Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Thế Lữ với cảm xúc thi ca về con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.83 KB, 14 trang )

THẾ LỮ VỚI CẢM XÚC THI CA VỀ CON NGƯỜI (05/10/2007 11:07)
VNQĐ - Thế Lữ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ, sinh ngày 6 tháng 10 năm 1907, tại
ấp Thái Hà, Hà Nội trong một gia đình công giáo. Ông quê ở làng Phù Đổng, huyện
Tiên Du (nay là Tiên Sơn, Bắc Ninh. Năm 1932 Thế Lữ bắt đầu tham gia Tự lực văn
đoàn và là một trong những cây bút chủ lực của báo "Phong hóa", "Ngày nay", "Tinh
hoa". Trong giai đoạn này, ngoài thơ ông còn sáng tác truyện trinh thám. Ông là Hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội nghệ sĩ Sân khấu VN .Thế Lữ được truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh về VHNT năm 2001. VNQĐ xin trân trọng giới thiệu bài viết
của tác giả Phạm Đình Ân nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam, nhờ thơ Thế Lữ (1907-1989), cái tôi được
tôn vinh theo một ý nghĩa, một quan niệm mới. Trước đó, Tản Đà và trước đó nữa,
những nhà nho tài tử khác, có đưa ra những cái tôi, như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát,v.v nhưng những cái tôi ấy vẫn chưa vượt thoát ra ngoài quan niệm văn học
trung đại là dưỡng chí, tu thân, “tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Thơ mới đã giới thiệu
một cái tôi hoàn toàn mới mẻ, theo một quan niệm đến từ phương Tây. Đó là cái tôi
tự ý thức về chính mình trước cộng đồng, tách khỏi xã hội nông nghiệp cổ truyền.
Nói thơ Thế Lữ lâng lâng, bâng khuâng, phới phới của “buổi đầu lưu luyến” khi thơ
mới còn trinh nguyên, thanh sạch và hơi giản đơn, thật thà là đúng, nhưng chỉ đúng
một phần, đúng khi chỉ đọc lướt qua, cảm nhận một âm hương chung ở bề mặt. Thực
ra, cái tôi trong thơ Thế Lữ không chỉ cô đơn theo nghĩa là biểu hiện của một cách
nói nghệ thuật trong Thơ mới, mà khác thế, hơn thế, cái tôi ấy mang nặng tâm sự
thời thế, thân phận với nhiều buồn thương xót xa, nuối tiếc nghi ngại, chán chường
Bất lực, nhà thơ không chỉ bước vào thiên nhiên, vào cõi Tiên, vào nghệ thuật để tìm
cái đẹp mình thờ phụng mà còn bước vào chính mình, ẩn sâu vào nỗi riêng, nỗi một
mình. Nhà thơ vừa rất ý thức về thân phận một người dân mất nước, về cuộc đời
tráo trở, đen bạc nhưng đồng thời ông cũng rất hiểu rằng không thể thay đổi được,
không thể làm gì khác hơn khi mình “chỉ là một khách tình si”, một trí thức tiểu tư
sản. Những năm qua, nhiều ý kiến cho rằng thơ mới nói chung và thơ Thế Lữ nói
riêng là tiếng nói thoát ly đời sống thực tại. Nhận xét ấy chỉ đúng một phần hoặc
chưa chính xác, nếu nhất trí rằng thiên nhiên, tình yêu, nỗi buồn thân thế, thời thế,
cả cõi Tiên nữa, cũng chính là hiện thực đời sống, hiện thực của con người. Giáo sư


Hà Minh Đức từng khẳng định: “Thơ mới không phải là tiếng nói thoát ly đã quên
lãng đi thực tại ấy mà là tiếng nói buồn thương trước cuộc đời ( ) Nhiều nhà thơ
trong phong trào Thơ mới đã có sự thức tỉnh lương tri trong cách cảm nhận nghệ
thuật của mình(1).
Là nhà thơ nói nhiều về cõi Tiên, Thế Lữ cũng là tác giả của nhiều câu thơ, đoạn thơ
nói đến cõi trần tục lụy. Có lẽ không một nhà thơ mới nào khác lại có nhiều đến thế
những bài thơ, đoạn thơ, câu thơ có cùng một nỗi buồn chán nản, bất bình về cái xấu
của người đời. Phải chăng, vì “chỉ là một khách tình si - Ham vẻ đẹp có muôn hình
muôn thể” mà ông dị ứng sâu sắc với cái xấu, cái phản thẩm mỹ? Những cái xấu ấy
ở thời nay được gọi chung là cái tiêu cực. Thế Lữ xót xa khi trên đường tìm đến cái
đẹp, ông phải đi qua những cái xấu, khi trên đường hoàn thiện cái tôi tự ý thức một
cách triệt để, bước sâu vào nỗi riêng, nỗi một mình, vào thiên nhiên, vào cõi Tiên,
vào nghệ thuật, thì ông lại va đập vào các mối quan hệ đạo đức đời thường trần thế.
*

Hình tượng cái tôi trong thơ Thế Lữ không thuần nhất. Bên cạnh, bên trong, và cả
bên trên cái tôi tự ý thức rộng mở, mộng tưởng, hồi tưởng ấy là cái tôi phân thân.
Thế Lữ mâu thuẫn trong thống nhất trên cơ sở cái tôi phân thân ấy. Ông đã được
(hoặc bị) phân thân, cụ thể là phân đôi trong chính số phận mình, ngay từ thời thơ
bé, bởi vì bà mẹ ông theo đạo thiên chúa. Ấy là Tình và Nghĩa. Tâm lý và tình cảm
phân thân của Thế Lữ ảnh hưởng sâu sắc và chi phối triệt để suốt cả cuộc đời hoạt
động văn học, nghệ thuật của ông, thể hiện cụ thể ở các hành vi sáng tạo và trên
các trang văn. Trên nét lớn, nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa lãng mạn phù hợp
với trạng thái phân thân sẵn có của Thế Lữ, khiến ông đi giữa hai khuynh hướng lãng
mạn và hiện thực, vừa làm nghệ thuật thuần tuý vì nghệ thuật lại vừa làm nghệ
thuật vì đời sống xã hội của con người. Thế Lữ cũng là nhà thơ đi giữa tiên cảnh và
trần gian, giữa hy vọng và thất vọng, giữa lối sống, cách nghĩ phóng khoáng, mơ
mộng với tác phong cẩn trọng, tỷ mỷ. Như vậy, khó tránh khỏi mâu thuẫn. Có thống
nhất được mâu thuẫn hay không, lại tuỳ thuộc vào bản lĩnh, hoàn cảnh riêng và tài
năng của từng nhà văn. Giáo sư Hà Minh Đức từng nhận xét: “ các nhà thơ mới

