Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Đề tài " tìm hiểu văn hóa rượu cần của người Mạ ở Đạ tẻh - Lâm Đồng " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.18 MB, 52 trang )

Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
ĐỀ TÀI
“Tìm hiểu văn hoá Rượu Cần của người Mạ ở
Đạ Tẻh – Lâm Đồng”

Giảng viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :

Trang 1
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Sinh viên thực hiện : 1
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 3
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 4
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 5
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 5
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI 6
6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI 7
1.1 Tổng quan về huyện Đạ Tẻh 8
1.2 Tổng quan về người Mạ ở Đạ Tẻh- Lâm Đồng 17
Chương hai: 29
2.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Rượu Cần 30
2.2 Quá trình làm rượu cần 31
2.3 Rượu Cần trong đời sống và văn hóa người Mạ ở Đạ Tẻh 35
2.4 Thực trạng về văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh 46
KẾT LUẬN 50
Trang 2
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI


Đất nước Việt Nam ta với 54 dân tộc anh em cùng sinh sống với tinh thần đoàn
kết, tương thân tương ái cùng nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc qua hàng ngàn năm.
Mỗi dân tộc đều mang trong mình một sắc thái văn hóa riêng nhưng cả 54 dân
tộc anh em cùng góp chung vào một nền văn hóa Việt Nam “thống nhất trong đa
dạng”, cùng nhau thực hiện nghị quyết của Đảng và Nhà nước ta là hướng tới xây dựng
một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Trong 54 dân tộc anh em sinh sống trên khắp mọi miền đất nước thì người Mạ là
một dân tộc thiểu số bản địa cư trú chủ yếu ở tỉnh Lâm Đồng có số lượng tuy không lớn
nhưng lại là tộc người có nhiều nét văn hóa truyền thống độc đáo. Một trong những nét
văn hóa đặc sắc của người Mạ đó là văn hóa Rượu Cần – một giá trị văn hóa truyền
thống đã tồn tại song hành cùng dân tộc Mạ từ xưa đến nay.
Rượu Cần là một nét văn hoá nội sinh độc đáo của người Mạ, ra đời và tồn tại
trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Mạ từ xưa đến nay. Do vậy Rượu
Cần đã trở thành một nét sinh hoạt không thể thiếu trong đời sống cũng như phản ánh
sinh động đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của người Mạ xưa nay.
Nghiên cứu về Rượu Cần là thực hiện việc tìm hiểu một giá trị văn hoá ẩm thực
truyền thống, với những nét đặc trưng vốn có, đồng thời xem xét Rươụ Cần trong mối
tương quan với đời sống của người Mạ. Từ đó chúng ta có thể thấy được cái bản sắc
riêng của tộc người Mạ trên địa bàn huyện Đạ Tẻh – tỉnh Lâm Đồng nói riêng và Việt
Nam nói chung.
Muốn vậy, chúng ta phải hiểu rõ thực trạng của văn hoá Rượu Cần trong đời
sống hôm nay của người Mạ, từ đó có những kiến nghị, đề xuất giải pháp để giữ gìn một
nét văn hoá đẹp không chỉ cho riêng nguời Mạ mà cho cả kho tàng văn hoá dân gian của
54 dân tộc anh em sống trên dải đất Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên mà chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu văn hoá
Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh – Lâm Đồng” làm đề tài nghiên cứu khoa học cấp
Trường của nhóm. Qua đó, đề tài cũng góp phần nhỏ bé tìm hiểu về một nét văn hoá
sinh động mà độc đáo của tộc người Mạ ở Đạ Tẻh – Lâm Đồng, đồng thời cung cấp cho
Trang 3
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.

Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
bạn đọc quan tâm đến vấn đề này thêm một tài liệu mang tính chuyên sâu và có hệ
thống.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Nghiên cứu về người Mạ nói chung và Rượu Cần của người Mạ nói riêng, từ
trước tới nay đã có một số các tác phẩm đáng chú ý như: “Miền Thượng Cao Nguyên”
của hai tác giả Cửu Long Giang – Toan Ánh; “Vấn Đề Dân Tộc Ở Lâm Đồng" do tác
giả Mạc Đường chủ biên ; “Vài nét văn hóa các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên ở Lâm
Đồng” do Sở văn hoá thông tỉnh Lâm Đông xuất bản, năm 2005; sách “ Văn hoá xã
hội và con người Tây Nguyên” do Nguyễn Tấn Đắc được Viện khoa học xã hội Việt
Nam, Viện khoa học xã hội vùng Nam Bộ xuất bản năm 2005…Ngoài ra những năm
gần đây còn có một số khoá luận, đề tài nghiên cứu của sinh viên các khoa Lịch Sử, Việt
Nam học của Trường Đại học Đà Lạt cũng đã đề cập tới dân tộc Mạ về các mặt luật tục,
văn hoá tín ngưỡng như: “Tìm hiểu về hôn nhân và gia đình của người Châu Mạ ở xã
Lộc Châu, thị xã Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng” – luận văn tốt nghiệp của đại học K29
nghành Lịch Sử của Hoàng Thị Oanh, năm 2009; “Tìm hiểu về nghề dệt của người Mạ
ở xã Maragui – Đạ Hoai – Lâm Đồng”- đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trương của
Nguyễn Thị Bích Ngọc nghành Việt Nam học K27…
Bên cạnh đó là các bài viết liên quan đến các lĩnh vực trong đời sống của người
Mạ như lịch sử, kinh tế xã hội, sinh hoạt cộng đồng…Và các bài viết, công trình khoa
học đăng trên các tạp chí Dân tộc học hay đăng trên các tờ báo giấy khác…Nhưng các
tác phẩm, bài viết nêu trên đã nghiên cứu về người Mạ trên nhiều phương diện mà chưa
có một công trình nào nghiên cứu chuyên biệt, hoàn chỉnh về văn hoá Rượu cần của
người Mạ.
Tuy vậy, những công trình nghiên cứu đã có về người Mạ và Rượu Cần của
người Mạ là những tư liệu hiếm hoi và hết sức quý báu để nhóm nghiên cứu chúng tôi
có thể tham khảo, có được những nhận biết ban đầu và dễ dàng hơn trong công tác điền
dã thực tế tại địa bàn sinh sống của người Mạ ở Đạ Tẻh – Lâm Đồng.
Văn hoá Rượu Cần cùa người Mạ là một đề tài không mang tính quy mô và phổ
biến nhưng không phải vì thế mà tầm quan trọng và tính khoa học của đề tài giảm đi.

