Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Tô Hoài và Tác phẩm Vợ chồng A Phủ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.75 KB, 47 trang )

Tác giả Tô Hoài
TÔ HOÀI
1 – Vài nét về tiểu sử và con người
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 - 1920 tại làng Nghĩa Đô, phủ Hoài
Đức - tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô - quận Cầu Giấy - Hà Nội) trong một
gia đình thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Mai Trung, Duy Phương,
Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích,…
Quê quán : xã Kim An - huyện Thanh Oai - tỉnh Hà Tây.
Tuổi thanh niên, Tô Hoài phải trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như : dạy
học tư, bán hàng, làm kế toán cho hiệu buôn, … Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của
Mặt trận Bình dân và tham gia hoạt động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và Thanh
niên dân chủ Hà Nội.
Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và bắt đầu viết bài cho báo Cứu
quốc và Cờ giải phóng.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo “Cứu quốc”. Ông là một
trong số những nhà văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận
phía Nam (Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng.
Năm 1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm 1980,
Tô Hoài đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như : Uûy viên
Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám đốc Nhà xuất bản
Thiếu nhi.
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến nay, Tô Hoài đã
sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm năm mươi đầu sách) ở
nhiều thể loại khác nhau như : tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tiểu luận và kinh nghiệm
sáng tác. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, vào năm 1996 ông
được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
* Tác phẩm của Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám :
Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Giăng thề (1943),
Nhà nghèo (1944), Xóm Giếng ngày xưa (1944), Cỏ dại (1944).
* Tác phẩm chính của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám :
- Truyện ngắn : Núi cứu quốc (1948), Xuống làng (1950), Truyện Tây Bắc (1953,


Giải nhất tiểu thuyết năm 1956 của Hội Văn nghệ Việt Nam), Khác trước (1957), Vỡ
tỉnh (1962), Người ven thành (1972).
- Tiểu thuyết : Mười năm (1957), Miền Tây (1967, Giải thưởng Bông sen vàng năm
1970 của Hội Nhà văn Á Phi), Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ (1971), Tự truyện (1978),
Những ngõ phố, người đường phố (1980), Quê nhà (1981, Giải A năm 1980 của giải
thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội), Nhớ Mai Châu (1988).
- Kí: Đại đội Thắng Bình (1950), Thành phố Lênin (1961), Tôi thăm Cămphuchia
(1964), Nhật kí vùng cao (1969), Trái đất tên người (1978), Hoa hồng vàng song cửa
(1981). Cát bụi chân ai (1992).
- Truyện thiếu nhi : Tuyển tập Văn học thiếu nhi, tập I & II (1999)
- Tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác : Một số kinh nghiệm viết văn của tôi (1959),
Người bạn đọc ấy (1963), Sổ tay viết văn (1977), Nghệ thuật và phương pháp viết
văn (1997).
Tô Hoài có nhiều tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài, đặc biệt Dế mèn phiêu lưu
kí được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất.
Nhìn chung, Tô Hoài là một nhà văn sớm bước vào đời, vào nghề văn và cũng sớm
tham gia hoạt động cách mạng. Ông viết ở nhiều thể loại và thể loại nào ông cũng
đạt được những thành công đặc sắc. Đặc biệt là ở những tác phẩm viết về loài vật và
miền núi Tây Bắc. Tô Hoài luôn có những cố gắng tìm tòi, khám phá trong sáng tạo
nghệ thuật, đó là một trong những yếu tố góp phần làm nên sức hấp dẫn, sức sống
và ý nghĩa lâu bền ở tác phẩm của ông đối với đời sống tinh thần của người đọc
nhiều thế hệ.
2 – Những chặng đường sáng tác:
2.1 – Trước Cách mạng tháng Tám:
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác đầu tay của
ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy xuất hiện ở giai đoạn
cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm khẳng định được vị trí của mình
trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như : Dế
mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người (1941), O chuột (1942), Trăng thề (1943) Nhà
nghèo (1944 ). Từ các tác phẩm này, người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào

trong lao động nghệ thuật của ông. Sau này, Tô Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự
truyện về việc ông đến với nghề văn, ông viết : “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba
năm trước Cách mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm truyện
dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế mèn thì mấy chục
truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không nhớ hết. Cũng chẳng có gì
lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc khỏe như vậy đấy”.
Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại chính là : truyện
về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Qua những truyện về loài vật tiêu biểu như : O chuột, Gã chuột bạch, Tuổi trẻ, Đôi
ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực , người đọc nhận thấy, nhà văn thường viết
về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong cuộc sống, bày tỏ mong muốn một cuộc
sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội, một cuộc sống tốt đẹp mang tính không
tưởng.
Trước hết, với Dế Mèn phiêu lưu kí, tài năng nghệ thuật của Tô Hoài được bộc lộ ở
nhiều phương diện. Bằng cách quan sát, cái nhìn tinh tế về loài vật, kết hợp với
những nhận xét thông minh, hóm hỉnh, nhà văn đã lôi cuốn các em vào thế giới loài
vật bé nhỏ gần gũi, hấp dẫn và kì thú qua hình ảnh của: Dế Mèn, Dế Trũi như anh
em kết nghĩa vườn đào, sẵn sàng quên mình vì bạn, vì nghĩa lớn. Xiến Tóc trầm lặng,
vừa yêu đời vừa chán đời. Chị Cào Cào ồn ào và duyên dáng. Bọ Ngựa kiêu căng,
ngạo mạn. Cóc huênh hoang, dở hơi. Ếch thông thái giả. Anh chàng Kỉm Kìm Kim
hèn đớn. Cậu công tử bột Chim Chả Non có mẽ mà đầu óc lại rỗng tuếch, Từ đời
sống và tích cách của từng con vật, nhà văn nhằm bày tỏ quan niệm của mình về
nhân sinh, về khát vọng chính đáng của người lao động, về một cuộc sống hòa bình,
yên vui, về tình thương, lòng chân thành và sự đoàn kết. Bởi thế câu chuyện về chú
Dế Mèn không chỉ có ý nghĩa dành cho trẻ em, mà còn cả cho người lớn và cho cả xã
hội. Nó thực sự mang giá trị lâu bền trong đời sống tinh thần của con người, cũng vì
thế, dù ở đâu và ở thời kì nào, người đọc vẫn tìm thấy bao điều thú vị, bao bài học ý
nghĩa từ tác phẩm này. Sau này, Tô Hoài tâm sự: “Cách hiểu thế giới đại đồng của
Dế Mèn, Dế Trũi, Xiến Tóc… là cách hiểu chủ nghĩa cộng sản của tôi với vẻ đẹp và cả
cái trống rỗng thiếu sót trong suy nghĩ của tôi”.

Viết về loài vật, Tô Hoài đã dành khá nhiều trang để thể hiện chân thật, sinh động họ
nhà chuột. Các chủng loại chuột như : chuột nhắt, chuột cống, chuột cộc, chuột
bạch, chuột xù , xuất hiện trong các tác phẩm của ông với những đặc điểm, thói
quen riêng và cả những mối quan hệ của chúng. Trong số những truyện viết về
chuột thì truyện Gã chuột bạch đã để lại cho người đọc bao điều suy nghĩ. Cuộc sống
của vợ chồng chuột bạch là “vẩn vơ tìm những hạt gạo tẻ mà người ta rắc vào một
cái đĩa ở đáy lồng”, là “đánh vòng”, dựa vào lồng “ngủ đứng”. Ngay cả khi có dịp ra
khỏi lồng chúng vẫn không lấy gì làm thích thú mà “ngơ ngác nhìn quanh quẩn. Như
là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ hít phải cái không khí lạ. Như là họ chẳng
quen bò giữa nơi khoáng đãng. Và họ lại nối đuôi nhau , tha thẩn, từ từ bò vào, cũng
như lúc bò ra”. Có thể nói, qua cảnh sống của vợ chồng chuột bạch, Tô Hoài đã phê
phán cách sống nhàm chán, buồn tẻ và vô vị, cũng như tâm lí chấp nhận, lệ thuộc
của một lớp người trong xã hội, đồng thời muốn thức tỉnh những ai đang lâm vào
cảnh sống đó.
Nhiều loài vật khác qua cách miêu tả của Tô Hoài tạo cho người đọc dấu ấn lâu bền.
Đó là gã mèo mướp “lừ đừ nghiêm nghị tựa một thầy dòng, trên mình có khoác bộ áo
thâm. Hắn có cái cốt cách quý phái và trưởng giả. Lúc nào cũng nghĩ ngợi như sắp
mưu toan một việc gì ghê gớm lắm”. Đó là cậu gà trống gi “bé nhỏ sống côi cút một
thân, một mình” thuở nhỏ, nhưng khi lớn lại có “bộ mặt khinh khỉnh ta đây” và cũng
rất đa tình, “có tật mê gái, như cái tính chung của loài gà - cả của loài người - khi
mới lớn lên”, bỏ nhà ra đi vì ái tình, hay dễ quên đi ái tình cũ để “lần mò đi tìm một
vài ái tình khác”. Với chàng gà chọi “nhất sinh chỉ có một nghề đi đánh lẫn nhau cho
người ta xem”, “lúc nào cũng chỉ ngứa ngáy chân tay”, quả không đủ chữ nghĩa để
“tả cái oai lẫm liệt của chàng”. Chàng ta không thiết gì đến con cái, trong đầu “chỉ
đen những ý tình ma chuột”, hay “đi ve gái”, thế mà khi Một cuộc bể dâu xuất hiện,
họ nhà gà chết dần, chết mòn, chàng gà chọi dù anh hùng, lẫm liệt nhưng rồi cũng
“tắc thở” để lại “một mình chị mái già, ra lại vào, ngẩn ngơ”. Với vợ chồng Đôi gi đá
“tựa vợ chồng quê mới rủ nhau lên tỉnh. Họ lờ khờ, ngẩn ngơ, xấu xí - nghĩa là đặc
nhà quê”. Chúng cần mẫn xây tổ ấm, sống hạnh phúc, “bình lặng, chịu khó, ít ồn ã”,
chờ ngày đẻ trứng, chờ ngày trứng nở, chờ những đứa con lớn lên từng ngày Thế

