Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

80 nam lich su Dang CSVN-Hang.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.82 KB, 10 trang )

TRẢ LỜI CUỘC THI
TÌM HIỂU VỀ "80 NĂM LỊCH SỬ VẺ VANG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM"
Câu 1: Đảng Cộng sản Việt Nam do ai sáng lập, vào thời gian nào và được
thành lập trên cơ sở hợp nhất những tổ chức cộng sản tiền thân nào?
Vào năm 1929, những hoạt động tích cực của Hội Việt Nam Cách mạng thanh
niên đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Việt Nam. Nhưng do hạn chế về
năng lực lãnh đạo, phần vì nội bộ có sự phân hóa nên Hội không đủ sức lãnh đạo phong
trào. Yêu cầu đòi hỏi bức xúc lúc này là phải có một chính đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo. Một số người tiên tiến trong tổ chức Hội nhận thức được rằng phải giải thể
"Thanh niên", thành lập Đảng Cộng sản, tuy nhiên một số khác chủ trương vẫn duy trì
Hội "Thanh niên".
Tháng 5 năm 1929 tại Hương Cảng (Trung Quốc), Đại hội lần thứ nhất của Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên được tiến hành. Trong Đại hội, vấn đề thành lập Đảng
được thảo luận, nhưng không thống nhất. Đoàn đại biểu Bắc kỳ rút khỏi Đại hội về
nước, ra tuyên bố lý do rút khỏi Đại hội và kêu gọi công nhân, nông dân, các tầng lớp
nhân dân cách mạng ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản. Ngày 17 tháng 6 năm
1929, Đông Dương Cộng sản Đảng được thành lập tại 312 Khâm Thiên - Hà Nội. Tổ
chức này phát triển ở Bắc Kỳ và cử người vào Trung kỳ, Nam kỳ vận động thành lập
Đảng Cộng sản trong cả nước.
Do sự phân hóa của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội và ảnh hưởng
của Đông Dương Cộng sản Đảng, các đồng chí lãnh đạo trong Tổng bộ và Kỳ bộ Nam
kỳ cũng tuyên bố giải tán "Thanh niên" và thành lập An Nam Cộng sản Đảng vào
khoảng tháng 11 năm 1929 tại Khánh Hội, Sài Gòn.
Ngày 1 tháng 1 năm 1930 tại huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, các đồng chí trong Tân
Việt ở Trung kỳ tuyên bố giải tán Đảng Tân Việt để thành lập Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn.
Người dự thi : Hoàng Thị Thu Hằng
Đơn vị: Trường THCS Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội
Việc thống nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam
là đòi hỏi bức thiết của cách mạng. Thấy rõ tình hình này, năm 1929, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đang hoạt động ở Thái Lan đã trở lại Hương Cảng chuẩn bị kế hoạch tổ chức Hội


nghị hợp nhất các tổ chức Đảng Cộng sản trong nước.
Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản
họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái
Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập Đảng và đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông
qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng do đồng chí
Nguyễn Ái Quốc dự thảo. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9/1960) đã quyết định lấy
ngày 3-2-1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử
cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về lãnh đạo cứu nước kéo dài
mấy chục năm.
Câu 2: Theo học thuyết Mác - Lênin, một Đảng Cộng sản ra đời từ sự kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
từ sự kết hợp những yếu tố nào, tại sao?
Học thuyết Mác - Lênin chỉ rõ quy luật ra đời của Đảng Cộng sản nói chung cần
có 02 yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin và Phong trào công nhân.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp 3 yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin,
phong trào công nhân, phong trào yêu nước. Đây là sự vận dụng và phát triển sáng tạo
học thuyết Mác - Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến và có truyền thống yêu nước từ hàng ngàn năm.
Sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết về sự ra đời của Đảng Cộng sản dựa
trên căn cứ lý luận và điều kiện lịch sử cụ thể:
Một là, sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp thực hiện chính sách khai khác
tài nguyên, bóc lột sức lao động, chỉ xây dựng một số nhà máy trực tiếp phục vụ cho
chính sách khai thác. So với nhiều nước trên thế giới và khu vực, giai cấp công nhân
Việt Nam ra đời chậm và nhỏ bé. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ nhất (1897 - 1914).
Hai là, từ khi thực dân Pháp xâm lược đất nước ta, phong trào đấu tranh chống
thực dân Pháp liên tục diễn ra. Phong trào yêu nước chống Pháp có trước phong trào
công nhân. Phong trào yêu nước chống Pháp đã nuôi dưỡng lòng yêu nước và tinh thần
dân tộc trong các tầng lớp nhân dân, trong công nhân. Mục tiêu đấu tranh trước mắt của