Trái lại, đề tài: “Tìm hiểu văn hoá Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng” là
công trình nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực văn hóa mà từ trước đến giờ rất ít tài
Trang 4
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
liệu hay một công trình nghiên cứu khoa học nào đề cập đến một cách đầy đủ, rõ ràng.
Nếu như các đề tài, bài viết, sách báo…chỉ đề cập mang tính chất tổng quát về các mặt
trong đời sống xã hội người Mạ mà trong đó Rượu cần chỉ được trình bày sơ lược như
một thức uống thường xuyên trong mục văn hoá ẩm thực thì với đề tài này chúng tôi sẽ
cung cấp cho các bạn những thông tin bổ ích xung quanh vấn đề Rượu cần và văn hoá
Rượu cần của người Mạ ở Đạ Tẻh nói riêng, ở Lâm Đồng nói chung.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đối tượng nghiên cứu là tộc người Mạ ở huyện Đạ Tẻh – Lâm Đồng, trong đó đề
tài đi sâu vào nội dung văn hoá Rượu cần và những yếu tố văn hoá phụ sinh xung quanh
văn hoá Rượu cần tồn tại trong đời sống của người Mạ ở đây. Trên cơ sở đó có sự so
sánh những đặc điểm về văn hoá Rượu Cần xưa và nay, văn hoá Rượu Cần của các dân
tộc thiểu số khác, những biến đổi nội tại, vị trí, vai trò của Rượu cần hôm nay trong sinh
hoạt, ăn uống, lễ hội, nghi lễ…
Về phạm vi không gian nghiên cứu: do giới hạn về phạm vi một đề tài khoa học
sinh viên, hạn chế về thời gian, khả năng tài chính nên nhóm chúng tôi chỉ tập trung tiến
hành khảo sát nghiên cứu trên địa bàn hai xã là xã Mỹ Đức và xã Quốc Oai, thuộc huyện
Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng. Đây là hai xã có sự tập chung đông đồng bào Mạ sinh sống
nhất.
Về thời gian nghiên cứu, vì đây là một đề tài về văn hoá thuộc mảng văn hoá ẩm
thực nên chắc chắn phải trải dài về mặt thời gian. Tuy nhiên, từ sau năm 1975 đất nước
thống nhất, cả nước tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội, xây dựng con người mới nên ít
nhiều văn hoá Rượu Cần cũng có sự biến đổi cả theo xu hướng tích cực và tiêu cực. Do
đó chúng tô tập chung nghiên cứu cần chủ yếu vào giai đoạn sau năm 1975 cho đến nay,
đồng thời bằng những kết quả nghiên cứu để đưa ra những nhận định khoa học về
hướng phát triển của văn hoá Rượu Cần người Mạ trong tương lai.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
“Tìm hiểu văn hoá Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh – Lâm Đồng”, như đã
nói đây là một đề tài nghiên cưú chuyên sâu, có tính thực tế cao và phải hệ thống. Do
vậy quá trình nghiên cứu đòi hỏi nhiều phương pháp để có được kết quả đầy đủ, toàn
diện nhằm làm sáng tỏ những vấn đề xung quanh Rượu cần của người Mạ.
Yêu cầu đầu tiên đối với nhóm chúng tôi là phải có được những nhận thức ban
đầu về địa bàn nghiên cứu, thông tin về người Mạ, các kiến thức về giao tiếp ứng xử
Trang 5
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
trong quá trình nghiên cứu…Bởi vậy, phương pháp thu thập thông tin qua các tài liệu
viết, các công trình nghiên cứu trước về người Mạ là rất cần thiết. Sau đó là quá trình
tiến hành điền dã khảo sát thực tế thu thập thông tin tại địa bàn nghiên cứu, quá trình
này đòi hỏi phải sử dụng các phương pháp phỏng vấn, phương pháp quan sát cùng với
sự hỗ trợ của các phương tiện như máy chụp hình, máy ghi âm, quay phim…để có được
những thông tin chính xác, hình ảnh chân thực và sinh động, bổ sung vào những tài liệu
đã có.
Ngoài phương pháp điền dã khảo sát, chúng tôi còn tìm hiểu tư liệu thông qua
liên hệ với chính quyền địa phương, từ đó sử dụng phương pháp lịch sử, liệt kê so sánh,
phân tích và tổng hợp các tư liệu có được, đồng thời không thể thiếu hai phương pháp
nghiên cứu quen thuộc là phương pháp lịch sử và phương pháp logic…Qúa trình tìm
hiểu về lịch sử địa phương, nguồn gốc người Mạ, các sự kiện lịch sử trước và sau năm
1975 có ảnh hưởng đến đời sống người Mạ cư trú tại địa bàn huyện Đạ Tẻh – Lâm Đồng
đòi hỏi sử dụng phương pháp lịch sử để khôi phục lại nguyên trạng sự hình thành và
phát triển của tộc người Mạ, lý giải những vấn đề mà đề tài đòi hỏi. Trong quá trình viết
đề tài thành công trình đòi hỏi sử dụng phương pháp lôgic nhằm đưa ra những nhận
định, đánh giá khái quát lên trình độ khoa học, lý luận cho đề tài.
Cuối cùng sau khi có được đầy đủ các thông tin, tư liệu cần thiết phục vụ đề tài,
chúng tôi sẽ tiến hành phân tích, tổng hợp, đánh giá.Trên cơ sở đó đối chiếu, so sánh
nhằm thấy rõ những thay đổi trong văn hoá Rượu cần của người Mạ suốt quá trình phát

triển từ truyền thống đến hiện đại.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
Nghiên cứu về văn hoá Rượu Cần của người Mạ, trước hết chúng tôi làm nổi bật
những giá trị văn hoá truyền thống của người Mạ xung quanh ché Rượu Cần – một sản
phẩm văn hoá vật chất, phục vụ đời sống tinh thần và cả đời sống kinh tế. Rượu không
đơn thuần là thức uống mà nó còn có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh, trong
những phong tục tập quán, quan hệ xã hội…Đề tài tập chung nghiên cứu nhằm làm sáng
tỏ vai trò, ý nghĩa của văn hoá Rượu Cần trong cộng đồng người Mạ trước đây và trong
thời hiện đại hôm nay.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài luôn dẫn ra những sự biến đổi của văn hoá
Rượu Cần, quá trình tiếp biến văn hoá, giao lưu giữa các tộc người cùng sinh sống trên
Trang 6
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
địa bàn để thấy được thực trạng của văn hoá Rượu Cần ở người Mạ hiện nay. Từ đó đề
tài đưa ra các lý giải và kiến nghị các giải pháp giúp chính quyền địa phương cũng như
các cơ quan văn hoá các cấp có biện pháp bảo tồn và phát huy một nét văn hoá đẹp của
người Mạ ở ĐạTẻh nói riêng, ở Lâm Đồng nói chung.
Đóng góp cuối cùng của đề tài là góp thêm một nguồn tư liệu cho những người
quan tâm coi nó như một tài liệu tham khảo để tiếp tục tìm hiểu hoặc tâm huyết với các
đề tài nghiên cứu về người Mạ, mở rộng ra cho chúng ta thấy được bản sắc văn hoá của
dân tộc Mạ với nhiều cái hay, cái đẹp đáng trân trọng và bảo lưu để làm rực rỡ thêm nền
văn hoá chung của 54 dân tộc anh em, làm phong phú thêm kho tàng văn hoá các dân
tộc Việt Nam.
6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI.
Cấu trúc của công trình này bao gồm phần mở đầu, kết luận, thư mục tài liệu
tham khảo và phụ luc, lời cảm ơn và phần nội dung chính bao gồm hai chương:
Chương 1: Tổng quan về người Mạ ở huyện Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Chương 2: Văn hóa rượu cần của người Mạ ở huyện Đạ Tẻh - Lâm đồng.
Trang 7

SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Chương một:
TỔNG QUAN VỀ NGƯỜI MẠ Ở HUYỆN ĐẠ TẺH-TỈNH LÂM ĐỒNG
1.1 Tổng quan về huyện Đạ Tẻh.
1.1.1 Lịch sử hình thành.
Huyện Đạ Tẻh trước giải phóng nằm trong căn cứ địa cách mạng Lâm Đồng,
giữa hành lang chiến lược: Bình Thuận-Ninh Thuận-Bình Tuy- Lâm đồng- Đồng Nai-
Phước Long- Đắk Lắk. Nhân dân chủ yếu là người Mạ, Cơho lao động, sinh sống ở 3 xã
Xi Nhanh, Lú Tôn và Hợp Vông thuộc vùng III của tỉnh Lâm Đồng, sau này là huyện
K4 cũ.
Sau ngày miền Nam giải phóng 30/4/1975, huyện K4 được sáp nhập vào huyện Bảo
Lộc, vùng đất Đạ Tẻh ngày nay được gọi là xã Lộc Trung. Từ giữa năm 1976 đến 1986,
thực hiện chủ trương của Đảnh và Nhà nước trong việc bố trí, điều động dân cư xây
dựng vùng kinh tế mới, xã Lộc Trung được quy hoạch là địa bàn đón dân các tỉnh Hà
Sơn Bình, Hà Nam Ninh, Bình Trị Thiên, Nghĩa Bình đến đây lập nghiệp, xây dựng quê
hương mới.
Tháng 3/1979 huyện Đạ Huoai được thành lập. Vùng đất Đạ Tẻh lúc bấy giờ chỉ có 06
đơn vị hành chính: Đạ Lây, An Nhơn, Đạ Kho, Hà Đông, Triệu Hải và Thị trấn Đạ Tẻh.
Ngày 6/6/1986 Hội đồng bộ truởng đã có quyết định số 68 tách huyện Đạ Huoai thành 3
huyện Đạ Huoai, Đạ Tẻh và Cát Tiên. Cũng ngày ấy đã ban hành quyết định số 67 để
chia 05 xã, 01 thị trấn của huyện Đạ Tẻh thành 09 xã, 01 thị trấn . Đến tháng 7/2003 có
10 xã, 01 thị trấn.
Ngày 22/12/1986 UBND tỉnh Lâm Đồng ra quyết định số 952 thành lập UBND lâm thời
huyện Đạ Tẻh , gồm 11 thành viên. Đây được xem là mốc quan trọng đánh dấu huyện
Đạ Tẻh đã có bộ máy hoàn chỉnh của Đảng và Nhà Nước để đi vào hoạt động, bắt đầu
một thời kì mới.[1].
Hiện tại cơ cấu hành chính của huyện gồm 10 xã và 1 thị trấn với dân số và diệ tích
được phản ánh qua bảng sau:
Bng 1: DIN TCH, D N S PH N THEO N V H NH CHNHả Ệ Í Â Ố Â ĐƠ Ị À Í

Trang 8
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
( Nguồn: số liệu thống kê của UBND huyện Đạ Tẻh năm 2008)
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
1.1.2.1 vị trí địa lí.
Trang 9
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
NĂM Diện tích
Dân số
trung
bình
Mật độ
dân số
Số khu phố-
thôn
Số hộ
• 2005
523,42 44452 83.45 103 10207
• 2006
523.42 44260 83.54 103 10279
• 2007
524.2 44198 83.49 103 10374
• 2008
524.2 44083 83.57 103 10374
• Sơ bộ 2009 524.2 44205 84.33 103 10922
1. THỊ TRẤN ĐẠ
TẺH
24.96 15846 634.86 23 4057
2. XÃ ĐẠ KHO 38.41 4531 117.96 11 1032

3. XÃ TRIỆU HẢI 32.19 2284 70.95 8 592
3. XÃ ĐẠ PAIL 52.02 2545 48.92 7 393
5. XÃ QUẢNG TRỊ 62.88 1493 23.74 7 565
6. XÃ HÀ ĐÔNG 4.11 1501 365.21 5 393
7. XÃ MỸ ĐỨC 103.91 3779 36.37 8 909
8. XÃ QUỐC OAI 85.98 3427 39.86 7 847
9. XÃ AN NHƠN 69.08 3959 57.31 11 916
10.XÃ HƯƠNG LÂM 23.18 1867 80.54 7 462
11. XÃ ĐẠ LÂY 27.47 2973 108.23 9 756
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Đạ Tẻh là huyện phía Tây Nam tỉnh Lâm Đồng, nằm trên phần chuyển tiếp giữa
cao nguyên Di Linh, Bảo Lộc với vùng Đông Nam Bộ.
Phía Bắc giáp huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng.
Phía Nam giáp huyện Tân Phú - Đồng Nai.
Phía Đông giáp huyện Đạ Huoai - Lâm Đồng.
Phái Tây giáp huyện Cát Tiên - Lâm Đồng.[1].
So với các huyện khác, vị trí địa lí của huyện có những hạn chế sau:
- Do nằm xa các trục giao thông chính và các trung tâm kinh tế của tỉnh và vùng, nên
việc giao lưu phát triển kinh tế xã hội với bên ngoài ít thuận lợi.
- Nằm trong vùng kinh tế mới và thuộc vùng sâu vùng xa, mặc dù đã được quan tâm đầu
tư nhưng cho đến nay cơ sở hạ tầng còn thiếu và yếu, đồng thời tình trạng di dân tự do ồ
ạt vào huyện của một số năm trước đây đã và đang gây áp lực lớn cho phát triển kinh tế
xã hội trên địa bàn huyện.
1.1.2.2 Địa hình- đất đai.
Huyện Đạ Tẻh nằm ở độ cao trung bình 250m so với mặt nước biển, thuộc khu
vực chuyển tiếp giữa Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, nên địa hình khá phức tạp, có xu
hướng thấp dần theo hướng từ Bắc vào
Nam và từ hai phía Đông, Tây vào thị
trấn Đạ Tẻh, với hai dạng địa hình
chính: địa hình núi cao bị chia cắt mạnh

và địa hình núi thấp xen kẽ với các
thung lũng hẹp.
Địa hình núi cao bị chia cắt
mạnh: Diện tích 40,150 ha ( 77% diện tích đất tự nhiên), cao độ biến động từ 200-625m,
phân bố ở phía Bắc và Đông- Bắc huyện, thuộc khu vực thượng lưu các con sông suối,
tập trung ở địa phận các xã Quảng Trị, Mỹ Đức, Quốc Oai. Do địa hình núi cao, độ dốc
lớn nên trước mắt cũng như lâu dài dạng địa hình này thích hợp cho việc trồng rừng.
Địa hình núi thấp xen kẽ với các thung lũng hẹp: Diện tích 12.193 ha ( 23% diện
tích đất tự nhiên), phân bố ở phía Nam và Tây- Nam huyện, thuộc khu vực hạ lưu các
con song, tập trung ở các xã Hà Đông, Đạ Kho, Đạ Lây, Hương Lâm, An Nhơn và thị
trấn Đạ Tẻh, địa hình khu vực này khá bằng phẳng, cao độ biến đổi từ 120 - 200m, Đây
Trang 10
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
là địa bàn sản xuất nông nghiệp, phân bố các khu dân cư và các công trình kết cấu hạ
tầng thiết yếu phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Diện tích tự nhiên của huyện là 52.34 ha trong đó 15.136 ha đất nông nghiệp và
36.017 ha đất lâm nghiệp.[14].
Đất đai ở đây tương đối màu mỡ thích hợp cho việc phát triển nền kinh tế toàn diện:
trồng cây lương thực, thực phẩm, cây ăn trái, cây công nghiệp, trồng rừng, chăn nuôi và
có điều kiện thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hóa.
Theo báo cáo khoa học “Kết quả điều tra, đánh giá đất đai huyện Đạ Tẻh - tỉnh
Lâm Đồng” của trung tâm nghiên cứu chuyển giao kỹ thuật đất phân, được tiến hành
trong năm 2000 và dự án quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2001-2010, cho thấy toàn
huyện huyện Đạ Tẻh có 4 nhóm đất chính với 17 đơn vị phân loại đất sau:
Trang 11
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Bảng 2 : Tình hình phân bố các nhóm đất ở Đạ Tẻh.
TT