luôn luôn bộc lộ những mâu thuẫn ngay trên từng vấn đề cụ thể. Họ chán nản với
cuộc đời hiện tại, nhưng lại thiết tha yêu sự sống và nguồn mạch tạo nên sự sống, lại
không thể ở ngoài cuộc sống”(2).
*
Thế Lữ là nhà thơ đầu tiên nói nhiều đến hình ảnh người lính chinh phu và để lại
nhiều dư vang nhất trong thơ mới. Hình ảnh người khách chinh phu bên cạnh hình
ảnh người tài tử lạc loài là một khía cạnh thuộc hồn thơ rộng mở theo không gian của
Thế Lữ, một hồn thơ luôn luôn khát khao xê dịch đến một chân trời mới ảo huyền
sương khói, nhớ thương vì xa cách. Ở đó có một chút hiệp sĩ kiểu Kinh Kha “một đi
không trở lại” và ẩn giấu một tâm sự yêu nước. Thế Lữ có hai bài thơ có bóng dáng
người khách chinh phu rõ nét nhất Tiếng gọi bên sông và Giây phút chạnh lòng và
bốn bài nói đến người tài tử lạc loài Con người vơ vẩn, Trước cảnh cao rộng, Tôi
muốn đi, Tự trào. Hai con người này có điểm chung là thể hiện khát vọng vượt thoát
không gian của hồn thơ Thế Lữ, đậm chất thi vị lãng mạn chủ nghĩa, điểm khác là
người khách chinh phu mang ý nghĩa xã hội rõ hơn, còn chàng tài tử kia chỉ là một
kẻ bộ hành phiêu lãng, kẻ bộ hành ngơ ngác, tự tách mình ra khỏi xã hội, nhằm thoả
mãn nhu cầu tự do một cách tuyệt đối nhưng mơ hồ, nhu cầu làm đẹp thuần tuý
trong văn chương.
Khách chinh phu là đề tài giao thoa và cộng sinh với những đề tài gần gũi. Khách
chinh phu, gọi khác là người đi xa, người tha hương, gắn với cuộc chia ly (tống biệt),
với tâm trạng nhớ thương xa cách và cả khát vọng tự do nữa, đều thuộc những đề tài
có từ xưa trong văn học trung đại và cận đại.
Sang các thế kỷ XVIII, XIX và đầu thế kỷ XX, do những biến động xã hội, khi luỹ tre
làng không còn là bức tường bao bọc vững chắc xóm thôn, làng xã nữa thì cảnh chia
ly diễn ra nhiều hơn. Dễ thấy nhất là sự ra đi của các sĩ phu yêu nước hoặc của
những người lính thú thời xưa. Những cảnh chia ly, xa cách, cùng nỗi nhớ thương
trong vọng vào văn chương. Những cuộc chia ly trong thơ Đường cũng ảnh hưởng
vào văn chương Việt Nam khá sâu sắc. Nhân vật người khách chinh phu trong thơ
Thế Lữ vừa thấp thoáng bóng dáng nhân vật Kinh Kha của văn học Trung Hoa, lại
vừa là bạn bè gần gũi của các nhân vật Dũng,Thái, Trúc (Đoạn tuyệt) và Phạm Thái,

Quang Ngọc, Nhị Nương (Tiêu Sơn tráng sĩ) trong văn chương tự lực văn đoàn.
Tự lực văn đoàn chủ trương làm cách mạng xã hội, cho nên những nhân vật trong
văn xuôi có hành động xã hội rõ ràng hơn. Về sau, khách chinh phu tiếp tục hắt bóng
vào thơ Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Hàn Mặc Tử, nhưng cái vẻ mơ màng, mờ ảo
khói sương của nhân vật này giảm đi.
*
Trong thơ Thế Lữ, hình ảnh mỹ nữ, Nàng Tiên thuộc thế giới con người và Nàng
Thơ thuộc thế giới nghệ thuật, lặp lại với tần số rất cao, trở nên những hình tượng
nghệ thuật khi thì đơn, khi thì kép, giữ vai trò vừa như là cái đẹp, vừa như là đối
tượng để yêu, để được kết bạn mà chủ thể thẩm mỹ hướng tới.
Riêng mỹ nữ, mà Nàng Tiên chỉ là một bộ phận, cùng với tình yêu đối với vẻ đẹp mỹ
nữ và tình yêu lứa đôi, là những đề tài từng được Thế Lữ sử dụng nhiều không chỉ
trong thơ mà còn trong các lõnh vực khác như văn xuôi nghệ thuật, sân khấu kịch
nói."
Trong thơ Thế Lữ, Nàng Tiên không có mối quan hệ thông thường với cõi Tiên, như
một thực thể dứt khoát phải tồn tại trong một không gian nhất định. Cõi Tiên ở đây
thuộc không gian mơ ước. Nàng Tiên cũng không co trong thực tế mà tồn tại trong
ước mơ của cái tôi chủ quan. Dù cõi Tiên có gần gũi cõi trần đến mấy thì nó vẫn mơ
hồ, cao xa, ít xác định. Còn nàng tiên thì từ lâu đã giáng thế, lúc hoá thành nàng
thơ, lúc thành mỹ nữ người trần mắt thịt, khiến nhà thơ có thể yêu ngay theo cách
của mình. Lâu nay, khi viết về tiên, về cõi tiên trong thơ Thế Lữ, hầu hết mọi người
đều tập trung nói đến không gian cõi tiên, còn nàng tiên thì chỉ nhắc qua, không rõ
ràng tách bạch. Thật ra trong thơ Thế Lữ, cõi tiên là biểu tượng của khát vọng tự do
trong không gian - cả không gian thiên nhiên và không gian tâm tưởng - còn Nàng
tiên lại thuộc một phạm trù khác: Biểu tượng về cái đẹp lý tưởng mang tính nữ. Có
thể có sự trùng hợp về tên gọi tiên, bởi vì Nàng tiên vốn từ cõi tiên mà ra, nhưng ở
đây cõi tiên và nàng tiên không còn là một nữa rồi.
Lẽ thường trong văn chương cổ kim đông tây, giữa mỹ nữ và tình yêu có một mối
liên hệ qua lại rất gần gũi như một quy luật tất yếu. Trong thơ Thế Lữ lại khác. Nói
đến mỹ nữ chưa hẳn là nói đến tình yêu. Và, nói đến tình yêu không hẳn đó là tình