phong trào công nhân phù hợp với mục tiêu của phong trào yêu nước là đánh đổ thực
dân Pháp, đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Do đó, vào cuối những năm
30 của thế kỷ XX, phong trào yêu nước dần dần trở thành một bộ phận của cuộc đấu
tranh chống thực dân Pháp.
Ba là, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người đã đi từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình tìm đường cứu nước,
Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và từ đó Người đã dày công truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào nước ta, vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925) bao gồm những chiến sỹ
yêu nước để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước là hiện thân của sự kết
hợp ba yếu tố ngay từ những bước chuẩn bị ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân,
phong trào yêu nước đã giúp Đảng ta ngay từ khi mới ra đời phát huy được truyền
thống yêu nước, đoàn kết được các lực lượng cách mạng và nhờ đó giữ được quyền
lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam tuyển lựa đảng viên không những
trong phong trào công nhân mà còn chọn những phần tử tiên tiến giác ngộ chủ nghĩa
cộng sản trong nông dân lao động, trí thức và trong phong trào yêu nước.
Câu 3: Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta trải qua các kỳ Đại hội nào, được
tổ chức thời gian nào, tại đâu?
Sau Cao trào cách mạng Xô Viết - Nghệ Tĩnh năm 1930 - 1931, thực dân Pháp
dùng mọi thủ đoạn đàn áp. Một mặt, dùng bom đạt triệt hạ làng mạc để khủng bố tinh
thần đấu tranh của quần chúng; mặt khác, dùng âm mưu lừa phỉnh để xoa dịu quần
chúng hòng tách quần chúng ra khỏi ảnh hưởng của Đảng.
Từ đầu năm 1931, cơ quan Trung ương Đảng, rồi lần lượt đến các cơ quan xứ
uỷ, tỉnh ủy, huyện ủy đều bị địch khủng bố ngày càng quyết liệt. Cán bộ, đảng viên
bị bắt, bị tù đày. Hệ thống tổ chức Đảng bị địch vây bắt và phá vỡ. Lúc này thiếu
một cơ quan đầu não để thống nhất chỉ đạo trong toàn Đảng. Được sự chỉ đạo của
Quốc tế cộng sản, Ban Chỉ huy ở ngoài nước được thành lập vào đầu năm 1934 tại
Ma Cao (Trung Quốc) đứng đầu là đồng chí Lê Hồng Phong. Sau khi hệ thống tổ
chức Đảng được xây dựng lại, phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển, Ban

chỉ huy ở ngoài nước đã quyết định triệu tập Đại hội Đảng lần thứ nhất.
Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng (từ ngày 27 đến 31-3-1935). Đại hội lần thứ
nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng. Đại hội đánh dấu sự khôi phục được hệ
thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước;
thống nhất phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (từ ngày 11 đến 19-2-1951).
Dưới ánh sáng của đường lối Đại hội lần thứ II của Đảng và các nghị quyết hội nghị
Trung ương, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cải cách ruộng đất ngay trong
chiến tranh, đẩy mạnh cuộc kháng chiến, giành nhiều thắng lợi trên các chiến trường cả
nước trong chiến dịch Đông-Xuân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động
địa cầu, đưa đến thắng lợi hội nghị Giơnevơ, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề
vững chắc để tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (từ ngày 5 đến 10-9-1960).
Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hoà bình thống nhất nước
nhà.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (từ ngày 14 đến 20-12-1976):
Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (từ ngày 27 đến 31-3-1982). Đại hội
khẳng định: “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ
mật thiết với nhau. Xây dựng chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt
thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững
chắc Tổ quốc. Ngược lại có tăng cường phòng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có
điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (từ ngày 15 đến 18-12-1986):
Đại hội đề xướng và lãnh đạo thành công sự nghiệp Đổi mới. Đại hội VI đã đưa ra quan
điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy
luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp. Phải xuất phát từ thực tế của nước ta

