mới đó đã được Thủ tướng Võ Văn Kiệt đánh giá trong dịp kỷ
niêm 40 năm ngày thành lập Uỷ ban Kế Hoạch Nhà nước (tháng 10 năm 1995); “ Gần 10
năm từ sau năm 1986 là thời kỳ chuyển tiếp, từng bước thay đổi hệ thống cơ chế quản lý cũ
bằng cơ chế quản lý mới. Đến nay một phần quan trọng đã xoá bỏ thể chế kế hoạch hoá tập
trung, hình thành bước đầu những đường nét của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách khác. Mặc
dầu mô hình kế hoạch mới , “kế hoạch hoá hướng dẫn gắn với vận dụng nguyên tắc thị
trường” còn chưa hoàn thiện, nhưng đã bắt đầu phát huy tính đúng đắn trong sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội … Nhờ đó đã góp phần quan trọng hoàn thành toàn diện và vượt mức
các mục tiêu kế hoạch chủ yếu đã đề ra về tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước, tăng sản
xuất lương thực, tăng kim ngạch xuất khẩu, huy động vốn đầu tư trong nước và nước ngoài,
kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị tiền tệ, thu hẹp mất cân đối ngân sách, giảm mức tăng
dân số, cải thiện phần đời sống của phần lớn hộ gia đình…
2.2. Một số vấn đề tồn tại.
Mặc dù việc đổi mới kế hoạch hoá trong thời gian qua có tiến bộ đáng kể nhưng do
nhiều lý do, kết quả đổi mới của kế hoạch hoá còn hạn chế, thậm chí ở cả trung ương và địa
phương xu hướng giữ lại hoặc trở lại kế hoạch hoá kiểu cũ vẫn còn khá mạnh, ngay trong
một bộ phận của Nhà nước và một phần dư luận của công chúng không khí bao cấp còn
nặng. Vấn đề đổi mới kế hoạch hoá gắn bó rất chặt với đổi mới quản lý Nhà nước, do vậy
nếu không giải quyết đồng bộ thì đổi mới kế hoạch hoá không dễ dàng đi vào cuộc sống.
Quá trình đổi mới kinh tế trong thời gian qua đã giảm bớt sự bao cấp trong nền kinh
tế, đặc biệt là bao cấp trong ngân sách, song một số hình thức bao cấp khác lại xuất hiện ở
những lĩnh vực khác như: khoanh nợ, xoá nợ, cấp đất,… Những nội dung bao cấp này
thường được thể hiện trong nội dung kế hoạch hoặc hoạt động điều hành kế hoạch.
Nhiều văn bản chính sách đã khẳng định chuyển hướng từ kế hoạch hiện vật sang kế
hoạch định hướng song trên thực tế nội dung kế hoạch vẫn chưa chú ý đúng mức đến những
cân đối lớn của toàn nền kinh tế, một số Bộ, địa phương vẫn coi trọng những dự án, những
chương trình cụ thể. Xu thế “kế hoạch hiện vật” và ỷ lại vào cấp trên có chiều hướng gia
tăng: các địa phương, các ngành cố gắng xin thật nhiều dự án, nhiều chương trình; những
phần đóng góp vào ngân sách cho nền kinh tế không tương xứng với vốn đầu tư được bổ
sung. Mặt khác, kế hoạch không chỉ chịu sự ảnh hưởng của các cơ quan trong hệ thống mà
còn chịu sự tác động của nhiều tổ chức khác ngoài hệ thống kế hoạch, điều đó làm cho kế
hoạch, đặc biệt là kế hoạch đầu tư càng bị phân tán hơn. Bên cạnh đó, kế hoạch còn phải
thông qua quá nhiều cấp nên thường có xu thế “chia đều”, tiếp tục tác động làm tăng sự
phan tán đồng thời làm giảm hiệu quả của đầu tư.
Các thông tin kinh tế-xã hội không chính xác, thiếu ăn khớp và không được phân
tích đầy đủ trong quá trình xây dựng kế hoạch đã làm cho nội dung kế hoạch nhiều khi
không phù hợp với thực tế. Nguồn lực thường được đánh giá cao, nhu cầu thị trường trong
nước và nước ngoài không được dự bao chính xác với sự nóng vôi, chủ quan đã làm cho nội
dung kế hoạch phần nào còn mang tính duy ý chí.