rồi, Tết đến, tiếng pháo nổ đón xuân về vô tình đã làm tan tác gia đình chúng. Nghe
tiếng pháo “kinh khủng nổ vang động trong cây, cả nhà cuống cuồng bay đi”. Cuộc
sống của đôi vợ chồng chim gi đá rồi sẽ như thế nào trong cảnh tan tác đó đã khiến
cho người đọc phải ngậm ngùi, xót xa. Còn Mụ ngan với “cái tính ngu tối, chậm chạp”
đến mức những đứa con của mình gặp nạn, hay bị chết vẫn vô tình, thản nhiên. Kể
cả khi bị đá, bị đuổi đánh,“bị bỏ tù” thì “chúng vẫn không hiểu chi”. Hơn thế nữa khi
“chồng mụ” bị làm thịt, mụ vẫn “thản nhiên”, mụ ngan chỉ nhớ rõ “khi có hạt ngô đo
đỏ, hạt thóc vàng vàng, tàu lá xanh xanh thì xô đến mà khởi sự ăn”.
Cùng với hình ảnh của những loài vật trên là của chú chó Đực ham vui, “la cà” với
“hàng tá nhân tình” nên bị người ta thiến. Đực “buồn thỉu, buồn thiu, đi lừ khừ quên
cả ăn uống”. Tuổi xuân của Đực qua nhanh, nó trở nên “lạnh lùng với cuộc đời và
lạnh lùng với tháng ngày”, nó “lặng lẽ sống cái cuộc đời tàn cục buồn thiu”, “héo hắt
dần”. Tác phẩm kết thúc với sự xuất hiện của một con chó khác cũng “khỏe và béo
lẳn” nhưng rồi thân phận của nó chắc gì đã khác với con Đực.
Tóm lại, thế giới loài vật trong tác phẩm của Tô Hoài thật độc đáo. Thế giới ấy gợi lên
ở người đọc sự liên tưởng về nhiều vấn đề trong đời sống xã hội. Có lẽ, từ trước cho
đến nay, trong văn học Việt Nam chưa có nhà văn nào viết về loài vật nhiều và đặc
sắc như Tô Hoài.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói nghèo cũng
được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng quẫn bế tắc của
những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất khách quê người, những
người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng trang sách với tất cả niềm cảm
thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận của bà lão Vối trong truyện Mẹ già
buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào con. Chỉ vì một con lợn sổng chuồng mà
bà bị chính con gái mình chửi rủa chì chiết đủ điều. Với cách nghĩ của con gái bà thì
bà chẳng khác gì người đi ở mướn, chị ta đã quát : “Thế tôi nuôi bà để làm gì mà bà
lại không trông được con lợn?”, thậm chí, không cho bà ngủ ở nhà trên mà đuổi bà
xuống bếp nằm ngủ ở đống rơm. Sáng ngày hôm sau cả nhà ăn uống nhưng hình
như họ đã quên là có bà hiện diện trong cuộc sống của gia đình mình. Đó là số phận
của chị Hối trong truyện Ông cúm bà co, bị ốm nhưng không có thuốc men chữa

chạy, rồi bệnh nặng dần vì kém hiểu biết, mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại mấy
đứa con thơ dại. Đó còn là tấn bi kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn cùng tên.
Từ đâu lưu lạc tới không ai rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một “gia đình nho nhỏ,
đề huề sống yên vui” Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của anh khiến người vợ bỏ đi
biệt tích. Đứa con, niềm an ủi duy nhất đối với anh ngã bệnh, hết tiền chạy chữa,
trong lúc khốn cùng đành liều đi ăn trộm để rồi bị bắt, cùng lúc đó đứa con cũng
chết. Từ đó “Gà Gáy sống còm cõi một mình”. Cay đắng hơn là số phận của bé Gái
trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu và nhiều lần
chứng kiến cảnh cha mẹ cãi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi cùng với cha mẹ cố
tìm miếng ăn cho gia đình, “người nó có bao nhiêu xương sườn, giơ hết ra cả”. Cảnh
đó thật xót xa, thê thảm.
Còn biết bao những cảnh đời khác như cảnh Hương Cay trốn nợ trong Khách nợ,
cảnh xung đột của gia đình anh Hối trong Buổi chiều ở trong nhà, cảnh tình duyên
của cô Lụa trong Lụa, Tất cả cảnh đời của họ đều gợi cho người đọc bao điều suy
ngẫm và nỗi trăn trở về hiện thực cuộc sống nhiều bất hạnh đó.
Đáng chú ý ở thời kì này, Tô Hoài cũng có những khát vọng thoát khỏi bế tắc, thoát
khỏi cuộc sống nhàm chán buồn tẻ và vô vị, hay ước mơ của môt chàng trai về “một
trận mưa rào cho lòng người hả hê và cho trời quang đãng” và hãy cất bước vào một
buổi mai, nhắm về phía “chân trời mới đỏ thắm màu hi vọng”, mặc dù vì nghèo nên
anh không lấy được người mình yêu. “Sự nghiệp anh không có”, “nhà anh thanh bạch
quá”, “bấy nay anh chỉ có một tấm lòng”(Xóm Giếng ngày xưa ).
Tóm lại, trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài đã có khi bế tắc trước cuộc đời nhưng
cuối cùng nhà văn vẫn đứng vững ở vị trí của một nhà văn hiện thực. Tâm hồn của
Tô Hoài bao giờ cũng có được vẻ đẹp trong sáng, đáng trân trọng trong cảnh đời đen
tối thời kì này. Ở đề tài nào và đối tượng khám phá nào, thế giới nghệ thuật của Tô
Hoài trước cách mạng đều thấm đượm tính nhân văn và mang dấu ấn khá sâu đậm
về một quãng đời của ông. Ông quan niệm :“ Những sáng tác của tôi đều miêu tả
tâm trạng tôi, gia đình tôi, làng tôi, mọi cái của mình quanh mình. Những nghèo đói,
cùng túng, đau đớn. Phần nào nhẹ nhàng hay xót xa, hay ngịch ngợm và đá chút
khinh bạc là phần nào con người và tư tưởng tiểu tư sản của tôi”(Một quãng đường).

2.2 – Sau Cách mạng tháng Tám:
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng và
sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không dừng lại quá lâu ở Tô Hoài.
Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và sáng tạo thành công nhiều
tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau. Trong đó, tiểu thuyết Miền Tây của
ông đạt giải thưởng Bông sen vàng của Hội Nhà văn Á Phi vào năm 1970.
Bước chuyển trong sáng tác của Tô Hoài được thể hiện rõ ở cả chủ đề và đề tài. Tô
Hoài không bó hẹp nội dung và đối tượng phản ảnh trong phạm vi của một vùng dân
nghèo ngoại thành Hà Nội nơi ông từng gắn bó, mà ông còn hướng đến một không
gian rộng lớn, đến với cuộc sống của nhiều lớp người, nhiều vùng đất khác nhau, nổi
bật nhất là miền núi Tây Bắc. Tây Bắc không còn là miền đất xa lạ, nó đã trở thành
quê hương thứ hai của Tô Hoài. Ông viết về Tây Bắc không chỉ bằng tài năng nghệ
thuật, vốn sống phong phú, mà còn bằng cả tình yêu đằm thắm thiết tha như chính
quê hương mình. Bởi lẽ, với Tô Hoài: “Đất nước và người miền Tây đã để thương, để
nhớ cho tôi nhiều quá”, hình ảnh Tây Bắc “lúc nào cũng thành nét, thành người,
thành việc trong tâm trí tôi”, nó có sức ám ảnh mạnh mẽ khơi dậy nguồn cảm hứng
sáng tạo và thúc đẩy nhà văn viết thành công nhiều tác phẩm về miền đất này. Trên
cơ sở đó, có thể xem ông là nhà văn của miền núi Tây Bắc, là một trong những người
đặt nền móng cho nền văn học viết về đề tài Tây Bắc.
Tác phẩm đầu tiên của Tô Hoài viết về miền núi là tập truyện Núi Cứu quốc(1948). Ở
tác phẩm này ông đã thể hiện được cảnh sống vất vả, thiếu thốn, nhưng giàu nghĩa
tình đối với cách mạng, cũng như ý chí quyết tâm chiến đấu của đồng bào miền núi.
Tuy nhiên, tác phẩm này còn nặng về thể hiện, miêu tả các tài liệu, bề mặt của vấn
đề mà ít đi vào khám phá chiều sâu, bản chất của nó để rồi “chết chìm trong tài liệu”
như nhà văn đã tâm sự trong Một số kinh nghiệm viết văn của tôi. Vì thế, tác phẩm
trên còn thiếu sự sinh động, thiếu sức hấp dẫn đối với người đọc.
Phải đến Truyện Tây Bắc, Tô Hoài mới có được sự thành công đặc sắc ở mảng đề tài
về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú về Tây Bắc,
ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi đau thương, khổ nhục
của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong kiến. Tập Truyện Tây Bắc

gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người
lao động miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà nhất là người phụ nữ trong tập truyện này
được Tô Hoài miêu tả với tất cả niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô
dâu gạt nợ chết dần, chết mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay
thân phận của cô Aûng, từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món
đồ chơi qua tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành
bà lão Ảng ăn mày , đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về cuộc sống
đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề của
thực dân và phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô Hoài đã khẳng
định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây Bắc, cũng như lí giải
thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để thoát khỏi cuộc sống bị đọa đày
áp bức đó là con đường cách mạng.
Có thể nói, Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con đường
sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối quan hệ
giữa nghệ thuật với cách mạng.
Tài năng nghệ thuật của Tô Hoài khi viết về miền núi càng về sau càng được phát
huy và khẳng định qua nhiều tác phẩm khác từ sau 1955 như : Miền Tây, Tuổi trẻ
Hoàng Văn Thụ, Họ Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai Châu, Nhà văn tiếp tục ngợi ca phẩm
chất tốt đẹp của các dân tộc ở miền núi Tây Bắc trong đời sống kháng chiến và xây
dựng chủ nghĩa xã hội thông qua những hình ảnh thực như : Hoàng Văn Thụ (dân tộc
Tày), Kim Đồng (dân tộc Nùng), Giàng A Thào, Vừ A Dính (dân tộc Hmông) Tất cả
họ đều thủy chung, gắn bó son sắt với cách mạng và cuộc đời mới. Nhiều người đã
ngã xuống vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho quê hương đất nước. Chủ nghĩa anh
hùng cách mạng
Trong số tác phẩm viết về miền núi Tây Bắc sau 1955 của Tô Hoài, tiểu thuyết Miền
Tây là tác phẩm nổi bật nhất. Miền Tây có cốt truyện xoay quanh sự đổi đời của gia
đình bà Giàng Súa nhờ cách mạng. Cách mạng đã đem lại cho gia đình bà nhiều
niềm vui giản dị trong cuộc sống đời thường. Các con bà như Thào Khay, Thào Mị đã
trở thành cán bộ gương mẫu góp phần làm nên sự đổi thay trong cuộc sống cho quê
hương Tây Bắc. Bên cạnh đó, với Miền Tây, Tô Hoài đã có thêm những nét mới về