hiệu
TÊN ĐẤT D. tích (Ha)
Tỉ lệ
(%)
I NHÓM ĐẤT PHÙ SA 3.546 6,77
1 Pb Đất phù sa được bồi hàng năm 101 0,19
2 P Đất phù sa chưa phân hoá phẫu diện 420 0,8
3 Pf Đất phù sa loang lổ đỏ vàng 998 1,91
4 Pg Đất phù sa gley 210 0,4
5 P/F Đất phù sa phủ trên nền đỏ vàng 1033 1,97
6 Pg/F Đất phù sa gley phủ trên nền đỏ vàng 308 0,59
7 Py Đất phù sa suối 476 0,91
II NHÓM ĐẤT XÁM 618 1,18
8 B Đất bạc màu trên phù sa cổ 368 0,7
9 Ba Đất bạc màu trên sản phẩm granite 106 0,2
10 Bd Đất dốc tụ bạc màu 144 0,28
III NHÓM ĐẤT ĐỎ VÀNG 45.995 87,87
11 Fk Đất nâu đỏ trên đá ba zan 1241 2,37
12 Fu Đất nâu vàng trên đá ba zan 6942 13,26
13 Fa Đất vàng đỏ trên đá Granit 12 0,02
14 Fs Đất đỏ vàng trên đá phiến sét 34876 66,63
15 Fp Đất nâu vàng trên phù sa cổ 2179 4,16
16 FL
Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa
nước
745 1,42
IV NHÓM ĐẤT DỐC TỤ 278 0,53
17 D Đất thung lũng do ảnh hưởng dốc tụ 278 0,53
V ĐẤT KHÁC 1.906 3,64

18 Đất ở đô thị tập trung 86 0,16
19 Đất chuyên dùng 1228 2,35
20 Sông suối 592 1,13
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN 52.419 100
1.1.2.3 Khí hậu - sông ngòi
Đạ Tẻh có khí hậu nhiệt đới gió mùa cao nguyên, nhiệt độ trung bình hàng năm là 28
độ. Mỗi năm chia làm 2 mùa: mùa mưa trừ tháng 4 đến tháng 10, và mùa khô từ tháng
Trang 12
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
11 đến tháng 3 năm sau. Độ ẩm trung bình hàng năm là 82%, thấp nhất là 75% ( tháng 2
và 3), cao nhất là 88% ( tháng 8).
So với khí hậu Bảo Lộc và khí hậu vùng Đông Nam Bộ, khí hậu của Đạ Tẻh có những
đặc điểm nổi bật sau:
+ Chế độ nhiệt và chế độ bức xạ mặt trời cao hơn khu vực Bảo Lộc và thấp hơn
chút ít so với vùng Đông Nam Bộ, đây là điều kiện thuận lợi để tăng năng suất và chất
lượng nông sản hàng hóa, nhưng cũng gây hạn chế cho việc phát triển các cây trồng có
yêu cầu nhiệt độ thấp hơn.
+ Lượng mưa bình quân năm, số ngày mưa trong năm và độ ẩm trung bình đều
thấp hơn so với Bảo Lộc nhưng cao hơn so với vùng Đông Nam Bộ, nên việc bố trí cơ
cấu mùa vụ cho cây trồng sẽ bớt căng thẳng hơn so với vùng Đông Nam Bộ.
+ So với vùng Đông Nam Bộ, Đạ Tẻh có những ngày mưa lớn và tập trung hơn,
cùng với yếu tố địa hùng đã gây ra tình trạng ngập lụt ở các khu vực địa hình thấp, đặc
biệt là các khu vực trũng ven sông.
Địa bàn huyện Đạ Tẻh có 2 con sông chính chảy qua là sông Đạ Nhar dài 50km
và sông Đạ Tẻh dài 30km, cả hai đều chảy ra sông Đồng Nai. Đạ Tẻh có thác Đạ Bin ở
xã Triệu Hải cao 150m và thác Triệu Hải cao 70m.
Hệ thống thuỷ lợi: ngoài nguồn nước từ các sông suối thì trên địa bàn còn có 2
hồ chứa lớn là hồ Đạ Hàm, hồ Đạ Tẻh với năng lực tưới thiết kế trên 2.700 ha đất nông
nghiệp.

Tuy hệ thống sông suối không lớn nhưng cũng đủ cung cấp nước sử dụng trong nông
nghiệp cho nông dân. Ngoài ra trong huyện còn có hệ thống nước ngầm ( giếng) và
nước máy ( giếng khoan) để cung cấp nước sinh hoạt cho toàn huyện kể cả mùa khô.
1.1.3 Đặc điểm xã hội- dân cư
1.1.3.1 Tình hình dân cư
Theo số liệu thống kê của ủy ban nhân dân (UBND), huyện Đạ Tẻh là vùng đất
có rất nhiều thành phần dân tộc trong cả nước về đây lập nghiệp. Dân số cuối năm 2009
của huyện là 44.145 người ( 10.922 hộ), mật độ trung bình là 84.33 người/km2, tỷ lệ gia
tăng tự nhiên là 11,56%.[14].
Trang 13
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Bảng 3 :Tình hình dân số ở Đạ Tẻh đến 12/2009.

TỔNG
SỐ
Phân theo giới tính
Phân theo thành thị.
Nông thôn
Nam Nữ
Thành
thị
Nông
thôn
T NG SỔ Ố
44145 22488 21657 15825 28320
1. THỊ TRẤN ĐẠ TẺH
15825 7987 7838 15825 -
2. XÃ ĐẠ KHO
4525 2333 2192 - 4525

3. XÃ TRIỆU HẢI
2281 1176 1105 - 2281
4. XÃ ĐẠ PAIL
1491 781 710 - 1491
5. XÃ QUẢNG TRỊ
2541 1285 1256 - 2541
6. XÃ HÀ ĐÔNG
1499 777 722 - 1499
7. XÃ MỸ ĐỨC
3774 1934 1840 - 3774
8. XÃ QUỐC OAI
3422 1738 1684 - 3422
9. XÃ AN NHƠN
3954 2020 1934 - 3954
10. XÃ HƯƠNG LÂM
1864 987 877 - 1864
11. XÃ ĐẠ LÂY
2969 1470 1499 - 2969
( Nguồn: số liệu của UBND Đạ Tẻh, 21/12/2009)
1.1.3.2 Hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội.
Trang 14
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Đất đai tương đối màu mỡ cùng với nguồn nước đảm bảo đã tạo điều kiện để huyện Đạ
Tẻh phát triển nền kinh tế toàn diện với các ngành kinh tế chính là nông- lâm nghiệp,
CN-TTCN và xây dựng, thương mại và dịch vụ.
(Nguồn:Số liệu thống kê của UBND Huyện Đạ Tẻh, 21/12/2009)
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy nông - lâm nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu của
huyên. Và điều này được thể hiện qua bảng phân bố giá trị sản xuất theo ngành sau:
Bảng 4:Bảng phân bố giá trị sản xuất theo ngành