Hiện nay vẫn còn không ít hạn chế bắt nguồn từ bản chất của nền kinh tế chuyển đổi, từ
sự sơ khai của các loại thị trường, năng lực của Nhà nước và những yếu kém của hệ thống
kế hoạch. Những yếu kém này không thể khắc phục trong một thời gian ngắn, song đòi hỏi
sự kiên trì đổi mới kinh tế kết hợp với cải cách hành chính để nâng cao hiệu quả hoạt động
của cả thị trường lẫn kế hoạch đẻ góp phần phát triển kinh tế, nâng cao mức sống vật chất
và tinh thần trong xã hội. Những vấn đề đáng lưu ý ở đây là: chất lương kế hoạch còn thấp;
kế hoạch hoá chưa bao quát toàn bộ nguồn lực phát triển trong nền kinh tế; việc huy động
tiềm năng còn hạn chế, tỷ lệ tiết kiệm còn thấp; chưa nắm bắt được những diễn biến tình
hình kinh tế-xã hội từng vùng, đặc biệt vung sâu, vùng xa; các cơ chế, chính sách chậm
chiển khai, chưa theo kịp các mục tiêu kế hoạch, các chính sách còn chưa ổn định và thiếu
nhất quán và việc điều hoà, phối hợp giữa các công cụ trong điều hành còn nhiều lúng túng
nên hiệu quả chưa cao…
II. SỰ CẦN THIẾT ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN KẾ HOẠCH 5 NĂM Ở VIỆT NAM
1. Những nguyên nhân chủ quan của việc đôi mới.
Kể từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành nền kinh tế nước ta đã có một diện mạo
mới. Chấp nhận thị trường, điều đó buộc Nhà nước ta phải có những công cụ đủ mạnh để có
thể điều tiết được thị trường, hướng nền kinh tế đi theo những định hướng đã chọn. Do vậy,
khi trình độ phát triển của thị trường ngày càng phát triển, bằng những quy luật kinh tế của
mình thị trường đang dần chi phối tất cả các lĩnh vực kinh tế –xã hội thì vấn đề đổi mới các
công cụ điều tiết thị trường trở nên hết sức cần thiết, và đổi mới hoàn thiện công tác kế
hoạch hoá nền kinh tế quốc dân mà cụ thể hơn là đổi mới KH 5 năm PTKT-XH sẽ giải
quyết được yêu cầu trên.
Thực tế những thất bại của các KH 5 năm trước đó đã chứng minh rằng một số cách
thức xây dựng và và quản lý kế hoạch 5 năm đã không còn hiệu quả vaới một nền kinh tế
đầy biến động như hiện nay. Điều đó buộc chúng ta phải không ngừng nghiên cứu các
phương thức xây dựng và quản lý mới để áp dụng cho nền kinh tế nước ta.
2. Những nguyên nhân khách quan bên ngoài.
Trước tiên đó là xu thế hội nhập các nền kinh tế trong khu vực và thế giới đòi hỏi sự mở
cửa nền kinh tế, chính điều này buộc chúng ta phải đương đầu với những áp lực từ bên
ngoài và lúc này nền kinh tế phải chịu sự chi phối của nền kinh tế khu vực và cả thế giới.
Để nền kinh tế có thể vững vàng tham gia vào hội nhập buộc chung ta phải thay đổi cách
thức cũng như mức độ can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế do vậy đổi mới công tác kế
hoạch hoá là một yêu cầu đối với Nhà nước ta.
Thực tế một số nước trên thế giới đã rất thành công với các phương pháp xây dựng và
quản lý kế hoạch 5 năm kiểu mới đặc biệt là sử dụng phương pháp “cuốn chiếu” như Cộng
hoà Pháp; Nhật Bản,Đức hay gần nhất là Trung Quốc…
Điều đó buộc chúng ta không thể không thử nghiệm áp dụng vào nền kinh tế nước nhà
đúng vào khi chúng ta đang tìm một sự đổi mới trong công tác kế hoạch hoá.
PHẦN III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI KẾ HOẠCH 5 NĂM Ở VIỆT NAM
I. QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI.
1. Quan điểm đổi mới.
Trước tiên có thể nói quan điểm đổi mới của kế hoạch 5 năm cũng nằm trong quan
điểm đổi mới công tác kế hoạch mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
- Quan đổi mới và hoàn thiện công tác kế hoạch hoá phải đặt kế hoạch hoá trong cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN:
Như vậy, đổi mới kế hoạch hoá phải ăn khớp với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nói
chung, phù hợp với quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Việc sử dụng công cụ kế hoạch hoá phải phú hợp với cơ chế thị trường.