yêu thuần tuý. Là một nhà thơ tiêu biểu thuộc buổi đầu của phong trào thơ mới, Thế
Lữ nhìn chung rất khác những nhà thơ lớp sau như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Vũ
Hoàng Chương Thế Lữ viết về “cô em”, tiên nữ, viết về tình yêu nửa mơ nửa thực,
nửa tiên giới, nửa trần gian, hầu như ít nhuấm sắc màu nhục cảm mà thiên về thanh
cao, xa lánh đời thường.
Cái tôi trữ tình trong thơ viết về tình yêu thường hướng đến người khác giới, nhà thơ
thuộc giới nam thì hầu như cái tôi ấy là nam, người nam ấy tâm sự với người nữ.
Những trường hợp trái khoáy không nhiều. Tuy nhiên, không phải bất kỳ khi nào
nam nói về nữ (hoặc ngược lại) thì bài thơ ấy đều là thơ tình. Đọc kỹ Thế Lữ, thấy
ông có nhiều bài thơ nói về em, cô em, tiên nữ, nhưng không phải là tất cả những
bài ấy đều là thơ tình thuần tuý chọn vẹn. Số bài giành cho tình yêu của cái tôi chữ
tình, tức tình yêu lứa đôi thuần tuý chỉ là hai bài, chiếm tỷ lệ hơn một phần chín số
bài nói đến tình yêu. Hai bài ấy, cũng chỉ chiếm gần một phần mười số bài nói đến
người đẹp, càng qua ít ỏi trong tổng số bốn tám bài thơ của Thế Lữ.
Như vậy, trong thơ Thế Lữ, không phải mọi cô gái đang ở tuổi yêu đều là người trong
cuộc yêu. Họ đều có điểm chung là mỹ nữ, là cái đẹp mà nhà thơ hướng đến để
chiêm ngưỡng, ngợi ca - Đó là cái đẹp thuộc về thế giới con người, bên cạnh cái đẹp
thuộc về thế giới thiên nhiên và cái đẹp thuộc về thế giới nghệ thuật - và có điểm
riêng ở hai cấp độ. Cấp độ thứ nhất, đó là đối tượng để nhà thơ gửi gắm nỗi niềm mơ
ước, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, bày tỏ tình yêu rộng mở, nhiều sắc thái của
mình đối với chính tình yêu, đối với những cô gái mà nhà thơ thấy họ nên yêu và có
quyền được hưởng tình yêu, nhưng họ không phải là đối tượng để yêu của cái tôi trữ
tình. Cấp độ thứ hai đó là đối tượng được/bị cái tôi trữ tình đưa vào cuộc yêu hoặc
đơn phương hoặc song phương của chính mình - một tình yêu thuần tuý nghĩa đen.
Dẫu sao thì Thế Lữ cũng có hai bài thơ yêu thuần tuý mà chất lượng nghê thuật có
thể sánh ngang những bài thơ xuất sắc của những nhà thơ khác cùng thời. Đó là
bài Khúc hát bên sông (Tên ban đầu ở tập Mấy vần thơ là Tiếng hát bên sông) và
bài Yêu.

P.Đ.A

Thế Lữ: 100 năm khối vuông rubic
TTO - Nếu còn sống, năm nay Thế Lữ tròn trăm tuổi. Năm
2007 kỉ niệm 100 năm ngày sinh của ông (6-10-1907) trùng
kỉ niệm 50 năm tuổi của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam
(1957).
Sống động như một khối vuông rubic, Thế Lữ là một tài năng
muôn mặt: Thế Lữ - nhà báo, nhà phê bình văn chương, nghệ
thuật, Thế Lữ - thi sĩ, Thế Lữ - nhà văn của truyện trinh thám
kinh dị, lãng mạn đường rừng… Và, cuối cùng, tất cả quy tụ vào phương diện chói
sáng nhất: Thế Lữ của sân khấu.
1. Khởi từ hoa-hồng-ngây-thơ-xứ-Lạng…
Cha của Thế Lữ nguyên là sếp ga xe lửa tuyến đường sắt Lạng Sơn -Thanh Hóa. Sinh
con năm 1907, cha đặt tên khai sinh là Nguyễn Thứ Lễ. Hoài Thanh nhận xét hóm
hỉnh trong Thi nhân Việt Nam: “NNơi sinh: Thế Lữ lấy làm lạ thấy người nhà nói là
Thái Hà ấp, Hà Nội, còn Thế Lữ cứ tưởng là Lạng Sơn, nơi đã ở từ năm còn bé đến
năm 11 tuổi”.
Mới vài ba tháng tuổi, Thế Lữ-kết quả cuộc tình lãng mạn của chàng kí ga, quê gốc
Kinh Bắc, với cô gái ngoan đạo (Thiên Chúa giáo) nhà lành người Hải Phòng, quê gốc
Nam Định-đã bị dứt khỏi vú mẹ, bế lên Lạng Sơn ở với bà nội, cha đẻ và u (vợ chính
thức của cha). Sau này, vào tuổi thất thập, ông vẫn buồn rầu nhớ lại: chủ đề chính
thời bé dại của ông, từ lúc ẵm ngửa đến năm 10 tuổi là xa cách, nhớ thương dằng
dặc người mẹ đ, một mình ở Hải Phòng, còn mình thì bé bỏng ở mãi Lạng Sơn.
Suốt thời thơ ấu trôi qua ở xứ Lạng, nơi non nước cây rừng/Nước non thanh sạch
cách chừng phồn hoa (thơ Thế Lữ), Thế Lữ sống hoang dại, sinh năm Đinh Mùi, cầm
tinh con dê, bà nội gọi là “con dê núi”. Cả nhà gọi tên cúng cơm là “cậu Gầy”, bởi
người cậu gầy nhẳng chỉ xương là xương. Bố Gầy làm sếp ga, theo tàu quanh năm
suốt tháng, chả mấy lúc ở nhà. Về nhà, bố hay đánh Gầy vì tội rong chơi lêu lổng.
Gầy sợ bố, quan hệ cha con thưa thớt, sượng sùng. Nhưng bố Gầy giỏi chữ Tây, chữ
Tàu, dạy Gầy học chữ từ bé. Gần gũi cậu Gầy nhất trong tuổi ấu thơ hóa ra là bà nội,
nhưng bà cay nghiệt với u, không bằng lòng thấy Gầy thương u.