(Nguồn: Số liệu thống kê của UBND Huyện Đạ Tẻh, 21/12/2009)

Trong đó nông nghiệp chiếm vị trí quan trọng, 90% dâ số của huyện làm nông nghiệp.
Chủ yếu là trồng các loại cây lương thực, cây thực phẩm, cây công nghiệp …với sự
phân bố như sau:
Bảng 5: Tình hình phân bố diện tích đất nông nghiệp
Tên cây trồng Diện tích TỶ LỆ
Trang 15
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Nghành kinh tế Gía trị sản xuất
(tỷ đồng)
TỶ LỆ
(%)
Nông – Lâm nghiệp 199,83 41,93
CN-TTCN và Xây dựng 125,72 26,38
Thương mại – Dịch vụ 151,05 31,69
TỔNG GIÁ TRỊ SẢN XUẤT: 476,60 tỷ đồng
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
(ha) (%)
Cây lương thực 8200 54,14
Cây thực phẩm 625 4,13
Cây chất bột 803 5,31
Cỏ chăn nuôi 67 0,44
Cây công nghiệp và cây khác
5441 35,95
TỔNG DIỆN TÍCH: 15.136 ha
TỔNG SẢN LƯỢNG QUY THÓC: 35. 258 tấn
( Nguồn: Số liệu thống kê của UBND Huyện Đạ Tẻh, ngày 21/12/2009).
Về chăn nuôi: Chăn nuôi ở địa phương khá phát triển, chủ yếu là chăn nuôi hộ
gia đình. Hiện tại đàn trâu trong toàn huyện có khoảng 2900 con, đàn bò khoảng 6800

con, đàn heo khoảng 14500 con, đàn gia cầm khoảng 130000 con, kén tằm khoảng
245 tấn…[14].
Lâm nghiệp có trồng và chăm sóc rừng, giao khoán quản lí bảo vệ rừng và khai
thác lâm sản (gỗ, tre…).
Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đang trên đà phát triển với các sản
phẩm chủ yếu là đường thô, tăm nhang, đũa xuất khẩu, gạch…
Lĩnh vực văn hoá xã hội.
Ngành văn hoá thông tin tiếp tục thực hiện khá tốt công tác tuyên truyền, cổ động trực
quang để phục vụ chính trị và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn huyện.Hoặt độg văn
hoá văn nghệ, thể thao tiếp tục phát triển mạnh, nội dung phong phú, có sức thu hút
quần chúng nhân dân tham gia. Đến năm 2009, toàn huyện có 70.4% hộ gia đình văn
hoá; 43.3% thôn, khu phố tiên tiến; 21% thôn, khu phố văn hoá và 70.6% cơ quan, đơn
vị đạt công sở văn hoá.
Về giáo dục: mạng lưới trường lớp tiếp tục được mở rộng và nâng cấp đẻ đảm
bảo phục vụ tốt cho công tác dạy và học toàn huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục
THCS va Tiểu học đúng độ tuổi.Năm hoc 2009-2010 Huyện có 35 trường học, tỷ lệ huy
động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt trên 99.7%.[14].
Về y tế : Các hoạt động chăm sóc sức khoẻ nhân dân được duy trì ổn định; chất
lượng khám và điều trị từng bước được nâng cao; các chính sách y tế đối với người
Trang 16
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi được thực hiện khá tốt và đúng quy
định. Đến nay 11/11 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia, 6/11 trạm y tế có bác sỹ, 100% thôn,
khu phố có nhân viên y tế đã được bồi dưỡng kiến thức cơ bản.
Công tác chăm lo đời sống nhân dân : Trong năm 2009, huyện đã bàn giao 441 căn nhà
cho các đối tượng hộ nghèo, hộ dân tộc và hộ gia đình chính sách; có 3300 lược hộ
nghèo được tổ chức tín dụng cho vay 38 tỷ đồng với lãi suất ưu đãi để phát triển sản
xuất; 43 nhóm hộ được vay 1559 triêu đồng thuộc nguồn vốn 120 để thực hiện các dự
án giải quyết việc làm nông thôn.

1.2 Tổng quan về người Mạ ở Đạ Tẻh- Lâm Đồng.
1.2.1 Lịch sử cư trú và hoạt động kinh tế.
Người Mạ (còn có các tên gọi là Châu Mạ, Chô Mạ, Chê Mạ) là một dân tộc thiểu số ở
miền Nam Tây Nguyên, thuộc ngữ hệ Môn- Khơme ( dòng Nam Á), gần gũi với tiếng
nói của người Mnông, Xtiêng và nhất là tiếng nói của người Cơ ho- dân tộc láng giềng
gần gũi nhất của người Mạ.
Người Mạ ở nước ta có gần 33.600 người, cư trú tại các tỉnh Lâm Đồng, Bình Phước,
Đồng Nai, Đắc Lắc, Đắc Nông…Nhưng đông nhất là ở Lâm Đồng, đây được xác định là
quê gốc của người Mạ.
Ở Lâm Đồng người Mạ có khoảng 25.500 người, cư trú tại các huyện Lạc Dương
, Di Linh, Đức Trọng, Lâm Hà, Đam Rông, Bảo Lâm, Thị xã Bảo Lộc, Đạ Huoai, Đạ
Tẻh, Cát Tiên.
Người Mạ ở huyện Đạ Tẻh có 584 hộ với 3586 nhân khẩu
và được phân bố như sau:
Buôn Đạ Nhar - xã Quốc Oai: 210 hộ - 1857 khẩu.
Buôn Con Ó - xã Mỹ Đức : 112 hộ - 503 khẩu.
Buôn Tố Lan - xã An Nhơn : 48 hộ - 224 khẩu.
Thị trấn Đạ Tẻh : 214 hộ - 1002 khẩu.[7].
Dân tộc Mạ là một cộng đồng người thống nhất, có một tên gọi chung, một ngôn
ngữ chung và một ý thức chung về tộc người Mạ, tự phân biệt mình với các tộc người
láng giềng. Trong quá trình tồn tại và phát triển cộng đồng Mạ có một số nhóm địa
phương chủ yếu như:
Trang 17
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Mạ Ngăn: Có số lượng nhiều nhất và được xác định là Mạ gốc. Phân bố chủ yếu
ở Bảo Lâm, Cát Tiên.
Mạ K’Rung: Chủ yếu ở Đạ Huoai.
Mạ Tô: Chủ yếu ở Lâm Hà, Di Linh, Lạc Dương, Đức Trọng.
Người Mạ ở Đạ Tẻh là Mạ Sộp.[13].