nghệ thuật trong cách triển khai cốt truyện, dựng cảnh, cách khai thác các chi tiết
nghệ thuật, và nhất là việc xây dựng thành công một số nhân vật mang tính điển
hình tạo nên ở người đọc dấu ấn sâu bền như : Giàng Súa, Thào Khay, Vừ Sóa Tỏa.
Đặc biệt, nhà văn có sự kết hợp hài hòa bút pháp hiện thực và bút pháp lãng mạn
trong quá trình sáng tạo. Chính điều này đã góp phần làm nên vẻ đẹp rất chân thật
mà cũng rất giàu chất thơ mộng lãng mạn cho Miền Tây.
Sống trong cuộc đời mới, nhà văn Tô Hoài cũng “ôn chuyện cũ”, ngòi bút của ông
hướng về xã hội trước Cách mạng tháng Tám từ cách nhìn, sự suy ngẫm sâu sắc hơn
theo thời gian và những trải nghiệm trong cuộc sống. Ở tiểu thuyết Mười năm, với
tầm nhận thức mới và từ chỗ đứng của cuộc sống hiện tại nhiều đổi thay mang ý
nghĩa lớn trong đời sống dân tộc, Tô Hoài đã phản ảnh chân thật và sinh động hơn
cảnh sống bi thảm, đói nghèo, cùng quẫn ở một vùng quê ven đô, nơi mà nhà văn đã
chứng kiến và trải qua cùng với bao số phận khác. Đồng thời, qua Mười năm, nhà
văn cũng thể hiện được quá trình giác ngộ cách mạng của quần chúng cũng như sức
mạnh của họ trong các phong trào đấu tranh chống lại sự áp bức bóc lột của chế độ
thực dân phong kiến. Đi đầu trong phong trào đấu tranh là lớp thanh niên như Lạp,
Trung, Lê, Ba, Họ tiếp thu ánh sáng lí tưởng mới, và hăng hái nhiệt tình tham gia
các hoạt động để đem lại sự đổi thay cho cuộc sống.
Ở Mười năm, còn một số chi tiết có thể gạt bỏ để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn,
nhưng điều cần nhận thấy, ở tác phẩm này Tô Hoài với tầm nhận thức mới đã phát
huy được sự sắc sảo trong cách quan sát và bút pháp thể hiện.
Sau tiểu thuyết Mười năm, Tô Hoài còn viết nhiều tác phẩm khác về ngoại thành Hà
Nội như : Quê người, Quê nhà, Những ngõ phố, người đường phố, và gần đây là
Chuyện cũ Hà Nội (hai tập). Điều đó cho thấy vốn sống, nguồn tư liệu, cũng như
nguồn cảm hứng sáng tác của Tô Hoài về Hà Nội vô cùng phong phú đa dạng. Từ các
tác phẩm viết về Hà Nội của ông, người đọc có điều kiện hiểu hơn về phong tục, nếp
sinh hoạt, tên gọi phố phường, con người Hà Nội trải dài suốt cả thế kỉ XX trong cuộc
sống đời thường và cả trong chiến tranh.
Không chỉ thành công ở thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết, Tô Hoài còn đạt được
thành tựu đặc sắc ở thể kí. Nhiều tác phẩm kí của ông xuất hiện sau những chuyến

đi lên Tây Bắc như Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô, hay đi thăm nước bạn như Tôi
thăm Cămpuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song cửa, Đặc biệt, Tô Hoài có
các tập hồi kí gắn liền với bao nỗi vui buồn và mơ ước của tuổi thơ, bao kỉ niệm về
những bạn văn, đời văn của ông như Tự truyện, Cát bụi chân ai, Chiều chiều. Từ các
tập hồi kí này, người đọc có điều kiện để hiểu thêm về phong cách nghệ thuật, thân
phận, nhân cách nhà văn trong hành trình văn chương của ông và một số nhà văn
khác. Cách viết hồi kí của Tô Hoài rất linh hoạt biến hóa, các sự kiện được khai thác
theo mạch liên tưởng và đan xen lẫn nhau nên luôn tạo được sức hấp dẫn đối với
người đọc không thua kém gì so với thể loại khác.
Bên cạnh những mảng sáng tác trên, Tô Hoài còn tiếp tục viết khá nhiều tác phẩm
cho thiếu nhi như : Con mèo lười, Vừ A Dính,Đảo hoang, Chuyện nỏ thần, Nhà Chử,…
Ở mảng sáng tác này, ngay cả khi tuổi tác không còn trẻ Tô Hoài vẫn có được cách
cảm nhận và thể hiện đời sống qua trang văn phù hợp với tâm hồn, nhận thức của
tuổi thơ, để cùng các em đến với một thế giới biết bao điều kì thú. Trên cơ sở đó góp
phần bồi đắp vẻ đẹp và sự trong sáng, cao cả cho tâm hồn trẻ thơ.
Tóm lại: Những sáng tác của Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám đã khẳng định được
vị trí và tài năng nghệ thuật của ông trước hiện thực của cuộc đời mới. Ông xứng
đáng là một tấm gương trong sáng trong lao động nghệ thuật để góp phần xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
3 – Phong cách nghệ thuật của Tô Hoài:
3.1 - Không gian nghệ thuật và đối tượng khám phá, thể hiện rất tập trung.
Tác phẩm của Tô Hoài viết chủ yếu về hai địa bàn: vùng ngoại thành Hà Nội và miền
núi Tây Bắc. Đối tượng được Tô Hoài khai thác nhiều nhất, thành công nhất trong tác
phẩm của ông là cuộc sống của người lao động đói nghèo ở ngoại thành Hà Nội và
miền núi Tây Bắc.
Bên cạnh đó, Tô Hoài là một trong số ít nhà văn Việt Nam có sở trường viết truyện
về loài vật. Thế giới loài vật phong phú, đa dạng được nhân hóa xuất hiện trong tác
phẩm của ông luôn có sức hấp dẫn đối với người đọc, giúp họ nhận ra sự sinh tồn tự
nhiên của xã hội loài vật đó.
Có thể nói, những tác phẩm tiêu biểu nhất trên con đường văn chương của Tô Hoài

cũng không nằm ngoài không gian nghệ thuật và đối tượng khám phá, thể hiện nói
trên.
3.2 - Lối viết đậm đà màu sắc dân tộc
Đặc điểm phong cách nghệ thuật này của Tô Hoài được biểu hiện cụ thể ở các điểm
sau:
- Cách đặt tên cho tác phẩm của Tô Hoài có khi được xuất phát từ thành ngữ dân
gian: “ Đất khách, quê người”; “ Hoa đồng cỏ dại”; “ Giăng thề còn đó trơ trơ”.
- Cách kể chuyện, dẫn truyện của Tô Hoài có sức lôi cuốn, hấp dẫn người đọc, biểu
hiện rõ ở tác phẩm Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Dế Mèn phiêu lưu kí .
- Tô Hoài thường đi vào khám phá và thể hiện truyền thống nhân nghĩa của con
người Việt Nam như : trọng nghĩa khinh tài, khí tiết, thủy chung,…
- Tô Hoài khai thác đề tài lịch sử để ngợi ca phẩm chất cao đẹp của con người Việt
Nam, tiêu biểu là tác phẩm Đảo hoang, Chuyện ông Gióng.
3.3 - Cách quan sát thông minh hóm hỉnh và rất tinh tế.
Cách quan sát thông minh hóm hỉnh và rất tinh tế là khả năng nổi trội của Tô Hoài
trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Khả năng này của ông được biểu hiện rõ ngay
từ trước cách mạng qua những truyện viết về loài vật. Càng về sau càng được phát
huy ở nhiều tác phẩm khác. Những trang văn của Tô Hoài khi miêu tả cảnh sắc thiên
nhiên, phong tục tập quán, lễ hội ở vùng ngoại thành Hà Nội và vùng núi Tây Bắc
đều để lại cho người đọc ấn tượng sâu bền, cũng như luôn mang đến cho họ nguồn
tư liệu rất phong phú về lịch sử, địa lí và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc. Đặc
biệt, khi miêu tả ngoại hình và diễn biến tâm lí của nhân vật, Tô Hoài đã chọn lựa
những chi tiết độc đáo có sức gợi cảm nhằm tác động mãnh liệt đến tình cảm nhận
thức của người đọc về thân phận của nhân vật. Nhà văn còn sử dụng yếu tố ngoại
cảnh để góp phần làm nổi bật hơn nội tâm của nhân vật trong từng hoàn cảnh, tình
huống cụ thể. Chính vì thế, các nhân vật trong tác phẩm của Tô Hoài thường mang
nét riêng và gợi cho người đọc biết bao điều suy ngẫm.
3.4 - Đặc sắc trong cách sử dụng ngôn ngữ.
Ngôn ngữ trong tác phẩm của Tô Hoài là ngôn ngữ xuất phát từ đời sống quần
chúng. Tô Hoài quan niệm đó là kho của cải vô giá và ông đã biết cách chọn lựa,

nâng cao và nghệ thuật hóa trong các sáng tác của mình để tăng thêm giá trị của
nó. Ông khẳng định: “Mỗi chữ phải là một hạt ngọc buông xuống những trang bản
thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do phong cách văn chương của mình mà
có”…“Câu nói là bộ mặt của ý. Ý không bao giờ lặp lại, cũng như cuộc sống không
bao giờ trở lại giống nhau như đúc thì lời văn cũng phải thế”(Sổ tay viết văn).
Với sự nhận thức trên, Tô Hoài đã luôn trau dồi học hỏi ngôn ngữ trong cuộc sống đời
thường của nhân dân ở làng quê ngoại thành Hà Nội và cả ở miền núi Tây Bắc. Ở
từng vùng đất, từng đối tượng, từng loại nhân vật, ông đều có cách sử dụng ngôn
ngữ thích ứng với đặc điểm của nó. Mặt khác, ông còn sử dụng thành công những từ
ngữ giàu sức tạo hình, từ chỉ màu sắc, từ địa phương, Điều đó tạo cho tác phẩm
của ông vừa có vẻ đẹp giản dị, vừa không kém phần kì thú.
4 – Kết luận chung
“Dao có mài mới sắc”, với sự cần mẫn, bền bỉ, dẻo dai, không ngừng học hỏi, tích
lũy, tự vượt mình để sáng tạo đó chính là điều làm nên bản lĩnh và tài năng nghệ
thuật của Tô Hoài. Với những thành tựu to lớn đã đạt được sau hơn nửa thế kỉ sáng
tạo nghệ thuật, Tô Hoài xứng đáng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn
xuôi Việt Nam hiện đại, là tấm gương lao động nghệ thuật cho văn nghệ sĩ noi theo.
Người đọc trước đây, hiện nay và mai sau có lẽ không thể quên được những đóng
góp độc đáo, đặc sắc của Tô Hoài đối với nền văn chương dân tộc.
tác phẩm : Vợ chồng APHỦ
1) Hình tượng nhân vật Mị- Về đoạn văn mở đầu, giới thiệu nhân vật Mị:
Ngay từ những dòng đâu tiên, người đọc đã buộc phải chú ý tới hình ảnh người con
gái "ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa" và "Lúc nào cũng vậy
dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy
cũng cúi mặt,mặt buồn rười rượi"
Cách vào truyện gây ấn tượng nhờ tác giả đã tạo ra những đối nghịch:
+ Một cô gái lẻ loi, âm thầm gần như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá tầu
ngựa trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của gia đình thống lí Pá Tra.
+ Cô gái ấy là con dâu của một gia đình quyền thế, giàu có "nhiều nương, nhiều bạc,
nhiều thuốc phiện nhất làng" nhưng sao lúc nào cũng "cúi mặt" nhẫn nhục và "mặt