và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là
một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây
dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (từ ngày 24 đến 27-6-1991):
“Đại hội trí tuệ - đổi mới, dân chủ, kỷ cương - Đoàn kết”. Đại hội VII có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng, không chỉ quyết định những nhiệm vụ chính trị nặng nề trước mắt, mà cả
con đường, bước đi của cách mạng nước ta trong những thập niên tiếp theo. Đó là quyết
tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (từ ngày 28-6 đến 1-7-
1996). Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng “có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước
ta”. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (từ ngày 19 đến 22 tháng 4
năm 2001). Đại hội IX của Đảng đã đánh giá về chặng đường 71 năm lãnh đạo cách
mạng Việt Nam, tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, 15 năm đổi mới, 10
năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm của công
cuộc đổi mới, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất
nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Đại hội IX có nhiệm vụ kiểm điểm sự lãnh
đạo của Đảng, đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng ta ngang tầm với đòi hỏi
của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung Điều lệ Đảng, bầu ra Ban Chấp hành
Trung ương mới.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam - Đại hội của
trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững - họp từ ngày 18-4-2006 đến ngày 25-
4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để
kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm,
đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX
của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2001 – 2005), chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) và nhìn lại 20 năm đổi mới; từ đó tiếp
tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây
dựng Đảng; bổ sung sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng…
Câu 4: Hội nghị Trung ương lần thứ mấy của Đảng ta năm 1941 quyết định
đường lối giải phóng dân tộc trong Cách mạng Tháng Tám? Nêu thời gian và địa
điểm tiến hành hội nghị đó?
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Ngày 3 tháng 9 năm
1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức. Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ và ảnh
hưởng sâu sắc đến tình hình ở Đông Dương. Trước nguy cơ chiến tranh thế giới đến
gần, Đảng ta chủ trương chuyển toàn bộ tổ chức Đảng vào hoạt động bí mật. Đảng bố
trí một số cán bộ, đảng viên ở lại thành phố, còn phần lớn chuyển về hoạt động ở nông
thôn.
Bước vào năm 1941, trước diễn biến phức tạp của tình hình Đông Dương và thế
giới, đồng chí Nguyễn Ái Quốc nhận thấy cơ hội cứu nước đang đến gần nên đã quyết
định về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Khi về đến Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (Khóa I) tại Khuổi
Nậm, Pắc Bó (Cao Bằng) từ ngày 10 - 19/5/1941. Hội nghị quyết định chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược: giương cao hơn nữa ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ
chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu; coi nhiệm vụ trung tâm của cách mạng
là chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị TW 8 đã giải quyết
hoàn chỉnh mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và dân chủ. Hội nghị nêu
rõ: "Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, giải phóng dân tộc,
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia
dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng không đòi lại được".
Để tập hợp và động viên các tầng lớp nhân dân đông đảo đứng lên làm cách mạng
giải phóng dân tộc, Hội nghị quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt
là Việt Minh.
Câu 5: Đại hội Đảng lần thứ mấy quyết định nước ta tiến hành đồng 2 chiến