Cư dân Mạ trước đây sống du canh du cư, phát rừng làm rẫy là hoạt động kinh tế
chủ yếu của họ. Hầu như rẫy đã đem lại cho họ toàn bộ nhu cầu về lương thực và phần
lớn thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày. Người Mạ gọi rẫy là “mir” và phân biệt thành
hai loại rẫy mới (mdrih) và rẫy cũ (mpuh). Rẫy mới là rẫy canh tác năm đầu, chủ yếu là
trồng lúa. Ngoài ra có thể xen canh những loại khác như: ngô, bầu, bí, mướp, dưa, bông,
ớt, thuốc lá…Rẫy cũ là rẫy canh tác từ năm thứ hai trở đi, cũng có thể trồng lúa thêm
một năm nữa rồi bỏ hoá cho rừng tái sinh, song cũng có thể trồng màu một vài năm liền
rồi mới bỏ hoá. Có nhiều rẫy cũ họ dùng để trồng sắn (mỳ) nên còn được gọi là rẫy sắn
(mpuh blang).
Ngoài ra kinh tế chiếm đoạt với hai hoạt động săn bắt và hái lượm đóng vai trò
quan trọng đố với đời sống của người Mạ,
nhất là trong giai đoạn 1986 trở về trước.
Nền kinh tế truyền thống Mạ mang
nặng tính tự cung tự cấp, chăn nuôi không
phát triển, sản phẩm chăn nuôi chủ yếu
phục vụ cho việc hiến sinh trong các lễ
nghi nông nghiệp và một số nghi lễ khác
mà mục đích là duy trì phong tục, tín ngưỡng.
Nghề thủ công của người Mạ vẫn là nghề phụ trong gia đình. Nghề đan mây tre
phục vụ nhu cầu về dụng cụ trong nhà: thúng, nia, sàng, gùi, giỏ. Nghề dệt vải khung
nhỏ đạt kĩ thuật cao với phương pháp thêu dệt hoa văn trên nền vải. Ngoài ra còn có
nghề rèn; nghề làm thuyền độc mộc; tìm quặng rèn sắt, thép…
Người Mạ cũng biết canh tác vườn. Những mảnh vườn quanh nhà thường được
rào bằng tre nứa mắt cáo, trong đó trồng chuối, mít, mía, đu đủ, thuốc lá, có vườn
chuyên canh trồng bông, trồng dâu nuôi tằm.
Trang 18
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Công cụ sản xuất chủ yếu có rìu (sung) dùng để đốn cây to, cành lớn; chà gạc
(j’oát) dùng để chặt cây con, phát cành nhỏ và những đám dây leo; cây gậy chọc lỗ

(gmùl) bằng gỗ, dài khoảng 3 mét, bịt sắt ở đầu nhọn; chiếc gùi nhỏ (kriềt jur) để đựng
hạt giống; cái kao làm cỏ lúa; dao; cuốc; liềm…
Quá trình công tác rẫy gắn liền với nhiều lễ nghi nông nghiệp để cầu mong mùa
màng tươi tốt bắt đầu bằng lễ xem đất, nhận đất (nhô năng bri) và kết thúc bằng lễ mừng
lúa mới (Nhô R’he).
Trong khoảng mười lăm năm trở lại đây, cuộc sống của người Mạ đã có rất nhiều
thay đổi. Kinh tế tự cung tự cấp từng bước được tháo gỡ, giao lưu kinh tế- văn hoá với
các dân tộc anh em được mở rộng nhất là người Kinh. Hoạt động kinh tế chủ yếu của
người Mạ ở Đạ Tẻh hiện nay là trồng điều và đi rừng.
1.2.2 Nhà ở, trang phục, ẩm thực.
1.2.2.1 Nhà ở.
Nhà sàn dài là hình thái cư trú truyền
thống của người Mạ. Người Mạ chọn vật liệu
làm nhà theo chức năng của từng bộ phận
trong kết cấu. Đối với những kết cấu chính,
chịu lực vật liệu chủ yếu là các loại gỗ, tre
già. Các thành phần khác như sàn, vách, mái
dung các thứ vật liệu như tre, nứa, lồ ô, tranh, lá mây…Độ vững chắc của kết cấu nhà
sàn được đảm bảo bằng dây buộc ( dây mây) và ngoàm. [6].
Nhà người Mạ không chỉ có nhiều đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể “đại diện”
cho nhà cửa của người Cơho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên
mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ ở những vùng
cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế.
Nhà ở cổ truyền của người Mạ là nhà sàn dài tới 20 – 30m (nay đã hiếm). Nay vẫn
là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhỏ. Bộ khung nhà với ba vì hai hoặc 4
cột, kết cấu đơn giản, thường là ngoẵm tự nhiên và buộc lạt. Mái hồi khum tròn nhưng
không có “sừng” trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nó có hình
“parabol”. Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa người ta phải làm vồng lên để
khỏi đụng đầu.
Trang 19

SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa
nhà là nơi sinh hoạt chung của mọi gia đình (tiếp khách, cúng bái). Nơi này có bàn thờ
thần bếp và có một cái cột để buộc ché Rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách
hậu là một dãy dài những ú, ché đựng Rượu cần…Các hộ gia đình ở hai bên cửa khu
trung tâm trong nhà dài.
Trong nhà dài của người Mạ có một khoảng không gian thiêng đối diện với cửa ra
vào dùng để đặt chiêng, ché. Mọi thành viên trong gia đình khi ngủ phải phải quay đầu
về hướng đó. Khoảng không không gian còn lại dùng để ngủ, sinh hoạt gia đình và tiếp
khách. Mỗi một tiểu gia đình đuợc chia một khoảng không gian sinh hoạt riêng từ đôi
cột này đến đôi cột kia (tương ứng với một gian trong nhà của ngừơi Kinh), nhà ở giữa
khoảng không gian đó đặt một bếp.
Ngày nay, kiểu cư trú nhà dài không còn nữa mà đã chuyển sang nhà trệt lợp tôn.
Nhà thường làm ba gian kiểu nhà ống như người Kinh. Gian giữa là nơi thờ phục tiếp
khách, hai bên trái phải hoặc thụt ra đằng sau là nơi ngủ của các thành viên trong gia
đình. Hai trái và phía sau là giành cho nấu nướng hoặc tắm giặt. nhà thường hướng ra
đường. Đây là những ngôi nhà người Châu Mạ thay đổi cho phù hợp với loại hình gia
đình nhỏ như hiện nay chứ không sống như những gia đình lớn như trước kia.
Như vậy, nhà ở cuả người Mạ tập chung tấ cả các đặc điểm và nét độc đáo ở nhà
dài. Ba đặc điểm về kết cấu khai thác không gian sinh hoạt trong nhà và hình thức tổ
chức xã hội trong nhà là ba vấn đề có quan hệ chặt chẽ với nhau và có những điểm
tương đồng với các cư dân khác có cấu trúc nhà dài.
1.2.2.2 Trang phục
Trước đây đàn ông Mạ chủ yếu đóng khố cởi trần. Khố có hai loại đơn giản, chỉ
là một loại vải có màu chàm đen, có loại cầu kỳ hoa văn chạy dài hai bên mép khố, đầu
có những tua dài đánh hạt cườm. Về mùa lạnh
nam giới mặc áo ngắn chui đầu, vạt sau dài hơn
để che kín mông, đôi khi thân áo tua dài ở vạt
sau, bên ngoài khoác tấm mền.