buồn rười rượi"
Đây là thủ pháp nhằm tạo tình huống: có vấn đề trong lối kể chuyện truyền thống
giúp tác giả mở lối dẫn người đọc cùng tham gia hành trình tìm hiểu những bí ấn của
số phận nhân vật.
- Phần tiếp theo của đoạn trích kể về số phận éo le và những phẩm chất tốt đẹp của
nhân vật Mị. Chú ý vào hai nét chính: Cô Mị với cuộc đời cực nhục, khổ đau và cô Mi
với sức sống tiềm tàng dẫn tới sứ Phản kháng mãnh liệt, táo bạo.
+ Vì món nợ truyền kiếp khiến Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
Khái niệm con dâu gạt nợ : Con dâu gạt nợ thì bề ngoài là con dâu nhưng thực chất
bên trong là con nợ. Điều cực nhục và khổ đau của số phận nhân vật mà đó là: một
con nợ thông thường dù khốn khổ vẫn còn hi vọng một ngày nào đó thoát khỏi thân
phận con nợ khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ nợ. Phương thức thanh toán có thể
bằng tiền, bằng vật chất, bằng số ngày công làm việc cho chủ nợ , Oái ăm chỗ, Mị là
con nợ nhưng Mị cũng lại là con dâu. Là con dâu, linh hồn Mị đã bị đem trình ma nhà
thống lí rồi, Mị không thể chạy đâu cho thoát! Mị sẽ phải kéo lê cái thân phận khốn
khổ của mình cho đến bao giờ? cho đến tàn đời!
Thực ra, cái nguy cơ bị biến thành một thứ con nợ chung thân Mị đã linh cảm từ
trước. Cô đã nghĩ cách cứu mình (thực chất là cứu tình yêu của mình) và trả món nợ
của gia đình bằng cách đề nghị cha để cô "đi làm nương"; cô đã van xin cha: "đừng
bán con cho nhà giàu". Nhưng sự thông minh của một cô gái mới lớn không thắng
được hoàn cảnh và mưu chước thâm độc của cha con thống lí. Mị bị tròng hai thứ dây
trói là làm con nợ (bắt buộc) và làm con dâu (ép buộc) vì cha con thống lí Pá Tra đã
muốn như thế.
Phải sống với kẻ mà mình không yêu là nỗi khổ và nỗi đau của Mị. Có đến mấy tháng
trời, đêm nào Mị cũng khóc. Rồi không thể chịu đựng hơn được nữa, Mị tính chuyện
ăn là ngón để tìm sự giải thoát: Người con gái hiếu thảo ấy, trước khi chết về lạy cha
mà cũng để xin cha cho mình được chết. Mấy lời thống thiết của người cha già chịu
nhiều khổ não trong đời đã khiến Mị không thể nghĩ cho nỗi buồn của riêng bản thân
Mị. Cô quay trớ lại nhà thống lí.
Từ đấy, Mị chấp nhận cảnh ngộ sống "lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa". Âm

thầm như một cái bóng là cách sống mà Mị lựa chọn, cho dù, đó là một sự lựa chọn
chống lại bản tính yêu đời của cô gái một thời xinh đẹp và tài hoa. Tác giả cắt nghĩa:
"Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" để minh giải tình trạng bị đày đoạ đến mức bị
tê liệt về tinh thần và dẫn tời tiếng thở dài buông xuôi phó mặc cho hoàn cảnh của
nhân vật: "Bây giờ thì Mì tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con
ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc
ăn cỏ, biết đi làm mà thôi".
Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà nhân vật phải chấp nhận
và chịu đựng.
Nhưng sự ê chề của kiếp sống chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu nỗi khổ đau về
tinh thần triền miên. Căn buồng của người phụ nữ Mông thông thường là nơi họ được
hướng chút hạnh phúc ít ỏi của thân phận làm người, từ làm con, đến làm dâu rồi
làng mẹ. Căn buồng của Mị ở nhà thống lí chỉ là một thứ ngục thất giam cầm một tù
nhân: "Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay.
Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng".
Người con gái làm dâu gạt nợ ấy bị đày đoạ bởi lao động khổ sai ở nhà thống lí, lẽ cố
nhiên là rất cực nhục, nhưng một sự câu lưu vĩnh viễn về tinh thần mới thực sự đáng
sợ. Nó sẽ! làm cho cô sống mà như đã chết hay nói chính xác hơn là nó buộc cô phải
chấp nhận tồn tại với trạng thái gần như đã chết trong lúc đang sống. Cô có thể
thoắt ra khỏi tình thế tuyệt vọng ấy không, khi cô đã mất tri giác về cuộc sống?
+Vẻ đẹp trong tính cách nhân vật Mị với sức sống tiềm tàng dẫn tới sức phản kháng
mãnh liệt, táo bạo: mùa đông năm ấy gió và rét dữ đội nhưng mùa xuân vẫn cứ đến,
và con người, dù khổ nghèo cơ cực đến mấy vẫn lại theo quy luật của tự nhiên mà rủ
nhau đi chơi trong niềm vui sống có phần hoang dã và tự do của người Mông.
Hãy thử phân tích phần ca từ của tiếng sáo:
Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu.
Ngôn từ giản dị, mộc mạc vậy mà hàm chứa cái lẽ sống phóng khoáng, tự do của con

người. Lẽ phải đơn sơ ấy, qua tiếng sáo, đã vọng vào tâm hồn cô gái có một thời
từng thổi sáo rất hay.
- diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đềm uống rượn đón xuân về, khi nghe tiếng sáo
gọi bạn, khi niềm khao khát sống trở lại, khi bị A Sử trói đứng, khi chứng kiến tình
cảnh của A Phủ cho tới khi cầm đao cắt đây trói cứu người bạn cùng cảnh ngộ và
quyết định bỏ trốn khỏi Hồng Ngài
Sự hồi sinh của tâm hồn nhân vật được tác giả miêu tả tinh tế, phù hợp với tính cách
của người con gái ấy. Tuy nhiên, cần chú ý việc nhà văn sử dụng khá nhiều những
yếu tố bên ngoài tác động vào nhân vật, được miêu tả rất tự nhiên như: khung cành
mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình, bữa rượu cúng ma đón năm mới Tất cả đã hoá
thành những lực tác động âm thầm đánh thức nỗi căm ghét bất công và tàn bạo
cùng ý thức phản kháng lại cường quyền, đánh thức cả niềm khao khát một cuộc
sống tự do, hoang dã và hồn nhiên vẫn được bảo lưu đâu đó tróng dòng máu truyền
lại từ lối sống của tổ tiên du mục xa xưa, làm sống dậy cái sức sống ẩn tàng trong cơ
thể trẻ trung và tâm hồn vốn ham sống của Mị.
- Hành động của nhân vật Mị xuất phát từ những thôi thúc của nội tâm :
+ Mị lén lấy hũ rượn, cứ uống ực từng bát trong một trạng thái thật khác thường.
Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say, nhưng tâm hồn cô thì từ phút ấy, đã tỉnh lại sau
bao tháng ngày câm nín, mụ mị vì sự dày đoạ. Cái cách uống ừng ực như thế, khiến
người ta nghĩ: như thể cô đang uống đắng cay của cái phần đời đã qua, như thể cô
đang uống cái khao khát của phần đời chưa tới.
+ Lòng Mị đã phơi phới trở lại và cái ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực "Nếu có nắm lá
ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buôn nhớ lại nữa". Nghịch
lí trên cho thấy: khi niềm khao khát sống hồi sinh, tự nó bỗng trở thành một mãnh
lực không ngờ, xung dột gay gắt, quyết một mất một còn với cái trạng thái vô nghĩa
lí của thực tại. Sở trường phân tích tâm lí cho phép ngòi bút tác giả lách sâu vào
những bí mật của đời sống nội tâm, phát hiện nét đẹp và nét riêng của tính cách.
+ Mị xắn mỡ bỏ vào đĩa đèn cho căn buồng sáng lên, Mị mặc áo váy mới để chuẩn bị
đi chơi Mị với những kí ức tươi dẹp thời thanh xuân quên cả cảnh mãnh đang bị
trói,

+ Mị vẫn ra ngồi sưởi lửa bên cạnh A Phủ, bất chấp việc bị A Sử đạp ngã xuống đất.
+ Mị cắt dây trói cứu A Phủ và cùng A Phủ trốn khỏi Hỏng Ngài
Tất cả những sự phân tích, lí giải về bình diện thứ hai trong tính cách nhân vật cần
giúp HS hướng tới một nhận định: Khi sức sống tiềm tàng trong tâm hồn nhân vật
được hồi sinh, nó sẽ là ngọn lửa không thể dập tắt. Nó tất yếu chuyển hoá thành
hành động phản kháng táo bạo ở những nạn nhân của giai cấp thống trị, chính họ sẽ
đứng lên chống lại cường quyền áp bức, chống lai mọi sự chà đạp, lăng nhục, vật
hoá con người (déshumaniser) để cứu lấy cuộc đời mình.
2) Hình tượng nhân vật A Phủ Nhân vật A Phủ cũng là một đóng góp mới của tác
giả về phương diện xây dựng nhân vật.
- A Phủ với số phận đặc biệt: Chú bé A Phủ từ tuổi thơ đã mồ côi cả cha lẫn mẹ,
không còn người thân thích trên đời vì cả làng A Phủ không mấy ai qua được trận
dịch. A Phủ sống sót không phải nhờ sự ngẫu nhiên mà vì chú là một mầm sống
khoẻ, đã vượt qua được sự sàng lọc nghiệt ngã của tự nhiên. Bời thế, không ngạc
nhiên khi có người bắt A Phù đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới
mười tuổi, nhưng A Phủ gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, trốn thoát
lên núi, lưu lạc tới Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành chàng trai Mông
khoẻ mạnh chạy nhanh như ngựa, biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và đi
săn bò tót rất bạo. Con gái trong làng nhiều người mê, nhiều người nói: "Đứa nào
được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà giàu". Người
ta ao ước đùa thế thôi, chứ A Phủ vẫn rất nghèo. A Phủ không có cha, không có mẹ,
không có ruộng, không có bạc, suốt đời làm thuê, làm mướn, phép làng và tục lệ
cười xin ngặt đến nỗi A Phủ không thể nào lấy nổi vợ.
- A Phủ với cá tính đặc biệt: Cá tính gan góc của A Phủ vốn đã bộc lộ từ năm lên
mười, cá tính ấy lại được chính cuộc sống hoang dã của núi rừng cùng hoàn cảnh ở
đợ làm thuê nhiều cực nhọc, vất vả hun đúc để A Phủ trở thành một chàng trai có
tính cách mạnh mẽ, táo bạo.
Trận đòn mà Phủ đành cho A Sử được miêu tả thật sống động:
"- Lũ phá đám ta đềm qua đây rồi.
- A Phủ đâu ?A Phủ đánh chết nó đi!

Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay
gỗ ngát lăng nào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng
cổ, kẹo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp"
Một đoạn văn ngắn với hàng loạt các động từ cùng lối miêu tả các động tác nhanh,
gấp: chạy vụt ra, ném, lăng, xộc tới, nắm cái uổng cổ, kéo dập đầu xuống, xé lai áo,
đánh tới tấp cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động.
Ở vùng núi cao, bọn chúa đất như thống lí Pá Tra là một thứ trời con, con trai thống
lí là con trời, không ai dám đụng tới. Nhưng A Phủ không sợ. Với A Phủ, A Sử chỉ là
đứa phá đám cuộc chơi, cần phải đánh. Thế thôi.
A Phủ đã phải trả một cái giá rất đắt cho hành động táo tợn ấy. Nhưng là người đơn
giản, A Phủ không quan tâm. Khi đã phải sống thân phạn của kẻ làm công trừ nợ, A
Phủ vẫn là một chàng trai của tự do, dù phải quanh năm một thân một mình "đốt
rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa " nhưng cũng
là quanh năm A Phủ "bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng" làm phăng phăng mọi
thứ, không khác với những năm tháng trước kia. Khi rừng đôi, vì mải bẫy nhím, để
hổ bắt mất bò, A Phủ điềm nhiên vác nửa con bò hổ ăn đó về. A Phủ nói chuyện đi
"lấy con hổ về" một cách thản nhiên và coi đó là một chuyện rất dễ dàng. A Phủ cãi
lại thống lí cũng rất điềm nhiên: A Phủ không biết sợ các uy của bất cứ ai. Con hổ
hay thống lí Pá Tra cũng thế thôi. Kể cả khi lẳng lặng đi lấy cọc và dây mây, rồi đóng
cọc để người ta trói đứng mình chết thế mạng cho con vật bị mất, A Phủ cũng làm
các việc ấy một cạch thản nhiên, không nói. Là người mạnh mẽ và gan góc, A Phủ
không sợ cả cái chết
Có thể nói, nhân vật A Phủ đã được khắc hoạ thành công. Sở trường quan sát nhạy
bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp
nhà văn, chỉ với mấy nét đơn sơ mà tạo dựng được một hình tượng đặc sắc.
Đề bài :Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A
Phủ________________________________________
Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" mà nhà văn Tô Hoài
đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xây dựng. Truyện được trích từ tập "truyện
Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài. Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây

Bắc (1952), Tô Hoài đã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền
núi, chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. Tô Hoài
thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảm sống của mình
mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa. Trong "Vợ chồng A Phủ",
Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật, trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất
là biện pháp phân tích tâm lý và hành động của Mị trong từng chặng đường đời.
Điểm nghệ thuật ấy thật sự phát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý
và hành động của nhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được
giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượng nhất đó chính là hình ảnh của
cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Đó là nét tâm
lý của một con người cam chịu, buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối
đầy bi kịch. Sở dĩ Mị có nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị
và A Sử. Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người mà
mình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thần quyền,
đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa con dâu gạt nợ. Mang
tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng, nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô
lệ không hơn không kém. Điều đó làm Mị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và
từng có ý định ăn nắm lá ngón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong
cái khổ, Mị quen khổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của
mình, trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.
Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng của một người yêu đời, yêu cuộc
sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sống đen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được
thể hiện trong đêm mùa xuân.
Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triển theo những cung bậc tình cảm
khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậc trước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo
quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hát người đang thổi rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ
niệm đẹp thời xa xưa Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi
chơi. Nhưng sợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấy
chỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồn của một cô gái

đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật là một đêm có ý nghĩa với
Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sau hàng ngàn đêm cô sống vật vờ
như một cái xác không hồn. Đó là một đêm cô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống
theo tiếng gọi trái tim mình.
Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đời trâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn
đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổ cái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ
khuất che lấp sức sống tiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh
đủ sức thổi đi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mị
vượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngời lên ở chỗ
đó.
Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính là những đêm mùa đông dài và buồn
trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm
nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A
Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi
lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm,
thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình
thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm
đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ
trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà
đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị
lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò
xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải
đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy
lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh
ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước
mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy
giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau.
Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết
người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó
thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ

ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với
cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ
không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà
thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho
thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi
thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ
“có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải
chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.
Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để
mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị
sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn
không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ
một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình
yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói
một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như
thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị
diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người
đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót
xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến
cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động:
dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết
sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này.
Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện
động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng
chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí
ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo
A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải
sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị
như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè
nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị

nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”.
Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa
đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân -
hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và
A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà
những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không
sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía
trước ra sao họ cũng chưa biết đến…
Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A
Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô
Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và
những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương
cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái tim nhạy cảm
và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong
trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó. Đồng thời qua tác phẩm,
Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở
đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị.
Quả thật qua đó tác phẩm này giúp ta hiểu được nhiều điều trong cuộc sống.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập “Truyện Tây Bắc” nói chung, ta
hiểu vì sao Tô Hoài lại thành công trong thể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong
cách nghệ thuật: màu sắc dân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ]. Tác
phẩm “Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện ngắn - giải thưởng do Hội
nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A Phủ” thực sự để lại ấn
tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trị nghệ thuật, giá trị hiện thực và
giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắn này quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho
phong cách Tô Hoài.
Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảm thông sâu sắc trước nỗi khổ
của người phụ nữ trong xã hội phong kiến miền núi, từ đó giúp em ngày càng trân
trọng khát vọng của họ hơn. Đây quả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó

đã góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong
truyện ngắn “Đời thừa”.
Đề bài :Mùa xuân ở thiên nhiên và trong lòng Mị
Hình tượng 2 bức tranh mùa xuân trong truyện vợ chồng A Phủ
Là một cây bút văn xuôi đương đại khá thành công, Tố Hữu là nhà văn có một lượng
tác phẩm khá đồ sộ và phong phú trong các nhà văn hiện đại. Với một khả năng
phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tài hoa, khéo léo, độc đáo, Tố Hữu
đã đem lại cho văn học Việt Nam những nhân vật truyện ngắn đa sắc, đa hình. Trong
đó, ta không thể kể đến hình tượng một cô gái người Mèo là Mị trong “Vợ Chồng A
Phủ” của Tô Hoài với hình ảnh hai hình ảnh mùa xuân đặc sắc.
Tô Hoài (1920) là một nhà văn có sức sáng tạo dồi dào với trên 160 đầu sách qua
hơn 60 năm cầm bút với rất nhiều thể loại khác nhau. Truyện “Vợ Chồng A Phủ” là
một truyện ngắn đặc sắc được trích từ tập Truyện Tây Bắc cùng với 2 truyện ngắn
khác là Cứu đất cứu Mường và Chuyện Mường giơn. Đó là một câu chuyện kể về cuộc
đời gian lao, khổ cực của 2 con người lao động miền núi A Phủ và Mị qua 2 quãng đời
– tương ứng với 2 phần truyện - ở Hồng Ngài và ở Phiềng Sa.
Mị là một cô con dâu gạt nợ sống ở nhà thống lí Pá Tra để trả món nợ truyền đời –
truyền kiếp là 20 đồng bạc trắng mà bố mẹ Mị vay bố Pá Tra để đến với nhau. Quãng
đời của MỊ ở Hồng Ngài thật sự là một chuỗi ngày đen tối nhất của một người đàn bà
ở giữa chốn đia ngục trần gian. Tuy là mang tiếng con dâu của vua xứ Mèo mà lại
phải làm việc quần quật, thời gian sống lại tính bằng những công việc liên tiếp “mùa
nào việc nấ”. Cố thật sự đã bị cướp đoạt quyền sống, quyền được hạnh phúc. Lẽ
nhiên, khi bị dồn vào đường cùng, con người tất yếu sẽ tìm đến cái chết. Nhưng vì là
một cô con gái có hiếu, Mị đã ném đi nắm lá ngón, cùng với ý định tự tử để trả món
nợ hạnh phúc cho cha mẹ. Chính vì thế “sống lâu trong cái khổ, quen với cái khổ, Mị
nghĩ mình là thân trâu thân ngựa”. Mị đã tự giam lỏng cả thể xác, tinh thần của mình
vào cái chốn địa ngục trần gian với cái phòng tối chỉ có một ô cửa số mà lúc nào nhìn
ra cũng “mờ mờ trăng trắng” không rõ là ngày hay là đêm. Và sự chịu đựng nhẫn
nhục ấy đã dẫn Mị rơi vào bi kịch đánh mất sức sống bản năng hay là “tê liệt tinh
thần phản kháng”.

Tưởng đâu đấy sẽ là một dấu chấm hết cho cuộc đời của người đàn bà Mèo ấy,
nhưng đằng sau cái đống tro tàn của lòng Mị, vẫn còn thấp thoáng đâu đó những tia
lửa nhỏ của khát vọng sống. Và chỉ cần một cơn gió tác động, nó sẽ bừng lên thành
lửa ngọn – ngọn lửa của sự khát khao mãnh liệt được sống – chứ không chấp nhận
tồn tại với thân phận nô lệ như vậy. Và cũng vì thế, người ta khó có thể nào quên cái
mùa xuân muộn năm ấy ở Hồng Ngài. Khi những dấu hiệu của Tết đang đến gần:
ngọn khói, tấm váy hoa xòe được đem phơi, lũ trẽ ầm ĩ chơi quay trong sân, tiếng
sáo gọi bạn tình văng vẳng đến trước ngõ mỗi nhà… thì tất cả mọi người dân đã sẵn
sàng cho một cái Tết thật sôi nổi, đầm ấm.
Cái không khí mùa xuân sặc sỡ đa thanh đa sắc ấy đã phần nào tác động đến tâm
hồn giá lạnh nơi Mị. Cùng với men rượu ngà ngà của buổi cúng ma của nhà Thống
Lý, Mị như lịm đi bên mâm rượu thầm nhớ về ngày xưa – cái ngày Mị còn nghe văng
vẳng tiếng sáo gọi bạn tình, ngày mà Mị còn được tự do với tình yêu của mình. Càng
nghĩ về ngày xưa, Mị lại càng thấm thía được nỗi đau thân phận nô lệ nhục nhã, tủi
hổ như đang len lỏi vào từng suy nghĩ của mình. Càng nghĩ, càng tủi, Mị lại muốn tìm
một sự giải thoát nơi chén rượu ấy với từng bát “ực” như một sự phản kháng của
riêng mình. Và như nhận thức được bản thân, Mị lại tìm đến căn buồng tối ấy – như
một sự tìm kiếm đến một không gian riêng. Mị nhận ra cái cuộc hôn nhân không tình
yêu đó đã đày đọa đời Mị biết bao lâu. Cái cảm giác muốn được chết đã quay lại nơi
Mị cùng với sự thấp thoáng của tiếng sao văng vẳng đâu đây: “Anh ném pao, em
không bắt – Em không yêu, quả pao rơi rồi”. Ngày xưa, Mị cũng là một cô gái trẻ,
tràn đầy sức sống, cũng là con người tài hoa với việc thổi kèn lá, kèn môi rất giỏi. Vì
thế, ta không ngạc nhiên gì khi tiếng sáo văng vẳng nơi xa kia, cùng với hơi rượu
nồng nàn đã khơi dậy nơi Mị những bổi hổi, bồi hồi về những ngày trước kia. Mị cảm
thấy phơi phới, cảm thấy mình còn trẻ lắm, còn rất trẻ và muốn đi chơi,cũng muốn
hòa nhập bản thân mình vào lễ hội tưng bừng ấy. Nghĩ là làm, Mị đến góc nhà, “lấy
ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Hành động nhỏ ấy nhưng đã
cho ta thấy được biết bao nhiêu điều: Mị đã dần nhận thức được không gian mình
đang sống, đang cần một chút ánh sáng – dù chỉ heo hắt – để soi sáng con đường,
soi sáng cả cuộc sống tối tăm mù mịt của mình nơi địa ngục trần gian ấy. Ngay sau