lược cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng
miền Nam? Nêu nội dung cơ bản của đường lối chiến lược này?
Sau khi Hiệp định Giơ - ne - vơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng,
bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế. Theo Hiệp định Giơ - ne - vơ, từ vĩ
tuyến 17 trở vào tạm thời do thực dân Pháp chiếm đóng trong vòng 2 năm, sau đó Pháp
sẽ rút khỏi miền Nam để đi đến hiệp thương thông nhất đất nước. Nhưng với dã tâm
xâm lược nước ta, đế quốc Mỹ đã từng bước thay chân Pháp chiếm đóng miền Nam
hòng biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960), trên cơ sở
phân tích âm mưu của đế quốc Mỹ đối với miền Nam, phân tích đặc điểm tình hình của
cách mạng nước ta, vận dụng lý luận "cách mạng không ngừng" của chủ nghĩa Mác Lê-
nin vào đường lối cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định: vào thời hai nhiệm vụ
chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam,
hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa nhân dân ở miền Nam.
Thực hiện đường lối chiến lược do Đại hội III đề ra, miền Bắc ra sức thi đua lao
động sản xuất chi viện sức người, sức của cho miền Nam. Sau 20 năm đấu tranh ngoan
cường, đánh bại mọi âm mưu xảo quyệt của đế quốc Mỹ, mùa xuân năm 1975, với
thắng lợi vĩ đại của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân dân ta đã giải phóng hoàn
toàn miền Nam, hoàn thành nhiệm vụ chiến lược giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước do Đại hội III đề ra.
Câu 6: Đại hội lần thứ mấy của Đảng ta định hướng ra đường lối đổi mới đất
nước? Nêu nội dung chính của đường lối đó?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18
tháng 12 năm 1986 đề ra đường lối đổi mới. Nội dung cơ bản của đường lối đổi mới về
kinh tế và chính trị thể hiện rõ nét trên một số nội dung sau đây:
Một là, từ mô hình kinh tế hiện vật chỉ có hai thành phần kinh tế (nhà nước và tập
thể) sang mô hình mới là kinh tế hàng hoá nhiều thành phần (nhà nước, tập thể, cá thể
tiểu chủ, tư bản tư nhân, tư bản nhà nước), trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo trong sự thống nhất biện chứng với tính đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng các
hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.

Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự
phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Hai là, từ mô hình quản lý kinh tế theo cơ chế bao cấp sang mô hình quản lý kinh
tế theo cơ chế thị trường. Điểm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế là xoá bỏ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp, hình thành tương đối đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý
Nhà nước.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu, với phương pháp
quản lý hành chính mệnh lệnh, sang dân chủ hoá các lĩnh vực của đời sống xã hội, thực
hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng pháp luật, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm ba bộ phận cấu thành: Đảng,
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Câu 7: Trình bày 5 bài học lớn của cách mạng Việt Nam và quan niệm về
Chủ nghĩa xã hội của Đảng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991?
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra tại Hà Nội từ ngày 24 đến
ngày 27 tháng 6 năm 1991 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Cương lĩnh đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng nước ta; xác định 7
phương hướng cơ bản chỉ đạo quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt Cương
lĩnh đã nêu lên 6 đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã xây dựng như sau:
* 5 bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường sự đoàn kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn
kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đai, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
* 6 quan niệm về Chủ nghĩa xã hội của Đảng trong Cương lĩnh 1991:

Một là, Do nhân dân lao động làm chủ.
Hai là, Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Ba là, Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc.
Bốn là, Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân.
Năm là, Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Sáu là, Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Câu 8: Chi bộ Đảng đầu tiên của huyện Đan Phượng ra đời vào ngày, tháng,
năm nào ? Có mấy Đảng viên? Ai là bí thư? Đảng bộ huyện Đan Phượng đã trải
qua bao nhiêu kỳ đại hội ? Hiện nay, huyện Đan Phượng có bao nhiêu tổ chức cơ
sở Đảng?
Ngày 28/8/1945 tại trụ sở huyện, chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của huyện được
thành lập có 4 đảng viên là các đồng chí : Nguyễn Việt, Phan Thị Hiền, Tạ Mạnh Dũng
và Nguyễn Văn Tạo.
Đồng chí Nguyễn Việt được bầu làm Bí thư chi bộ, đồng chí Phạm Thị Hiền
được bầu làm phó bí thư.
Từ khi thành lập chi bộ Đảng đầu tiên, đến nay Đảng bộ huyện Đan Phượng đã
trải qua 21 kỳ Đại hội.
Hiện nay toàn huyện có 56 tổ chức cơ sở Đảng, trong đó có 15 đảng bộ xã, 01
đảng bộ thị trấn, 02 đẳng bộ cơ quan đơn vị sự nghiệp, 02 đảng bộ lực lượng vũ trang
và 36 chi bộ cơ sở trực thuộc Huyện ủy. Đến ngày 19/01/2010 toàn huyện có 4.689
đảng viên.
Câu 9: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về thăm Huyện Đan Phượng mấy lần ?
Ngày, tháng, năm nào ? Ở đâu ?
Bác Hồ đã về thăm và làm việc ở Huyện Đan Phượng 4 lần:
Lần thứ 1: Ngày 23/7/1959, Bác Hồ tới thăm kè Liên Trì, xã Liên Trung
Lần thứ 2: Ngày 25/11/1961, Bác Hồ về thăm nhân dân xã Song Phượng gặt lúa
mùa.