Trang 20
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Trang phục của phụ nhữ người Mạ thường là váy quấn dài ngang bắp chân trên
mặc áo ngắn chui đầu dài ngang thắt lưng, kín tà, hai vạt sau trước đều bằng nhau. Váy
áo đều may ngang khổ vải dệt nhiều đường hoa văn chạy dọc, nên quanh thân áo, ống
tay áo có những đường hoa văn chạy song song. Ngày nay chỉ còn người già mới đóng
khố, còn thanh niên và trung niên thì mặc quần áo theo người Kinh đi làm hoặc đi chơi.
Trang sức mà người Mạ yêu thích nhất là vòng đeo cổ bằng đồng, ở nam giới thì
vòng to, cứng cáp và ít hoa văn hơn ở vòng nữ giới. Chuỗi hạt cườm đeo cổ là vật là vât
mà phụ nữ Mạ rất ưa thích, ngoài việc làm đẹp bằng việc đeo chuỗi cườm thì còn có tục
“cà răng căng tai”, đeo vòng lục lạc nhưng hiện nay đã không còn.
1.2.2.3 Ẩm thực.
Ẩm thực của người Mạ tập trung vào ba phần: ăn, uống và hút.
Ăn: Ngoài việc dựa vào nguồn lương thực trồng được trên rẫy, thức ăn của
người Mạ ở Đạ Tẻh phần lớn được săn bắt và hái lượm từ rừng. Tuy nhiên, có những
quy định khá chặt chẽ về những loại thú rừng được ăn, ăn trong mùa, dịp nào, cũng như
hàng loạt các loại rau củ có thể chế biến thành các món ăn hoặc không được ăn. Chẳng
hạn cá suối không được nấu chung với trái xoài rừng, trứng gà không được nấu chung
với cà trắng… Người Mạ quan niệm dùng những thứ không hợp nhau như vừa dẫn sẽ
làm thần Sét nổi giận làm chết người, cháy nhà, chết gia súc… Bữa ăn truyền thống của
người Mạ không theo một giờ giấc quy định nào, khi ăn mọi người ngồi quây quần
quanh chỗ thức ăn để ở giữa và dùng tay bốc thức ăn. Ăn ở người Mạ chưa đạt đến độ
hoa mỹ, chưa thấu đến những khía cạnh tinh thần của ăn uống như các tộc người khác
nhưng trong lối ăn của người Mạ có thể thấy được ở tộc người này một yếu tố rất thiết
thực, rất cần thiết cho cuộc sống của họ trong môi trường cư trú – “tính cộng đồng”.
Ẩm thực trong lễ hội, cúng tế, ma chay, cưới hỏi truyền thống của người Mạ
thường diễn ra trong nhiều ngày. Có những cuộc vui kéo dài 2 đến 3 ngày và cũng có
không ít những trường hợp kéo dài đến 7 ngày (như lễ hội mừng lúa mới: Nhô Rơhe, lễ
cúng thần núi: Năng nhô…)

Ẩm thực trong các lễ hội cúng tế không những chỉ là nhu cầu về mặt tâm linh, là
sự thực hành tín ngưỡng truyền thống mà sâu xa hơn là một nhu cầu văn hóa, trong đó
chứa đựng một “nhu cầu ngây thơ” về ẩm thực : “cho Yàng ăn thì Yàng mới cho mình
cái ăn, cái mặc”. [6].
Trang 21
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Cư dân Mạ ở Đạ Tẻh nói riêng và Lâm Đồng nói chung về cách ăn thì vẫn giữ
những món ăn cổ truyền của dân tộc mình. Tuy vậy, chủng loại món ăn ngày càng phổ
biến và đa dạng hơn do người Mạ học tập, tiếp thu được trong quá trình giao lưu văn
hóa nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng với các dân tộc khác.
Uống: Nước uống của người Mạ chủ yếu là nước suối (nay nhiều gia đình đã
biết đun nước sôi hay uống nước chè). Rượu cần là thức uống ưa thích trong nhiều gia
đình và cả cộng đồng, Rượu cần có mặt trong hầu hết các sinh hoạt gia đình, cộng đồng,
tang ma, cưới hỏi… nhất là lễ cúng Yàng thì Rượu cần là thứ lễ vật bắt buộc.
Hút: Người Mạ có thói quen hút thuốc lá (Jrau hay yiu) từ rất lâu đời. Thuốc lá
của người Mạ là một loài cây thuốc được trồng trên rẫy cũ hoặc được trồng quanh nhà
và chế biến thủ công.
Để hút thuốc, người Mạ dùng một loại lá rừng vấn thuốc thành điếu hoặc hút bằng tẩu
(đing yiu). Tẩu thuốc do họ chế tác đơn giản gồm một ống tre nứa rỗng ( đường kính 2 –
5cm), và các ống hút nhỏ bằng tre nứa nối kết với thân độ dài từ 4 – 6 cm. Hút thuốc với
người Mạ là một thói quen từ nhỏ và nó giúp cho người ta xua đi sự lạt lẽo, xua đi các
loại côn trùng xung quanh môi trường sống khi lên rừng làm rẫy…
Đến nay, họ đã hút thuốc trên thị trường nhất là thanh niên, còn các cụ già vẫn
hút bằng tẩu, phụ nữ Châu Mạ ở đây hay hút thuốc quấn trong miếng giấy
1.2.3 Tổ chức xã hội và sinh hoạt cộng đồng
1.2.3.1. Tổ chức xã hội.
Xã hội truyền thống của người Mạ tổ chức theo đơn vị Làng ( Bon hay Bòn
lơgar). Làng truyền thống là một Công xã nông nghiệp mang tính tự cấp tự túc và ít có
mối quan hệ với nhau.

Đứng đầu Làng là người đàn ông cao tuổi, có uy tín và kinh nghiệm – họ được
gọi là Già làng (Chau kangbon). Bên cạnh đó có thêm nhứng người cao tuổi khác làm
nên một Hội đồng già làng. Hội đồng này có trách nhiệm cùng già làng quản lý buôn
mình thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội, xét xử theo luật tục, hướng dẫn làm ăn
sinh sống, cúng tế… Do vậy các già làng luôn là người có tinh thần công bằng và vì lợi
Trang 22
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
ích chung. Trước năm 1975 trong Làng người Mạ còn có các chức sắc như phó lý
(poa), lý trưởng (raklong), chánh tổng (kuang tông)…[13].
Ranh giới giữa các làng có thể lấy ngọn núi con suối để phân chia. Làng này
không đựơc xâm phạm đến lãnh thổ làng khác, đất đai rừng núi thuộc sở hữu chung của
cả làng. Mọi người trong làng có quền được canh tác và hưởng toàn bộ sản phẩm mà họ
làm ra không phải nộp thuế cho bất cứ ai. Đồng thời có trách nhiệm làm các công việc
chung của làng: Làm dường lên rẫy. làm công trình thủy lợi.
Hiện nay, do quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa với các tộc người khác và sự
phát triển của xã hội nên tổ chức làng truyền thống bị phá vỡ. Ví dụ như buôn Đanhar
thì Trưởng thôn là bác K’ Lu, Phó thôn là chị Ka Dịu, Trưởng ban Mặt Trận Tổ Quốc là
chú K’ Vương, Bí thư chi bộ Đảng là bác K’Rít, Bí thư chi Đoàn là anh K’Miêng…
Như vậy, các chức danh trên giống hoàn toàn như một thôn của người Việt.
Sau đơn vị Làng là dòng họ và gia đình. Gia đình người Mạ theo phụ hệ tuy trong
đó vẫn còn các tâm tính của mẫu hệ như các tộc người Cơho, Chil. Churu.
Gia đình truyền thống của người Mạ là gia đình lớn, cư trú phân tán thành 2 hay
3 nhà liền kề nhau. Mỗi gia đình lớn có 2, 3 đến 6,7 cặp vợ chồng cùng con cái của họ,
tất cả khoảng 10 – 30 thành viên thuộc 3, 4 thế hệ một.[13]. Người đứng đầu gia đình
lớn là người đàn ông cao tuổi thuộc thế hệ trên của gia đình (Chau po hìu).
Gia đình lớn của người Mạ tồn tại hai hình thức tổ chức: cư trú chung dưới một
nóc nhà dài và sản xuất chung; thứ hai là chỉ cư trú chung dưới nóc nhà dài chung.
Ngày nay hình thức tổ chức gia đình lớn ở Đạ Tẻh – Lâm Đồng không còn, thay
vào đó là hình thức gia đình nhỏ.