đó là những hành động liên tiếp nhau: “mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cáo váy hoa
vắt ở trong vách”. Mị làm tất cả một cách nhanh chóng, không mở một lời như một
sự quyết liệt, bình thản, khi mà trong đầu cô chỉ còn “rập rờn tiếng sao”. Bây giờ, Mị
chỉ còn biết đi theo một con đường- nơi có tiếng gọi của sự sống, của tình yêu đang
vẫy gọi ngoài kia.
Vậy mà ý định giải thoát ấy đã không thành khi có sự xuất hiện của A Sử. Nó biết
rằng Mị muốn đi chơi khi phát hiện ra những hành động ấy. Với một bản tính ác độc,
độc đoán, vô tình, vô nghĩa, nó đã thẳng tay trói cô lại, lại còn quấn mái tóc lên cái
cột làm MỊ không cúi, không nghiêng được nữa. Thế nhưng, nó đâu biết rằng, nó chỉ
có thể trói được thể xác của người đàn bà kia mà không hề biết rằng Mị vẫn đang mơ
màng, hướng tới cái sự sống ngoài kia: Mị như không biết mình đang bị trói, vẫn đưa
mình theo tiếng sáo, theo những cuộc chơi, đám chơi. Và cứ như thế - một mình –
trói buộc nơi cái cột đó với hơi rượu tỏa – tiếng sáo – tiếng chó sủa xa xa…
Thành công của Tố Hữu chính là việc khắc họa nội tâm nhân vật của yếu bằng tâm
trạng. Chỉ bằng một sự khai thác tinh tế nơi sự thay đổi cảnh sắc mùa xuân đất trời,
mùa xuân nơi bản làng, người đọc như thấy được nó đã tác động như thế nào đến
tâm hồn nguội lạnh của người đàn bà kia. Cả trong đêm ấy, hành động của Mị được
tác giả miêu tả rất ít, ngắn gọn, những nó đã thật sự gây hứng thú cho người đọc khi
dõi theo từng cử chỉ, từng kí ức, từng việc làm của Mị trong đêm mùa xuân ấy. Có
thể nói, Tô Hoài đã đặt cả tấm lòng của mình vào nơi Mị mới có thể gây cho người
đọc một sự đồng cảm sâu sắc đến vậy.
Với sự trỗi dậy – dù chỉ trong khoảnh khắc – của khát khao sống, ta nhận ra rằng cô
Mị “lùi lũi như con rùa nuôi nơi xó cửa”, đã không còn nữa; mà thay vào đó là một cô
gái luôn âm ỉ trong mình một ngọn lửa được sống – chứ không phải tồn tại như một
cái xác không hồn như trước kia. Qua đó, ta cũng thấy được giá trị hiện thực được
tác giả tô đậm như một bản tố khổ về một hình ảnh chốn địa ngục trần gian đã đày
đọa một người con gái đang tuổi thanh xuân vào thân phận nô lệ chờ ngày chết. Hay
đó cũng là một sự khám phá và khẳng định về sức sống mãnh liệt của người dân
miền núi hết sức quyết liệt và mạnh mẽ để tìm ra cho mình một con đường sống. Và
dù cái ý định giải thoát ấy có bị dập tắt đi chăng nữa, thì nó chăng đã trở thành một

ngọn sóng ngầm luôn thường trực trong tâm hồn người đàn bà ấy, sẵn sàng tuôn
trào ra, mãnh liệt hơn lúc nào hết!
Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ"
Phân tích nhân vật Mị trong truyện "Vợ chồng A Phủ"
I . Mở bài
Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN với số lượng tác phẩm đạt kỉ
lục .Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề
tài Tây Bắc của ông .Tác phẩm có một giá trị hiện thực và nhân đạo đáng kể . Truyện
viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới ách thống trị tàn bạo
của bọn thực dân phong kiến miền núi . Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công
nhân vật Mị , qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến
với cách mạng của nhân dân Tây Bắc .
II. Thân bài
Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc (1954). Tập truyện được tặng giải nhất-
giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm ra đời là kết quả của
chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội giải phóng Tây Bắc năm 1952 .
Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịc
lý và cuốn hút độc giả :
“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay
sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ
ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt
buồn rười rượi” .
Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như
lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa ; cô gái là con dâu nhà thống lí
quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một
số phận đau khổ , bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng .
Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp . Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc,
cô giỏi sáo và giỏi , uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” . Cô còn
một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, khát khao yêu đương . Quả thế, Mị đã
được yêu, và đã khát khao yêu, trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước

âm thah hò hẹn của người yêu .
Nhưng người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh . Để
cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu
gạt nợ trong nhà thống lí .
Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về thể xác của người con gái ấy, con người với danh
nghĩa là con dâu , nhưng thực chất chính là tôi tớ . Thân phận Mị không chỉ là thân
trâu ngựa, “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng
nhai cỏ, đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm” .
Song nhà văn còn khắc hoạ đậm nét nỗi đau khổ về tinh thần của Mị . Một cô Mị mới
hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó
cửa” . Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn
tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là
sương hay là nắng . Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị,
cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô . Tiếng nói tố
cáo chế độ phong kiến miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống . Cái
chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của
niềm vui sống trong những con người vô cùng đáng sống .
Mị đã từng muốn chết mà không được chết , vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha .
Nhưng dến lúc có thể chết đi, vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi , kéo dài
mãi sự tồn taịi vật vờ . Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn . Bởi muốn chết
nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho
cùng, còn thiết sống . Còn khi đã không thiết chết , nghĩa là sự tha thiết với cuộc
sống cũng không còn, lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước…
cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi .
Sức sống của Mị dường như mất đi . Nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi
kia dang còn một con người . Khát vọng hnạh phúc có thể bị vùi lấp , bị lãng quyên
trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, nhưng không thể bị tiêu tan
. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên. Và khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt
cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình
yêu .

Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ . Gió
rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc kì ảo của các lòai hoa đẹp đã
góp phần làm nên cuộc nổi loạn trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau
khổ . Tác nhân quan trọng là hơi rượu . Ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén
uống từng bát , “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi . Cái say cùng lúc vừa gây sự
lãng quên vừa đem về nỗi nhớ . Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng ,
người hát mà không nghe, không thấy và cuộc rượu tan lúc nào cũng không hay)
nhưng lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn
là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người : “Mị
vẫn còn trẻ . Mị muốn đi chơi . Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết .
Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau” .
Nhưng tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với
những khát khao hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng
gọi của mùa xuân, của tình yêu và tuổi trẻ . Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã
trở nên tiếng lòng của người thiếu phụ .
Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận . Cho nên trong
thời khắc âý, ta mới thấy Mị đầy rẫy những mâu thuẫn . Lòng phơi phới nhưng Mị
vẫn theo quán tính bước vào buồng , ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ
mờ trăng trắng . Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được chết ngay
đi .
Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần , cho tới khi nó
lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn
vào trong ảo giác : “Mị muốn đi chơi . Mị cũng sắp đi chơi” . Phải tới thời điểm đó Mị
mới có hành động như một kẻ mộng du : quấn lại tóc , với thêm cái váy hoa, rồi rút
thêm cái áo . Tất cả những việc đó , Mị đã làm như trog một giấc mơ, tuyệt nhiên
không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi “.
Rồi cái gì đến đã đến . A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi
chơi , bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một
thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân . Tâm hồn Mị đang còn sống
trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc

mơ của kẻ mộng du . Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng
chân bước theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được . Nhưng nếu cái mơ
không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng vậy . Lại một giai đoạn chập chờn nữa
giữa cái mơ và cái tỉnh, giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con
ngựa đạp vách, nhai cỏ , gãi chân . Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần
ra, đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi
trong câm lặng, mà còn câm lặng hơn trước .
Nhưng có lẽ sức sống của Mị bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ .
Cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến miền núi . Những va
chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa
xuân đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí . Và bản năng của một
người con vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện
thực phũ phàng : bị trói đứng . Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng
thương cảm trong con người Mị . Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng
phát trong Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong thế giới nội
tâm của cô . Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt : “A Phủ là cái
xác chết đứng đó cũng thế thôi” . Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm
hồn Mị . Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt :“Đêm ấy A Phủ khóc . Một
dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã xạm đen” . Và giọt nước mắt kia là
giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước . Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi
nhớ . Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực . Mị cũng đã khóc,
nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được . A Phủ, nói đúng hơn là
dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, xót thương cho mình .
Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể
thấy có người nào đó cũng khổ giống mình . Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình
thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ . Nhưng nó còn vượt
lên giới hạn thương mình : “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây
thôi còn người kia việc gì mà phải chết ” . Mị cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy
theo A Phủ . Lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết
hợp với nỗi sợ hãi, lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật , một con