Người Gầy thương nhớ nhất vẫn là mẹ đẻ, mỗi năm được lên thăm Gầy đôi ba bữa.
Mỗi lần dứt áo biệt Gầy về Phòng (Hải Phòng), mẹ con đều chứa chan nước mắt. Mẹ
lên tàu, tàu lăn bánh, Gầy nhớ mẹ quặn thắt cả lòng, chỉ biết phục xuống đường tàu,
vuốt ve sắt lạnh, dõi theo tàu chở mẹ tuốt luốt xuống Hải Phòng, xa biền biệt…
Giời xui đất khiến, tâm hồn đa cảm của Gầy từ bé dại đã biết yêu hoa. Một sớm xuân
thức dậy, mới tí tuổi đầu, cậu Gầy đã tê điếng hồn vía khi ngó thấy một nụ hồng
nhung xứ Lạng đang nhè nhẹ cựa mình mở cánh. Cảm giác rợn ngợp mê cuồng trước
cái đẹp xâm chiếm lập tức trái tim thơ dại của Gầy, và mãi mãi ở lại trái tim nghệ sĩ
của Thế Lữ suốt cả một đời. Cho đến khi thành ông già đau yếu, sống nốt phần đời
cuối ở TP Hồ Chí Minh (ông mất năm 1989), trong trí nhớ không tàn phai của Thế Lữ
vẫn còn nguyên tươi niềm ngạc nhiên khờ dại với nét mong manh, thấp thoáng cánh
hoa baycủa những-ngày-hoa-hồng-ngây-thơ-xứ-Lạng… Và xứ Lạng thành thế giới
đầu tiên về cái đẹp của Thế Lữ, với những ấn tượng đầu đời: vừa lãng mạn hoang vu,
vừa ngất ngây sợ hãi…
2. Hành trình săn đuổi cái đẹp
Rốt cuộc, cái thế giới tràn ngập ấn tượng nguyên sơ ấy đã ám ảnh chủ thể sáng tạo
Thế Lữ, kiến tạo trong tâm hồn ông cảm giác rợn ngợp luôn luôn trước những vẻ đẹp
thoáng qua (tên một bài thơ của ông).
Ngoan đạo, đắm đuối mê man tìm cái đẹp trong Kinh Thánh, song Thế Lữ lại thấy
bông hồng xứ Lạng hắt bóng không phải trên vườn địa đàng xa ngái, mà ở ngay cõi
trần, trong vẻ đẹp ngồn ngộn da thịt của vườn-trần-gian. Ông thường đọc cho con
trai Nguyễn Đình Nghi đoạn Kinh Thánh: “Chúa Jesus bảo môn đồ: Dù vua Salomon
ăn vận quá ư quý phái, sang trọng, nhưng vẫn không mặc đẹp bằng bông huệ trắng
tươi ngoài đồng”.
Từ ấy, Thế Lữ phải lòng cái đẹp hồng trần. Ông thú nhận hân hoan trong Cây đàn
muôn điệu: "Tôi chỉ là một khách tình si/Ham vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ/ Mượn cây
bút nàng Ly Tao tôi vẽ/ Mượn cây đàn ngàn phím tôi ca".
Và ông lãng du không mỏi trên đường truy tìm cái đẹp. Tuổi hoa niên, từ Lạng Sơn
về Hải Phòng ở với mẹ chẳng được lâu, lại biệt mẹ già, tuổi xuân dấn thân lên chốn
Hà thành, Thế Lữ chính thức bước vào nghiệp văn chương. Hình ảnh thanh xuân của

Thế Lữ là kẻ lang bạt kì hồ, “mũ lợt bốn phương trời sương nắng gội”,“tóc lộng tơi
bời gió bốn phương”. Cái phút giây hoan lạc nhất, theo ông, là trên đường thiên
lí: Rũ áo phong sương trên gác trọ/ Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang”.
Trong tín ngưỡng riêng về cái đẹp, Thế Lữ không chấp nhận trạng thái nửa vời, nửa
mùa. Ông nghiêng lệch hẳn về duy mĩ, duy cảm. Rất tự nhiên, đó là những lý do
thẩm mĩ xui khiến ông thoạt đầu chọn thơ trữ tình làm nơi thờ phụng thiêng liêng cái
đẹp, và khởi hành chặng đường săn đuổi cái đẹp. Ông coi văn hóa phương Tây là
phương tiện hữu hiệu, để biện hộ cho mục đích mà ông hằng theo đuổi suốt đời:
sáng tạo theo tín niệm riêng về cái đẹp trong thế giới tác phẩm riêng của mình.
Và không ngẫu nhiên, Thế Lữ thành thi sĩ tiền phong của Thơ Mới ngay từ những
năm 30 của thế kỉ XX.
Theo Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam: “ Độ ấy Thơ Mới vừa ra đời, Thế Lữ như
vừng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam. Dầu sau này danh vọng
Thế Lữ có mờ đi ít nhiều, nhưng người ta không thể không nhìn nhận cái công của
Thế Lữ đã dựng thành nền Thơ Mới ở xứ này. Thế Lữ không bàn về thơ mới, không
bênh vực thơ mới, không bút chiến, không diễn thuyết, Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm
nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải
tan vỡ. Bởi không có gì khiến người ta tin ở thơ mới hơn là đọc những bài thơ mới
hay. Mà thơ Thế Lữ về thế cách mới không chút rụt rè, mới từ số câu, số chữ, cách
bỏ vần, cho đến tiết tấu âm thanh".
Tưởng không còn lời nào huy hoàng, đích đáng hơn Hoài Thanh khi viết về sức mạnh
riêng của con chữ thơ Thế Lữ, với vai trò thi sĩ tiền phong của Thơ Mới.
Khai sáng Thơ Mới, mở mang cho mình một “cõi thơ” riêng độc đáo, thành người thứ
sáu trong văn phái Tự Lực Văn Đoàn (sau anh em dòng họ Nguyễn Tường: Nguyễn
Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long ( Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân
( Thạch Lam) và Trần Khánh Giư ( Khái Hưng), nhà thơ trào phúng Tú Mỡ, nhưng
Thế Lữ không dừng ở đó. Ông tiếp tục chiêm nghiệm cái đẹp ở một góc khác.
Và những ấn tượng ấu thơ xứ Lạng hoa hồng của ông lại được phát sáng trong một
thể loại văn xuôi, mà rốt ráo, ông lại vẫn là người mở đường: “tiểu thuyết trinh thám
Annam” đầy bí hiểm, li kì, hồi hộp: Vàng và máu (1934), Bên đường Thiên