Lần thứ 3: Ngày 22/5/1962, Bác Hồ về thăm nhân dân xã Tân Lập thu chiêm
làm mùa.
Lần thứ 4: Ngày 17/7/1962, Bác Hồ về làm việc tại Đập Đáy và thăm Trạm bơm
Đan Hoài.
Câu 10: Giới thiệu tấm gương Đảng viên tiêu biểu trong những năm đổi mới
ở địa phương hoặc nơi công tác, học tập mà ông, bà, anh, chị, đồng chí tâm đắc
nhất; hoặc trình bày suy nghĩ, cảm xúc của bản thân về lịch sử vẻ vang của Đảng
ta và vai trò to lớn của Đảng đối với tương lai tươi sáng của đất nước, dân tộc Việt
Nam (trả lời một trong hai nội dung; mỗi nội dung không quá 1500 chữ). Theo
ông, bà, anh, chị, đồng chí cuộc thi này có bao nhiêu người tham gia và có kết quả
dự đoán đùng như bạn ?
Những suy nghĩ, cảm xúc của bản thân về lịch sử vẻ vang của Đảng và vai trò to
lớn của Đảng đối với tương lai tươi sáng của đất nước, dân tộc Việt Nam.
Tôi là một Đảng viên trẻ Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua quá trình học tập rèn
luyện công tác, tôi đã nhận thức thấy Đảng Cộng sản Việt Nam với lịch sử 80 năm qua
thật sự vẻ vang. Đảng lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác; đã
đánh thắng đế quốc Pháp, đế quốc Nhật giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị lầm than,
đưa dân tộc ta đứng dậy thoát khỏi thuộc địa và có tên trên bản đồ thế giới, được tự do
độc lập; Đảng ta tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ giải phóng miền
Nam thống nhất đất nước, đưa nước ta đi lên CNXH; lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
công cuộc đổi mới, sau gần 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đã thu được nhiều kết
quả rất đáng phán khởi, đã khẳng định con đường đi lên CNXH và công cuộc đổi mới
của Đảng ta thực sự đáng phấn đấu là ý Đảng, lòng dân. Qua đổi mới Đảng ta ngày
càng lớn mạnh dân ta ngày càng no ấm, cơ sở hạ tầng ngày một được nâng cao, văn
minh, hiện đại; Đảng ta và dân tộc ta đã ngày càng được các quốc gia, dân tộc và nhân
dân thế giới biết đến và cảm phục; Việt nam đã có quan hệ ngoại giao với hầu hết các
quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tất cả các cường quốc lớn, các nước phát triển đều có
quan hệ mật thiết; phúc lợi xã hội ngày càng lớn, chế độ chính sách xã hội được thực
hiện tốt, các đối tượng chính sách, có công với nước được quan tâm và chăm lo chu
đáo; tất cả trẻ em đều được cắp sách đến trường; Tất cả, tất cả đều có sự lãnh đạo của

Đảng; công lao của Đảng ta đối với nhân dân ta, đối với cách mạng Việt Nam sẽ mãi
mãi khắc ghi, sẽ trường tồn cùng lịch sử. Tôi tuyệt đối tin tưởng và khắc ghi điều đó, là
cán bộ đảng viên tôi nguyện đi theo Đảng đến cùng, cống hiến và phục vụ Đảng ta,
nhân dân ta, dân tộc ta đến hơi thở cuối cùng, sẽ tiếp tục cố gắng học tập rèn luyện
vươn lên trong công tác, hoàn thành xuất sắc mà Đảng, thành phố và cơ quan giao phó.

×