người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận .
Nhà văn Tô Hoài đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm, và chỉ có lòng
yêu thương thông cảm, Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn
những con người ham sống như Mị .
III . Kết bài
Vợ chồng A Phủ qua việc khắc hoạ sâu sắc cuộc đời , số phận , tính cách Mị đã tố cáo
hùng hồn, đanh thép những thế lực phong kiến , thực dân tàn bạo áp bức bóc lột,
đọa đày người dân nghèo miền núi . Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do
hạnh phúc , sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động . Đặc biệt đề cao
sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ . Chính điều
này đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ .
(Sưu tầm)
VỢ CHỒNG A PHỦ ( TÔ HOÀI )
Đề 1 : Hãy trình bày hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ, tóm tắt cốt truyện, chủ đề,
giá trị hiện thực, nhân đạo của tp Vơ chồng A Phủ ?
Vợ chồng APhủ in trong tập truyện Tây Bắc, kết quả của chuyến Tô Hoài đi cùng bộ
đội vào giải phóng Tây Bắc (1952). Trong chuyến đi dài 8 tháng này, ông đã sống
gắn bó và nghĩa tình với các đồng bào các dân tộc Thái, Mường, Hmông…Tập truyện
Tây Bắc gồm 3 truyện " Cứu đất cứu mường", Mường Giơn", " Vợ chồng A Phủ". Tập
truyện đã thể hiện một cách xúc động cuộc sống tủi nhục của đồng bào miền núi Tây
Bắc dưới ách phong kiến thực dân. Trong cảnh đâu thương tột cùng đó, cách mạng
đã đến với họ và họ đã thức tỉnh.
Truyện "Vợ chồng A Phủ" viết về chặng đường đời của Mị và A Phủ những ngày sống
ở Hồng Ngài nhà Thống lí Pá Tra sang Phiềng Sa , nên vợ nên chồng và đến với cách
mạng. Tác phẩm đoạt giải nhất của Hội văn nghệ Việt Nam ( 1954-1955)
Tóm tắt
Mị, một cô gái xinh đẹp, yêu đời, có khát vọng tự do, hạnh phúc, bị bắt về làm con
dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra.
Lúc đầu Mị phản kháng nhưng dần dần trở nên tê liệt, chỉ "lùi lũi như con rùa nuôi
trong xó cửa".

Đêm tình mùa xuân đến, Mị muốn đi chơi nhưng bị A Sử (chồng Mị) trói đứng vào cột
nhà.
A Phủ vì bất bình trước A Sử nên đã đánh nhau và bị bắt, bị phạt vạ và trở thành kẻ
ở trừ nợ cho nhà Thống lí.
Không may hổ vồ mất 1 con bò, A Phủ đã bị đánh, bị trói đứng vào cọc đến gần chết.
Mị đã cắt dây trói cho A Phủ, 2 người chạy trốn đến Phiềng Sa.
Mị và A Phủ được giác ngộ, trở thành du kích.
Chủ đề:
Qua việc miêu tả cuộc đời, số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã làm sống lại quãng
đời tăm tối, cơ cực của người dân miền núi dưới ách thống trị dã man của bọn chúa
đất phong kiến, đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt không gì hủy
diệt được của những kiếp nô lệ, khẳng định chỉ có sự vùng dậy của chính họ, được
ánh sáng cách mạng soi đường sẽ dẫn tới cuộc đời tươi sáng.
Giá trị hiện thực
- Bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc- một thành công có ý
nghĩa khai phá của Tô Hoài ở đề tài miền núi.
- Bộ mặt của chế độ phong kiến miền núi: khắc nghiệt, tàn ác với những cảnh tượng
hãi hùng như địa ngục giữa trần gian.
- Phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp.
- Những trang viết chân thực về cuộc sống bi thảm của người dân miền núi.
Giá trị nhân đạo:
- Cảm thông sâu sắc đối với người dân.
- Phê phán gay gắt bọn thống trị
- Ngợi ca những gì tốt đẹp ở con người.
- Trân trọng, đề cao những khát vọng chính đáng của con người.
- Chỉ ra con đường giải phóng người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận thê
thảm.
Tác phẩm "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong truyện “Vợ chồng A Phủ” của Tô
Hoài?

Gợi ý:
“Vợ chồng A Phủ” là truyên thành công nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài.
Trong truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập
nhưng thực ra lại rất thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị chà đạp nặng nề đã sinh ra
buồn rầu và dần dần sinh ra cam chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong
tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng, tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước
vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ sống cho mình.
Mị bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong
cuộc đời nàng. A Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là
ngươi con gái giàu tình thương, có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho
cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu
con ngựa. “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng
nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả ngày ”. Quá đau
khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón
chết. Nhưng khi nghe cha nói: “Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết
nhưng nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ… Không được con ơi!”. Mị bưng mặt
khóc, ném nắm lá ngón rồi trở về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam
chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống
mãnh liệt. Trong nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ
tinh thần không muốn cam chịu, không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực
hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình
mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe tiếng ai thổi sáo rủ bạn
đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài hát của người
đang thổi:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gá
Ta đi tìm người yêu”
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng

lại ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân,
Mị uống rượu trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi
sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. “Mị
thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ
lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.” Tiếng sáo còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn
lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa? Dĩ
nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A Sử trói
Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im
như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa
Mị đi theo những cuộc chơi.
“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm
tàng trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ
và cho chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà
thống lí. A Phủ chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi
lửa thấy mắt A Phủ trừng trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ
quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa
bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở
dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức sống tiềm tàng đang trỗi
dậy trong lòng Mị bằng “ngọn lửa bập bùng sáng lên” thật là hay! Nàng nhìn thấy A
Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã sạm đen lại.
Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng “Trời ơi! Nó bắt trói đứng người
ta đến chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này”.
Nàng nghĩ đêm mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận
vào mình, biết đâu A Phủ trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị
phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là
những tư tưởng “nổi loạn” trong lòng Mị và từ tư tưởng “nổi loạn” đến hành động “nổi
loạn” chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút con dao nhỏ cắt lúa

cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: “Đi ngay…!”. Mị cắt sợi dây trói A Phủ cũng
chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã
chạy theo A Phủ, A Phủ nói: “Đi với tôi” và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống
dốc núi. Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý
nghĩa quyết định trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ
chồng A Phủ để xây dựng cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý
thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ
tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn của Mị trước đó. Hành động giải
phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn rười rượi, từ cái cách
uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.
Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương
người của Mị, còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã
thức dậy trong tâm hồn nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời
gian Mị ở Hồng Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế
lực tàn bạo của xã hội phong kiến thống trị cũa người H-mông đã chà đạp lên số
phận của nàng, tưởng như nàng không còn con đường nào thoát khỏi sự huỷ diệt.
Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu nàng. Tô Hoài đã miêu tả một
cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành động phản kháng
tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng cách
mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích
cực trong đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
Sưu tầm.
Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.
Gợi ý:
Phân tích đề
Giống như đề số 3, để làm tốt đề này, cần tham khảo kĩ đề số 1 (phân tích sức sống
tiềm tàng của nhân vật Mị thể hiện trong cảnh ngộ từ khi bị bắt làm con dâu gạt nợ
nhà Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài). Thực ra, về nội dung, đề này cũng là một
phần của đề số 1 (phần cuối). Tuy nhiên, khi tách ra thành một đề độc lập, sự phân

tích kỹ lưỡng hơn.
Dàn bài chi tiết
1. Giới thiệu sơ lược về Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
2. Phân tích tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ
- Giới thiệu sơ lược về A Phủ : một thanh niên có thân phận như Mị, cũng phải ở nàh
thống lý Pá Tra để gạt nợ. Do để mất bò mà bị trói đêm này sang đêm khác, ngày
này sang ngày kia.
- Tâm trạng của Mị trước đêm cởi trói cho A Phủ :
+ Cuộc sống đoạ đày trong nhà thống lý Pá Tra của Mị vẫn tiếp diễn. Thời gian đoạ
đày biến cô trở thành người câm lặng trước mọi sự. Những gì diễn ra chung quanh
không khiến Mị quan tâm. Những đêm đầu Mị thổi lửa hơ tay. Tâm hồn Mị như tê dại
trước mọi chuyện, kể cả lúc ra sưởi lửa, bị A Sử dánh ngã xuống bếp, hôm sau Mị
vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước.
+ Song, trong lòng, không phải chuyện gì Mị cũng bình thản. Mị rất sợ những đêm
mùa đông trên núi cao dài và buồn. Khi trong nhà đã ngủ yên, Mị tìm đến bếp lửa.
Đối với Mị, nếu khoôg có bếp lửa ấy, cô sẽ chết héo.
- Thương người cùng cảnh ngộ :
Chính nhờ ngọn lửa, đêm ấy, Mị trông sang A Phủ và nhìn thấy một dòng nước mắt
lấp lánh bò xuống má đã xám đen lại. Dòng nước mắt ấy khiến Mị chợt nhớ lại đêm
năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải đứng trói thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt
chảy xuống miệng, xuống cổ, không lau đi được. Rồi Mị phảng phất nghĩ gần nghĩ
xa : Cơ chừng naàythì chỉ đêm mai là người kia chêt, chết đau, chết đói, chết rét,
phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì còn biết đợi
ngày rũ xương ở đây mà thôi… Người kia việc gì phải chết thế?
- Tình thương lớn hơn cái chết :
Mị xót xa cho A Phủ như xót xa cho chính bản thân mình. Mị thương cho A Phủ không
đáng phải chết. Cô cũng sợ nếu mình cởi trói cho chàng trai ấy, bố con Pá Tra biết
được sẽ tói thay vào đấy và lại phải chết trên cái cọc ấy Song có lẽ tình thương ở
Mị đã lớn hơn cả sự chết. Tình thương ấy khiến cô đi đến hành động cởi trói cho A
Phủ.