Lôi (1936), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941).
Thêm nữa, Thế Lữ còn là tác giả những truyện ngắn “lãng mạn đường rừng”, như thể
ông đã hái lượm vô tình trên các nẻo đường lang bạt: Một đêm trăng, Vì tình, Câu
chuyện trên tàu thủy, Mau trí khôn, Một người say rượu, Câu chuyện đường rừng…
Khi hành nghề phóng viên, được báo Phong Hóa giao việc “gác gôn” chuyên mục
Thơ, và đề xuất giải thưởng “Tự lực văn đoàn” hàng năm, chính con mắt xanh tinh
đời của Thế Lữ đã phát hiện Xuân Diệu, ngay trong buổi đầu bỡ ngỡ với Thơ Mới, sẽ
là kẻ lên ngôi ông hoàng thơ tình Việt Nam hiện đại thế kỉ XX. Lúc ấy, chàng thi sĩ
tóc quăn này mới chớm tuổi đôi mươi và chưa hề biết mình sẽ đăng quang. Vậy mà,
Thế Lữ đã hoan hỉ tuyên bố: Từ nay, chúng ta đã có Xuân Diệu. Và Xuân Diệu chính
là một vẻ đẹp của người trần, trong thế giới của người đời mà ông phát hiện.
3. Cha và con và thánh đường sân khấu
Song, có lẽ vì qúa yêu cái đẹp và yêu mê hơn nữa sự không ngừng phát hiện vẻ đẹp
mới lạ trong vườn- trần- gian mà Thế Lữ đã đủ nhẹ lòng để giã từ thơ, khi ông thấy
Thơ Mới đã ngõ cụt đường cùng, khi tiểu thuyết trinh thám, lãng mạn đường rừng đã
nhàm nhạt cũ phai và các bài báo cũng trở nên bức bối chật hẹp so với chí tang bồng
văn nghệ của ông.
Buông bỏ hết sau lưng, Thế Lữ đến với kịch, cõi nghệ thuật hữu hình (so với văn
chương), lại rất mới lạ, đầy hương sắc Tây phương, chưa in dấu chân người khai phá.
Lại vận vào người cái si mê của kẻ mở đường, Thế Lữ lại một lần nữa động lòng
chinh phục, khẩn hoang cõi bờ mới mẻ mênh mang của cái đẹp. Vào đúng lúc xuất
hiện thể loại kịch, vừa đủ lạ lùng để ông khai phá, vừa đủ rộng rinh cho Thế Lữ thâu
góp tinh túy của các thể loại văn chương mà ông từng trải, để đổ vào kịch những
sáng tạo đầy tràn…
Rốt cuộc, Thế Lữ đã làm kịch với con mắt và tấm lòng của nhà thơ, nhà văn, nhà
báo, nhà mĩ thuật…Những ban kịch do ông gây dựng đã có tiếng vang : Ban kịch
Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ. Thế Lữ tự học mà thành “nhà dàn cảnh” (ông khiêm tốn,
không tự nhận mình là đạo diễn). Những hoạt động dàn cảnh và diễn kịch của Thế Lữ
lừng lẫy tiếng tăm trên sân khấu Hà Nội, Hải Phòng những năm 30,40. Vào thời điểm
ấy, đúng là Thế Lữ có công “Việt Nam hóa” kịch nói, một thể loại rặtTây phương mà