1.2.3.2 Sinh hoạt công đồng
Sinh hoạt cộng đồng của người Mạ ở Đạ Tẻh Lâm Đồng diễn ra trên các mặt chủ
yếu là kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nền kinh tế nông nghiệp trồng trọt là chủ yếu, đồng bào Mạ ở Đạ Tẻh Lâm Đồng
trong mấy năm gần đây đã lấy cây điều làm cây trồng chính. Trước đây, hoạt động kinh
tế chủ yếu là canh tác lúa rẫy, săn bắt, hái lượm và trồng thêm các loại cây như bầu,
thuốc lá, bông vải,…Các hoạt động này được tến hành theo mùa và theo thời gian nhất
định trong năm, đồng thời cũng gắn liền với các hoạt động tâm linh là các lễ cúng Yàng.
Trang 23
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Bên cạnh trồng trọt, hoạt động chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp cũng diễn ra
nhưng ở quy mô hẹp. Người Mạ ở đây thường chăn
nuôi trâu, bò, gà vịt, dê, lấy phương thức thả rong ở
nhà hay trong rừng là chính, chỉ khi cần mới tìm bắt
về. Hoạt động thủ công nghiệp diễn ra như dệt vải,
đan gùi và các dụng cụ khác. Hiện nay các sản
phẩm này trở thành hàng hóa có giá trị, đặc biệt sản
phẩm Rượu cần đã trở thành một hàng hóa đuợc biết đến nhiều từ buôn Con Ó, xã Mỹ
Đức với tay nghề của ông K’Tỏi.
Về sinh hoạt văn hóa xã hội, cộng đồng người Mạ truyền thống có nhiều hoạt
động hội hè, lễ nghi diễn ra trong năm gắn liền với các hoạt động kinh tế, tín ngưỡng tôn
giáo hay hoạt động quản lý cộng đồng.
Làng truyền thống của người Mạ thường hội họp khi có xét xử các vụ việc vi
phạm luật tục cần hỏi ý kiến của dân làng, hay già làng thông báo một công việc nào đó
của buôn. Khi đó địa điểm họp là trước sân nhà già làng, hay một bãi đất rộng giữa làng.
Ngày nay. các hoạt động được diễn ra ở nhà văn hóa, hội trường thôn.
Các hoạt động văn hóa, lễ hội của người Mạ ở Đạ Tẻh Lâm Đồng tiêu biểu như:
Lễ hội mừng lúa mới, lễ hội Cồng chiêng… thu hút được đông đảo người dân tham gia.
Bởi trong xã hội truyền thống, người Mạ có tín ngưỡng thờ đa thần, vạn vật hữu linh và

vai trò của thần linh rất lớn, là kẻ chi phối hoạt động sinh hoạt sản xuất của tộc người
này. Theo thời gian , những năm 1945 – 1960, đạo Thiên Chúa và đạo Tin Lành du nhâp
vào nơi đây và đẩy lùi hầu hết các sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Mạ ở Đạ
Tẻh Lâm Đồng thay vào đó là các buổi sinh hoạt theo nghi thức của đạo Thiên Chúa,
Tin Lành vào dịp Chúa Giáng Sinh chẳng hạn.
Theo anh K’Túc ( Trưởng thôn Con Ó xã Mỹ Đức), hiện nay buôn Con Ó có 110
hộ người Mạ thì đã có 66 hộ theo Công giáo và 5 hộ theo Tin Lành. Đến nay, các lễ hội
lớn như cồng chiêng hay mừng lúa mới ở Đạ Tẻh hàng năm diễn ra luân phiên giữa các
buôn Đạ Nhar, Con Ó, Tố Lan, K’ Long và thị trấn ĐạTẻh vào dịp tháng 3 hàng năm do
chính quyền địa phương đứng ra tổ chức.
Trang 24
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.
Tìm hiểu văn hóa Rượu Cần của người Mạ ở Đạ Tẻh - Lâm Đồng.
Sinh hoạt cộng đồng của người Mạ ở Đạ Tẻh hiện nay diễn ra quy củ hơn về thời
gian và địa điểm. Hoạt dộng sản xuất theo mùa trong một năm là mùa điều, mùa măng
lồ ôvà mùa đi rừng bẫy thú.
Hoạt dộng văn hóa diễn ra ít hơn và đa số là những cuộc họp buôn diễn ra ở nhà
văn hóa với nội dung chủ yếu là phổ biến chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Đó là biểu hiện của sự phai mờ dần vốn truyền thống dân tộc trong tiềm thức người Mạ
dù vô thức hay ý thức .
1.2.4 Phong tục – lễ nghi – Tín ngưỡng.
Phong tục
Hôn tục: Trong chế độ hôn nhân phụ hệ đã được xác lập ở người Mạ từ lâu. Tuổi
kết hôn ở người Mạ trước đây là 13-15 tuổi với nữ và 15-17 tuổi với nam.[6]. Về cơ
bản, quyền chủ động hôn nhân thuộc về gia đình người con trai.
Trai gái luyến ái trước hôn nhân không bị coi là phạm tội. Trai chưa vợ, gái chưa
chồng có quyền công khai chuyện chăn gối nhưng khi đã có lế hỏi - cưới thì phải chung
thủy một vợ - một chồng là điều kiện bắt buộc ( luật tục Mạ phạt rất nặng trường hợp
ngoại tình).
Hiện tượng “nối dây” trong quá khứ ở địa bàn Đạ Tẻh đã xảy ra ( hiện nay ở Đạ

Tẻh hiện tượng này vẫn còn).
Việc cưới xin của người Mạ có nhiều thủ tục và được tiến hành qua nhiều giai
đoạn trước khi làm lễ thành hôn. Hứa hôn là hợp luật tục.
Nhà có con trai lên 9 – 10 tuổi có quyền đến một nhà khác thuộc dòng họ khác,
mang theo lễ vật gồm: Rượu cần, gà, chuỗi hạt cườm, vòng đeo tay bằng đồng, áo khố,
tấm đắp… để chọn “nơi” cho con trai mình. Nhà gái đã nhận lễ vật thì xem như hôn
nhân được định đoạt, trường hợp khi lớn lên có một trong hai bên từ hôn sẽ bị làng phạt
vạ phải đền lại lễ vật trước đây đi hỏi.
Hôn nhân ở người Mạ trải qua 2 nghi lễ bắt buộc: “dan bao” – lễ hỏi; “lup bau”
– lễ cưới.
+ Lễ hỏi: Đối với lễ hỏi, nhà trai nhờ người làm mối (kơnoar dăn bau) để làm
mối liên hệ giữa hai bên. Hai gia đình sẽ ấn định ngày tổ chức cưới và các vật lễ
cưới.Vật lễ thách cưới là chiêng, ché, trâu, tấm đắp, váy, khố…
+ Lễ cưới:
Trang 25
SVTH: Nguyễn Thị Nhung, Hoàng Văn Luyện, Lê Thanh Hải.

×