- Từ cứu người đến cứu mình :
Khi cởi trói cho A Phủ xong, Mị đứng lặng trong bóng tối. Song, chính ngay lúc ấy,
trong lòng người đàn bà khốn khổ kia mọi chuyện diễn ra rất nhanh. Mị cũng vụt
chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Vì ở đây thì chết mất.
Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy
của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Mị
giải thoát cho A Phủ Phủ và giải thoát cho cả bản thân mình! Hành động táo bạo và
bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám
chống lại cả cường quyền và thần quyền.
3. Kết luận :
Qua tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ, chúng ta thấy được cả sức sống
tiềm tàng ở một người phụ nữ bị đoạ đày vả về thể xác lẫn tinh thần, tưởng chừng
như mất đi hết đời sống tâm hồn. Phải yêu thương và có một niềm tin mãnh liệt vào
con người nhà văn mới có được cái nhìn nhân đạo như vậy.
Tô Hoài đã miêu tả diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị rất tự nhiên, hợp lý và chân
thực. Không thấy diễn biến tâm trạng của nhân vật sẽ không hiểu được hành động
của nhân vật đó. Hành động cuối cùng của Mị - cởi trói cho A Phủ - có vẻ bất ngờ
nhưng lại hợp với quy luật tâm lý con người, quy luật của cuộc sống. Nhà văn không
chỉ đem đến cho bạn đọc những nhân vật biết hành động mà quan trọng hơn là vì
sao có hành động ấy. Tô Hoài đã rất thành công khi xây dựng một nhân vật có sức
sống bên trong mãnh liệt đằng sau khuôn mặt vô hồn, vô cảm của Mị. Bởi vậy, có
người đã xem đây là “một nhân vật thành công bậc nhất trong văn xuôi cách mạng
đương đại Việt Nam” ( Trần Đình Sử )
Sưu tầm Sức sống tiềm tàng của Mị
MB:
Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Tô Hoài tính đến nay đã già nửa thế kỉ. Hơn 60 năm
cầm bút ông là tác giả của hàng trăm đầu sách, hàng nghìn bài báo, thể loại phong
phú, đa dạng. Thế nhưng nhắc đến Tô Hoài ta ko thể quên đc tp "Dế mèn phiêu lưu
kí"- tp tiêu biểu trước Cách mạng tháng 8. Sau Cách mạng, Tô Hoài lại nổi lên với tập
truyện Tây Bắc mà linh hồn của nó là Vợ chồng A Phủ. Những năm gần đây người ta

lại xôn xao nhớ đến Tô Hoài với tp "Cát bụi chân ai" Cho đến nay, "Vợ chồng A
Phủ" vẫn là cái mốc thách thức với chính Tô Hoài, truyện đc giải thưởng văn nghệ
năm 1954-1955, một tp xuất sắc viết về đề tài miền núi. Truyện xoay quanh cuộc
đời của Mị- 1 cô gái Mèo nghèo khổ, xinh đẹp, nết na được Tô Hoài xây dựng chân
thực và sống động với sức sống tiềm tàng bất diệt. Thông qua sức sống tiềm tàng
của nhân vật Mị, ngòi bút của Tô Hoài đã bộc lộ là 1 ngòi bút nhân văn, nhân đạo
sâu sắc và cao cả. Văn hào Nga Sêkhốp đã từng nói: " 1 người nghệ sĩ chân chính
phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ". Tô Hoài là 1 nhà văn như vậy.
TB:
a. Trước hết là phản ứng của Mị khi biết tin mình là con dâu gạt nợ cho nhà thống lí
Pá Tra
Như đã nói, Mị là 1 cô gái mèo xinh đẹp, nết na. Một người như Mị lẽ ra phải được
sống cuộc đời hp, nhưng trái lại, cô đã khổ từ trong trứng nước. Ngày xưa khi cưới
nhau đã ko có tiền, bố mẹ Mị đã phải vay của bố thống lí Pá Tra- tức ông của A Sử
10 đồng bạc trắng, mỗi năm fải trả lãi 1 nương ngô. Cho đến nay bố Mị đã già, mẹ Mị
đã chết vậy mà món nợ ấy vẫn chưa trả được. Thống lí Pá Tra đến gạ bố Mị gả Mị
cho A Sử con trai hắn làm con dâu gạt nợ. Biết vậy, Mị đã phản ứng lại ngay: "Con
nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải ở nhà làm nương ngô trả nợ cho người ta.
Bố đừng bán con cho nhà giàu". Đây chỉ là 1 câu nói bình thường nhưng đã toát ra cả
1 con người. Đó là con người có sức sống tiềm tàng bất diệt. Câu nói của Mị là 1 sự
đánh tráo, đánh đổi: Mị thà ở nhà lao động cực nhọc trên nương rẫy để được sống 1
cuộc đời hp trong tự do còn hơn fải làm con dâu cửa nhà giàu, sống kiếp đời trâu
ngựa, nô lệ. Sự đánh tráo, đánh đổi ấy chỉ có thể có được ở những con người mạnh
mẽ, tự tin, biết quí trọng danh dự, nhân fẩm của chính bản thân mình. Có câu: "Thân
gái như hạt mưa sa", việc người con gai được sa vào cửa nhà giàu, đó là ước mơ,
thậm chí còn là sự toan tính của nhiều người phụ nữ. Thế nhưng với Mị, 1 con người
có sức sống tiềm tàng bất diệt thì Mị ko chấp nhận điều ấy bởi Mị hiểu rõ gia đình
nhà Thống lí Pá Tra. Đó là nơi hang hùm nọc rắn, Mị hiểu rõ bản chất của cuộc hôn
nhân gả bán này: "Bố đừng bán con cho nhà giàu". Rõ ràng chỉ là 1 câu nói giản đơn
nhưng fần nào đã gợi mở cho người đọc thấy được ở Mị có sức sống tiềm tàng bất

diệt.
b. Mị toan tự tử:
Mặc dù Mị phản ứng quyết liệt, Mị ko chấp nhận vào nhà thống lí Pá Tra thế nhưng
Mị đang sống trong xã hội tiền quyền và thần quyền. Đó là xã hội phong kiến ở miền
xuôi thế nên những người hiền lành nết na như Mị ko thoát đc. Mị bị bắt cóc, bị lường
gạt về cúng trình ma nhà thống lí Pá Tra chỉ đợi ngày chết rũ xương ở đó. Biết được
điều này "có đến mất tháng trời đêm nào Mị cũng khóc". Mị ko chấp nhận cuộc sống
ở nhà thống lí Pá Tra, ý định tự tử đã đến với Mị. Mị cầm nắm lá ngón trên tay về lạy
chào cha để định quyên sinh. Nhưng khi về đến gia đình, Mị mới nhìn thấy rõ bi kịch
gia đình mình, bố Mị nói như van xin trong làn nước mắt: "Mày về lạy chào tao để
mày đi chết đấy à? Mày chết nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Mày mà chết rồi
ko lấy ai làm nương ngô giả đc nợ người ta. Tao thì ốm yếu quá rồi. Ko đc, con ơi!"
Sau khi Mị nghe những lời nói như van xin của cha, cô đứng trước 1 hoàn cảnh éo le,
oái oăm, cay cực. Mị sống ko muốn, Mị chết ko xong. Tuy nhiên việc Mị đã đến ý
định tự tử lại thể hiện sức sống tiềm tàng, điều đó phải chăng là nghịch lý?
Mới nghe qua tưởng là nghịch lí nhưng ngẫm nghĩ lại trong hoàn cảnh của Mị đó lại là
1 điều hợp lí sâu sắc bởi vì Mị muốn chết như 1 con người còn hơn fải sống như 1 con
vật. Mị muốn chết ngay 1 lần để đc làm người còn hơn fải sống cs chết dần, chết
mòn, chết khô, chết héo, chết cả thể xác lẫn tâm hồn. Thế nhưng nếu làm theo sức
sống tiềm tàng đang trỗi dậy mạnh mẽ trong lòng thì Mị fải trà đạp lên chữ "hiếu", Mị
ko thể giày xéo lên tình phụ tử. Vì chữ "hiếu" Mị đành vứt nắm lá ngón, gạt nước mắt
quay trở lại nhà thống lí. Nhà thống lí Pá Tra ở Hồng Ngài chả khác nào thiên la địa
võng, dấn thân vào đó là dấn thân vào chỗ chết, vào địa ngục trần gian. Biết đc điều
nàynhưng Mị vẫn chấp nhận vì thương cha. Đọc đến đây ta nhớ đến bi kịch của Thuý
Kiều hơn 200 năm trước "bán mình chuộc cha". Hôm nay bi kịch ấy lại đổ dồn lên đôi
vai gầy của người con gái Mèo nghèo khổ. Giữa những năm đó, miền Bắc nước ta
đang tiến lên CNXH nhưng ánh sáng của Đảng chưa rọi tới cs của những người vùng
cao. Là 1 chiến sĩ trên diễn đàn văn chương, nói như HCM: "VH nghệ thuật là 1 mặt
trận, anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Tô Hoài thông qua "vợ chồng A Phủ"
đem ánh sáng của Đảng rọi lên kiếp đời thổ ti lang tảo ở bản Mèo để "cứu đất cứu

Mường". Bđầu từ đây Mị sống khác hẳn, Mị ko khóc như trước nữa. "Mị sống lầm lũi
như con rùa nuôi trong xó cửa", như cái bóng, cái xác vô hồn trong địa ngục trần
gian. Mị sống chẳng qua là kéo dài những ngày chưa chết đc, điều này đã được Tô
Hoài thể hiện ngay ở mươi dòng đầu câu chuyện với những câu văn đầy tính tạo
hình. Nhà văn đã dựng lên trước mắt chúng ta với sức sống tàn fai, mai một: "Ai ở xa
về có việc vào nhà thống lí Pá Tra cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi".
c.Tất cả những gì tưởng đã chết trong lòng Mị thì bây giờ lại được hồi sinh, hồi sinh 1
cách chóng vánh khi mùa xuân đến.
Phải nói rằng những trang viết về mùa xuân là những trang tuyệt bút của nhà văn Tô
Hoài. Ta bắt gặp ở 1 nhà văn hiện thực lại có những trang văn lãn mạn. "Vợ chồng A
Phủ" xứng đáng là 1 minh chứng cho lời nhận định: "Văn học VN gđoạn 45-75 có sự
kết hợp hài hoà giữa 2 nhân tố hiện thực và lãn mạn". Nhưng điều cta quan tâm hơn
cả là ngòi bút tâm lí của nhà văn Tô Hoài khi mô tả sự trỗi dậy sức sống tiềm tàng
của Mị. Ông tỏ ra am hiểu những tâm lí phức tạp, âm thầm trong tâm hồn người fụ
nữ:
Đầu tiên là sự thay đổi bên ngoài. Năm ấy mùa xuân về sớm hơn mọi năm. Tô Hoài
mô tả những làn gió đem mùa xuân về trên khắp các bản làng. Những nương thuốc
fiện đã nở hoa sặc sỡ, cả bản Mèo đều cuốn vào không khí của ngày hội. Trên những
bản của người Mèo đó, trai gái đã mang váy áo ra fơi trên những mỏm đá trông sặc
sỡ như những cánh bướm. Ban ngày trai gái mặc quần áo mới đến đánh quay, ném
pao, tung còn, Tất cả những hình ảnh này đã dội vào tâm hồn Mị- 1 tâm hồn khô
cằn, nó làm cho sức sống của Mị bđầu có sự vận động, nó chẳng khác nào những nốt
nhạc đầu tiên của bản nhạc tình ca thay đổi lớn sắp diễn ra trong lòng người đàn bà
đã và đang fải chịu quá nhiều đau khổ.
Kế đó là tiếng sáo đêm tình mùa xuân. Trong không gian tiếng hát, tiếng sáo, tiếng
khèn lá, khèn môi của trai bản gọi bạn tình cứ réo rắt nhau đi hết quả đồi này sang
quả đồi khác. Nó đánh thức dậy những bài hát lâu nay tiềm ẩn sâu trong tâm hồn Mị.
Mị ngồi nhẩm lại những bài hát ngày xưa. Ngày xưa, Mị thổi sáo thật tài, chỉ cần uốn
lá trên môi, cô thổi lá hay như thổi sáo:
"Anh ném pao

×