người Pháp đô hộ không hề có ý định mang tặng cho sân khấu Việt Nam. Ông cũng
là người có công đầu đặt nền móng cho một thánh đường sân khấu mang vẻ đẹp
riêng biệt Việt Nam.
Hơn thế nữa, Thế Lữ có công đặc biệt: con trai trưởng của ông, NSND, đạo diễn
Nguyễn Đình Nghi, là một sản phẩm nghệ thuật mà Thế Lữ tạo tác trong cuộc hạnh
ngộ với cái đẹp của sân khấu. Sâu xa hơn nữa, đó là cuộc hạnh ngộ những tinh túy
của hai nền văn hóa Việt Nam và Pháp.
Năm 1982, lần đầu đặt chân đến Paris, Nguyễn Đình Nghi đã thấy thân mật như đi
giữa lòng ngõ phố Hà Nội. Ông thấy Nhà thờ Đức Bà sao vừa nhỏ nhoi vừa như to lớn
hơn so với những mô tả của V.Hugo. Và ông hơi áy náy thấy mình dửng dưng trước
vẻ kì vĩ của tháp Eiffel, song lại rưng rưng hoài cảm khi rảo bước trên đường phố
Paris, được sống lại những giờ phút say mê đọc sách tiếng Pháp ngày xưa, dưới ảnh
hưởng rất lớn của văn chương và sân khấu Pháp từ người cha – Thế Lữ.
Nguyễn Đình Nghi từng thú nhận: Thế Lữ-cha đã di truyền cho ông một tín niệm về
nghề đạo diễn rất giản dị và hệ trọng: Thể loại kịch Việt Nam hiện đại phải biết kể
chuyện một cách Việt Nam. Và cách kể chuyện Việt Nam phải biết tiếp nhận, tích hợp
sân khấu cổ truyền Việt Nam, bằng cách kể chuyện theo nguyên tắc mĩ học: tả ý, tả
thần.
Nguyễn Đình Nghi biết ơn cha, biết ơn sân khấu cổ truyền đã như một thứ của kho
vô tận cho nghề đạo diễn của sân khấu Việt hiện đại. Rút ra từ sân khấu truyền
thống phương pháp miêu tả giàu sức biểu hiện cho thể loại kịch, vốn là thể loại tả
thực, là nguyên tắc ứng xử quan trọng nhất của Nguyễn Đình Nghi với nghề đạo
diễn. Đỉnh cao nhất trong nghề đạo diễn của ông là hai vở cuối đời: Hồn Trương Ba,
da hàng thịt, Rừng trúc, đã đạt tới số phận văn hóa. Hồn Trương Ba, da hàng
thịt đoạt giải nhất Liên hoan sân khấu kịch quốc tế tại Maxcơva 1990, từng lưu diễn
cho sinh viên hơn 20 trường đại học Mỹ năm 1998. Biết kể chuyện trên sân khấu
theo cách Việt Nam, nghĩa là biết “Việt Nam hóa” cách kể chuyện của thể loại kịch
phương Tây bằng ngôn ngữ ước lệ của sân khấu truyền thống Việt Nam.
Nguyễn Đình Nghi suốt đời nghiệm sinh cách kể chuyện ấy. Và suốt đời ông nguyện
dàn dựng kịch theo cách ấy, một lòng vâng theo lời cha Thế Lữ dạy khi nhắm mắt,

xuôi tay, đã trích lời Jouvet mà căn dặn rằng: Sân khấu giống như Chúa Ba N gôi:
Nhà viết kịch là Đức Chúa Cha, diễn viên là Đức Chúa Con và khán giả là Đức Chúa
Thánh thần… Bởi vậy, Nguyễn Đình Nghi hài lòng về nhận xét của đạo diễn Pháp
V.Colin, trên báo Sân khấu (Pháp) số tháng 11,12-1992: “Vẫn luôn luôn là sự tồn tại
bền chặt của một ảnh hưởng văn hóa Thiên Chúa giáo xa xôi, cộng với tư tưởng
Khổng giáo và đào tạo macxit, đã hình thành một Nguyễn Đình Nghi, người sân khấu
đầy cảm hứng mà ta rất vui sướng được gặp gỡ."
NGUYỄN THỊ MINH THÁI
Thế Lữ “Kẻ bộ hành phiêu lãng”
Phạm Đình Ân
Trong khi hầu hết những nhà thơ khác trong Phong trào Thơ Mới được coi chủ yếu là những tác
giả văn chương thì Thế Lữ lại được tiếp cận cả ở khía cạnh con người xã hội - nghệ thuật, một
nhân cách văn hóa.
Thế Lữ sinh ngày 6/10/1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội trong một gia đình viên chức nhỏ. Thuở
nhỏ ở Lạng Sơn, sau đó về Hải Phòng học sơ học và thành chung. Năm 1929, học xong năm
thứ ba bậc thành chung thì về Hà Nội thi đỗ dự thính vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông
Dương, học được một năm thì bỏ.
Khi còn ở tuổi mười tám đôi mươi, sống ở Hải Phòng, Thế Lữ đã viết truyện, làm thơ. Ông sắm
vai kịch nói từ năm 1928. Năm 1932, Thế Lữ được mời làm báo Phong hóa, sau đó gia nhập Tự
lực văn đoàn (TLVĐ), là người góp phần sáng lập phái này. Ông là nhà báo, người biên tập
nòng cốt, mẫn cán của hai tờ báo Phong hóa và Ngày nay.
Khi gia nhập TLVĐ, Thế Lữ càng quan tâm đến nghệ thuật biểu diễn kịch nói nhiều hơn. Từ
năm 1935, rõ nhất là từ năm 1937, ông chuyển hướng mạnh sang hoạt động biểu diễn kịch
nói, mặc dù vẫn ở trong TLVĐ, đều đặn làm biên tập, viết báo, sáng tác và công bố tác phẩm
văn chương.
Cuối năm 1938, ông kết hôn với người vợ sau là diễn viên Song Kim.
Thế Lữ sớm có tư tưởng tiến bộ. Năm 1928, khi 21 tuổi, ông tham gia Thanh niên cách mạng
đồng chí hội ở Hải Phòng. Trước cách mạng tháng Tám, khi TLVĐ vừa ngừng hoạt động, Thế
Lữ chỉ đạo đoàn nghệ thuật đi biểu diễn ở nhiều nơi dọc đất nước. Sau đó ông có mặt ở chiến
khu Việt Bắc, tiếp tục tổ chức kịch đoàn, biểu diễn phục vụ kháng chiến.