- Đổi mới cong tác kế hoạch hoá trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện
đại hoá đất nước với hội nhập quốc tế:
Kế hoạch hoá phải đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết nền kinh tế phù hợp
với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá ngày càng gia tăng đối với nền kinh tế Việt Nam.
- Đổi mới kế hoạch hoá phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa phát triển kinh tế
với tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tién bộ và công bằng
xã hội. Các chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hoá. Công tác kế
hoạch hoá phải góp phần thiết thực giải quyết tốt một số vấn đề cấp bách như: xoá đói giảm
nghèo, thất nghiệp…
- Đổi mới toàn diện hệ thống kế hoạch hoá kinh tế vĩ mô trong đó đổi mới và hoàn
thiện kế hoạch 5 năm làm nhiệm vụ trọng tâm. Đổi mới để kế hoạch 5 năm thực sự là công
cụ trung tâm trong hệ thống kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội .
2. Phương hướng đổi mới.
Phương hướng đổi mới kế hoạch 5 năm là tiến hành đổi mới toàn diện từ quá trình
thu thập thông tin lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch và khiểm tra, giám sát và đánh giá việc
thực hiện cũng như KH 5 năm PTKT-XHết quả của kế hoạch 5 năm.
Tiến hành áp dụng thử nghiệm phương thức xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm
kiểu: “cuốn chiếu” cho Việt Nam trong một số ngành (theo kinh nghiệm của một số nước
thông thương việc thí điểm được bắt đầu từ lĩnh vực ngân sách).
II. NỘI DUNG ĐỔI MỚI.
1. Đổi mới về tư duy và nhận thức về công tác kế hoạch hoá.
Vấn đề đổi mới tư duy và nhận thức không chỉ là vấn đề của đổi mới công tác kế
hoạch mà còn là vấn đề cần đổi mới của toàn bộ nền kinh tế kể từ khi công cuộc đổi mới
được tiến hành. Tư duy và nhận thức của một thời kỳ bao cấp kéo dài vẫn còn tồn tại trong
cách thức làm việc ở một số cán bộ trong bộ máy Nhà nước đặc biệt là những cán bộ có liên
quan đến công tác kế hoạch. Do vây vấn đề đổi mới tư duy và nhận thức về công tác kế
hoạch là công việc hết sức quan trọng và cần thiết phải tiến hành trước tiên trong công cuộc
đổi mới kế hoạch hoá nói chung và kế hoạch 5 năm nói riêng. Bời vì nếu tư duy và nhận
thức của đội ngũ lập kế hoạch còn nặng tư tưởng và cách thức làm việc kiểu bao cấp sẽ tạo
ra những kế hoạch không những không giúp Nhà nước quản lý nền kinh tế mà còn kìm hãm
quá trình phát triển kinh tế dẫn tới tụt hậu, lệch khỏi mục tiêu định hướng của nền kinh tế xã
hội.
2. Đổi mới phương thức xây dựng và quản lý kế hoạch 5 năm.
2.1. Đổi mới trong công đoạn lập kế hoạch.
Trong công đoạn này chúng ta tiến hành đổi mới từ quá trình thu thập, sử lý thông tin.
Cần cập nhật thường xuyên thông tin, sử lý thông tin bằng các phương pháp khác nhau và
bằng những công cụ tiên tiến từ đó có những dự báo về các hiện tượng kinh tế xã hội có
chất lượng tốt nhất.
Trong quá trình xây dựng hệ thống chỉ tiêu, mục tiêu cần dựa vào những căn cứ khoa
hoc, những quy luật kinh tế –xã hội và những thông tin có được. Không được chạy theo xu
hướng thành tích từ đó đặt ra những mục tiêu qua cao hay quá thấp xa rời thực tế, xa rời
mục tiêu chung của cấp kế hoạch cao hơn ( chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy
hoach phát triển ).
Trong quá trình phác thảo các kế hoạch thực hiện cần có nhiều phương án khác nhau để
đối phó với những thay đổi bất ngờ khách quan.
Cần phân tích các chính sách hiện hành từ đó hoàn thiện các chính sách hiện hành và đề
xuất các chính sách giải pháp mới.