Năm 1957, Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam được thành lập, Thế Lữ được bầu làm chủ tịch, ông
giữ cương vị này liên tục đến năm 1977. Cũng từ năm 1957, Thế Lữ là hội viên thế hệ sáng lập
Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1977, Thế Lữ nghỉ hưu.
Năm 1979, sau nhiều năm xa cách gia đình đầu tiên, Thế Lữ vào thành phố Hồ Chí Minh sống
với người vợ đầu và các con.
Ngày 3 tháng 6 năm 1989, do tuổi già, Thế Lữ qua đời tại thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2001, Thế Lữ được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.
Thế Lữ là nhà thơ nổi tiếng, đã cùng Lưu Trọng Lư và một số người khác mở đầu Phong trào
Thơ Mới (PTTM), trở nên nhà thơ tiêu biểu nhất của thơ mới buổi đầu, đánh dấu bước ngoặt
thay đổi về cơ bản diện mạo thi ca nước nhà từ thời kỳ trung đại sang thời kỳ hiện đại.
Thế Lữ là một thành viên chủ chốt, có tư tưởng và hành động nghệ thuật tiến bộ vào bậc nhất
trong TLVĐ. Khác hẳn và có ưu điểm hơn hẳn mọi thành viên khác trong TLVĐ, Thế Lữ là một
nghệ sĩ duy nhất tham gia sâu vào cả ba thể loại giường cột của văn học, nghệ thuật hiện đại
khi ấy: thơ trữ tình, văn xuôi nghệ thuật và sân khấu kịch nói. Ở lĩnh vực nào ông cũng đạt
được những thành tựu đáng nể.
Ngoài vị trí là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu, Thế Lữ còn là một nhà thơ duy
nhất trong TLVĐ xây dựng được cho mình một sự nghiệp văn xuôi nghệ thuật nổi danh. Thế Lữ
là một trong số ít những nhà văn đầu tiên góp phần lớn hiện đại hóa truyện truyền kỳ, mở đầu
truyện huyễn tưởng hiện đại và cũng mở đầu truyện trinh thám ở Việt nam.
Cùng với Đoàn Phú Tứ, Thế Lữ là một trong hai người đầu tiên đưa hoạt động nghệ thuật biểu
diễn kịch nói nước ta trở thành chuyên nghiệp và riêng Thế Lữ, ông là người đầu tiên và duy
nhất cách tân nghệ thuật biểu diễn kịch nói, kịch thơ, góp phần lớn đưa hoạt động sân khấu
của nước nhà trở nên hoàn chỉnh theo hướng chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Khi Thế Lữ mở đầu thơ mới, cũng là khi ông mở đầu một quan niệm nghệ thuật mới. Cái đẹp
là hạt nhân của những quan niệm ấy.
Trong khi hầu hết những nhà thơ khác trong PTTM được coi chủ yếu là những tác giả văn
chương thì Thế Lữ lại được tiếp cận cả ở khía cạnh người con người xã hội - nghệ thuật, một
nhân cách văn hóa.
Là một nghệ sĩ đa tài, với bản lĩnh sáng tạo vững vàng, Thế Lữ sớm có tinh thần dân tộc và

khát vọng xây dựng nền văn học, nghệ thuật nước nhà theo hướng hiện đại hóa. Cách mạng
đã giúp ông xác định đúng đắn hơn, sâu sắc hơn vai trò, trách nhiệm lớn lao và vinh quang
của người nghệ sĩ kiểu mới chân chính. Thế Lữ xứng đáng với Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học, nghệ thuật xuất sắc khác, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn kịch nói, thi sĩ kiêm văn sĩ, hội
viên Hội Nhà văn Việt Nam thế hệ sáng lập, đạo diễn, Nghệ sĩ Nhân dân Thế Lữ có vị trí quan
trọng trong tiến trình văn học, nghệ thuật hiện đại Việt Nam.
CAND
Nhớ Rừng
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự.
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Ta lặng ngắm giang-san ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt
Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
Than ôi! thời oanh liệt nay còn đâu?
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ!
Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị,
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán
Ta đang theo giấc mộng ngàn to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!
Thế Lữ
[1936]
Nhà thơ Thế Lữ "vuốt râu hùm"
Sẽ không sợ quá lời nếu ta khẳng định rằng, cho đến hôm nay, "Nhớ rừng" của
Thế Lữ vẫn là bài thơ xây dựng được hình tượng con hổ ấn tượng nhất trong thi

ca Việt Nam.

Bạn trẻ, nhất là các em học sinh tiếp cận bài thơ qua trang sách giáo khoa, hẳn sẽ không
thể hình dung rằng, để tạo dựng nên một bài thơ "hoành tráng" bậc này, tác giả của nó
đã phải cất công chỉnh sửa rất nhiều lần.
Ví dụ, ở bản in đầu tiên của tập thơ "Mấy vần thơ" (năm 1935), câu thứ 28, 29 của bài
là "Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt/ Để chiếm lấy phần tối tăm bí mật", thì đến bản
in năm 1941 (nay là bản phổ biến nhất, được coi là chính thức), tác giả sửa lại là "Ta
đợi chết mảnh mặt trời gay gắt/ Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật""; câu 43 "Nơi ta
chẳng còn mong được thấy bao giờ" được sửa lại là "Nơi ta không còn được thấy bao
giờ".
Chưa hết, theo tác giả Tô Sanh cho biết thì ngay cả một số câu ở bản in năm 1941, sau
này Thế Lữ cũng muốn sửa thêm. Như câu "Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu", ông
muốn sửa thành "Cũng học đòi chứa chất vẻ hoang vu" (vì cho rằng đã "học đòi" lại
còn "bắt chước", viết như vậy là thừa chữ); câu "Thuở tung hoành hống hách những
ngày qua", ông muốn đổi thành "Thuở tung hoành hiển hách những ngày qua" (có lẽ
dùng chữ "hiển hách" mới đúng với quá khứ của chúa sơn lâm?); câu "Dăm vừng lá
hiền lành, không bí hiểm" ông sửa thành "Dăm vừng lá tự coi mình bí hiểm".
Theo một bản được tác giả tự tay sửa chữa sau khi bài thơ ra đời đến gần năm chục
năm, người ta thấy "Nhớ rừng" chỉ còn hơn chục dòng nguyên vẹn (cả bài thơ gồm 47
câu).
Tất nhiên, ý định của Thế Lữ là vậy, song thực tế, mọi người có nhớ, có thuộc bài thơ
theo bản sửa của ông hay không, đó lại là việc khác, nhất là khi bài thơ đã được phổ
biến sâu rộng trong công chúng. Qua tìm hiểu trên sách báo, chúng tôi nhận thấy, bản in
"Nhớ rừng" năm 1941 hiện được mọi người xem là văn bản chính thức và hoàn thiện
nhất.
Các nhà phê bình đều căn cứ vào bản này để phân tích, bình luận và dường như tất cả
đều xem đây là một tác phẩm đã quá hoàn thiện. Điều đó cho thấy, việc Thế Lữ vẫn
ngày đêm trăn trở, tìm cách sửa lại bài thơ và sửa nhiều như kể trên, quả là một hành
động dũng cảm, vì làm vậy là ông đã "vuốt râu hùm".