2.2 Trong công đoạn tổ chức và thực hiên kế hoạch.
Trước hết để hoàn thành các mục tiêu đã đề ra thì mọi cá nhân cơ quan ban ngành có liên
quan đến quá trình thực hiện kế hoạch cần tuyệt đối trung thành với những công việc của
từng bộ phận cụ thể. Cần tiến hành các công việc đúng tiến độ, đúng chất lượng và đảm
bảo hiệu quả kinh tế –xã hội cao nhất có thể. Trong phân công tổ chức thực hiên cần bố trí
đúng người đúng việc, tránh sự trùng lặp công việc, chức năng quyền hạn cũng như nghĩa
vụ.
Trong quá trình thực hiện cần liên kết chặt chẽ giữa các kế hoạch theo ngành, địa phương
và vùng lãnh thổ với nhau, từ đó phát huy sức mạnh của toàn xã hội vào thực hiện từ đó
tạo thành hệ thống kế hoạch tổng thể kinh tế quốc dân.
Kế hoạch kinh tế quốc dân là kế hoạch cho mọi thành phần kinh tế trong xã hội két quả
của viêc thực hiện kế hoạch phụ thuộc vào sự huy động mọi nguồn lực toàn xã hội, phụ
thuộc vào sự nỗ lực của các tầng lớp trong xã hội. Chính vì vậy, quá trình xây dựng và điều
hành thực hiện kế hoạch cần có sự tham gia của mọi giới, mọi ngành đặc biệt là giới khoa
học và doanh nghiệp.
2.3 Trong giám sát, đánh giá thực hiện kế hoạch.
Trong giám sát đánh giá cần chú ý mọi công đoạn của việc thực hiện kế hoạch, khi có
những biểu hiện lệch hướng mục tiêu hay có những tác động nhiễu cần đề xuất giải pháp
can thiệp kịp thời.
Cần giám sát, đánh giá trung thực, thẳng thắn nêu ra những tồn tại, hạn chế tình trạng
bao che từ đó xem lại vấn đề và rut ra bài học cho những lần sau.
III. CÁC KIẾN NGHỊ
1. Cần hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính sách, pháp luật tạo điều kiện thuận lợi cho
công cuộc đổi mới kế hoạch hoá nói chung và KH 5 năm PTKT-XH nói riêng.
2. Cần coi công cuộc đổi mới nền kinh tế là của toàn dân, do vậy toàn dân cũng phải tích
cực tham gia hoàn thành các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
3. Nhà nước ta không ngừng tạo điều kiện thuận lợi cho việc đào tạo trình độ chuyên
môn về lĩnh vực kế hoạch cho các cán bộ kinh tế nhất là đội ngũ cán bộ kế hoạch. Nhà
nước tạo điều kiện cho việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào tất cả quá trình
của kế hoạch hoá.
4. Công cuộc đổi mới sẽ thực sự thành công nếu nhận được sự ủng hộ của mọi thành
phần kinh tế nhất là đội ngũ lãnh đạo, những người có quyền quyết định, phê duyệt
các bản kế hoạch … Do vậy cần phổ biến rộng thông tin cũng như những kiến thức
của công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới công tác kế hoạch hoá nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình KHH PTKT - XH (Trường ĐH KTQD - Khoa KHPT)
NXB Thống kê
2. Kế hoạch hoá Kinh tế vĩ
3. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ ĩ
4. Kế hoạch hoá và quan hệ thị trường
5. Nghị quyết quốc hội về nhiệm vụ 1997 + Kế hoạch 5 năm 1996-2000
6. Kinh nghiệm kế hoạch hoá và quản lý ở Hàn Quốc
7. Từ kế hoạch hoá đến thị trường - sự chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam
8. Bàn về kế hoạch hoánền kinh tế quốc dân
9. Những biến đổi nền kinh tế kế hoạch hoá
10. Một số tạp chí
- Tạp chí kinh tế và dự báo
Số 9, 6, 3, 1 năm 2003
Số 6, 10, 11 năm 2002
Số 1,4, 57, 12 năm 2001
- Tạp chí Kinh tế và phát triển
Số 63 Tháng 9/2002
Số 66 Tháng 12/2002
Số 84 Tháng 6/2004
- Tạp chí nghiên cứu kinh tế
Một số tài liệu tham khảo khác…