Thật ra, trở về với xuất xứ của bài thơ, ta có thể thấy: Ban đầu, "định hướng" chung về
chủ đề bài thơ của tác giả hơi khác. Theo Thế Lữ cho biết, hồi ấy, ông đang làm chân
sửa bản in cho một tòa báo có trụ sở ở phố Cửa Bắc. Vì từ nhà đến tòa báo phải qua
vườn Bách Thảo nên thường ngày, ông được tận mắt trông thấy vị chúa sơn lâm uể oải
nằm trong cũi sắt. Ông nghĩ: "Con hổ bị giam cầm trong này thì buồn biết bao".
Trong đầu ông bỗng nảy một tứ thơ đùa: "Chú nó trong nắng hè uể oải/ Cũng không
buồn thương nhớ cảnh rừng xa". Nhưng rồi, sẵn nỗi u hoài chất chứa về một thân phận
chịu cảnh gò bó, tù túng, ông chuyển hướng bài thơ sang nội dung khác như chúng ta
đã thấy. Thế mới biết, khi viết, Thế Lữ đã luôn làm chủ ngòi bút, buộc tứ thơ phải xoay
vần theo ý hướng của tác giả
Trần Hoàng Giang
Công an Nhân dân
Thế Lữ - một khách tình si
Mỗi nhà nghiên cứu có một thế mạnh riêng của ngòi
bút. Có người giỏi về khái quát lý luận. Có người
chuyên sưu tầm và tổng quan tài liệu. Lại có người
thiên về năng lực cảm thụ nghệ thuật, phân tích bút
pháp của người sáng tác.
Vu Gia là nhà văn, từng viết truyện ngắn, tiểu thuyết, làm thơ, ông thừa sức đi vào chuyện
hình thức, chữ nghĩa, bếp núc của văn chương. Nhưng theo đuổi việc thực hiện bộ sách về Tự
Lực văn đoàn gần 20 năm nay, Vu Gia chủ yếu muốn soi sáng sự nghiệp của các nhà văn này
từ cảm quan lịch sử về bối cảnh hoạt động của họ, trên cơ sở đó mà khám phá, đính chính và
góp phần giải quyết những tồn nghi trong văn học sử.
Thế Lữ - một khách tình si là công trình biên khảo văn học thứ chín của Vu Gia, dành cho một
thành viên đa tài của Tự Lực văn đoàn (nhà thơ, nhà tiểu thuyết, dịch giả, nhà hoạt động sân
khấu) mà cũng là người mở đường của phong trào Thơ Mới.
Kinh nghiệm thực hiện tám cuốn sách trước được Vu Gia rút tỉa và áp dụng thành thạo trong
cuốn sách này. Để có 733 trang viết về Thế Lữ, Vu Gia đã dành gần hai năm lục lọi trong các
thư viện Bắc Nam, đi điền dã đến tận những nơi có liên quan với tác giả và tác phẩm để tìm
hiểu, xác minh tư liệu. Ông về nhà thờ tổ họ Nguyễn ở xóm Tự, làng Phù Đổng, trước thuộc

Bắc Ninh, nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội, để truy tìm gốc tích, dòng họ của nhà văn.

Ông đến Hải Phòng tìm hiểu những địa danh lưu lại trong tiểu sử và trang văn Thế Lữ. Đó là
ngõ Nghè, nơi có đền Nghè thờ Bà Lê Chân cùng ngôi trường lúc nhà thơ học lớp đồng ấu. Là
đường Thiên Lôi trong một khu xóm ven biển đã gợi ý cho tác phẩm Bên đường Thiên Lôi. Là
chùa Hang ở Đồ Sơn, gần ngôi nhà lá nơi nhà văn dưỡng bệnh thời gian bị lao phổi, đã gợi trí
tưởng tượng cho ông viết truyện Hang thần, sau đổi thành Vàng và máu…
Qua cuốn sách này, lần đầu tiên những chi tiết cụ thể về gia đình, hôn nhân, những ngả rẽ
trong cuộc đời Thế Lữ được công bố. Là người lữ khách vướng vào “nòi tình”, ông từng bị rút
phép thông công vì bỏ bê gia đình để sống với nghệ sĩ Song Kim. Vu Gia không biện hộ cho
Thế Lữ, nhưng cũng cho thấy đó còn là cái duyên với sân khấu.
Cho đến nay, có lẽ Vu Gia là người lập được một niên biểu đầy đủ nhất về Thế Lữ. Có thể nói
tác giả cuốn sách này đã vận dụng một phương pháp tiểu sử triệt để nhất để cắt nghĩa thế giới
sáng tạo của Thế Lữ.
Bên trong nhà nghiên cứu Vu Gia luôn hiện diện một nhà phê bình và một nhà báo bức xúc với
những vấn đề xã hội. Đã thành phong cách của Vu Gia là giọng tường thuật và tranh biện
nồng nhiệt trong văn nghị luận. Bạn đọc có thể đôi lúc cảm thấy nặng nề với những trang tư
liệu ngồn ngộn của cuốn sách. Bù lại, tác giả dẫn dắt ta một cách khéo léo và bắt ta theo cùng
ông qua hết 12 chương sách với những tiêu đề được rút ra từ thơ Thế Lữ: Non nước đang chờ
gót lãng du; Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ; Trọn đời làm kẻ đưa thuyền khách;
Đường trần xuôi ngược để vui chơi…
Trong chương cuối, nói về thơ Thế Lữ, Vu Gia viết: “Thế Lữ đưa ta đến một thế giới của thi ca,
nhạc, hoạ, của tiên nữ, suối reo, chim hót…Có những bài thơ, những câu thơ của Thế Lữ đi vào
lòng người, mê hoặc, ám ảnh người đọc, buộc người đọc có lúc phải tìm đến như tìm tri âm, tri
kỷ” (tr. 716). Khi đặt tên cho con, bà mẹ Thế Lữ muốn ông như một “của lễ” để dâng cho
Chúa. Cuốn sách Vu Gia chứng minh rằng cuộc đời đa đoan với những sáng tạo đa dạng của
Thế Lữ còn là một “của lễ” dâng cho Thơ ca, cho Văn chương và Nghệ thuật.

×