Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.71 KB, 5 trang )
NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP
(Kỳ 5)
5. Can thiệp động mạch vành trong giai đoạn cấp cứu (nong, đặt
Stent):
Mặc dù thuốc tiêu huyết khối là tiến bộ đáng kể, nhng do nhiều chống chỉ
định và số bệnh nhân đến viện khá muộn nên tỷ lệ bệnh nhân đợc dùng thuốc tiêu
huyết khối không cao.
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tính u việt của phơng pháp
can thiệp động mạch vành trong giai đoạn cấp. Tuy nhiên, nó tuỳ thuộc nhiều vào
trang thiết bị và kinh nghiệm của thầy thuốc can thiệp.
a. Chỉ định:
Can thiệp ĐMV cấp chỉ nên chỉ định ở những bệnh nhân có chống chỉ định
của thuốc tiêu huyết khối hoặc có tình trạng huyết động không ổn định (sốc tim)
hoặc có rối loạn nhịp tim.
Hiện nay, đối với một số trung tâm có kinh nghiệm và có trang thiết bị tốt,
ngời ta thờng có xu hớng can thiệp ĐMV thì đầu (primary intervention) (tức là can
thiệp ngay lập tức khi bệnh nhân đến viện và cha dùng thuốc tiêu sợi huyết). Các
khuyến cáo gần đây đã có xu hớng ủng hộ cho việc can thiệp này.
b. Can thiệp khi dùng thuốc tiêu huyết khối thất bại: tức là sau khi dùng
thuốc tiêu huyết khối mà bệnh nhân vẫn còn đau ngực, lâm sàng không ổn, ST vẫn
chênh lên trên ĐTĐ thì có chỉ định can thiệp ĐMV.
c. Khi can thiệp động mạch vành cấp cần dùng phối hợp với các thuốc:
ã Aspirin 325 mg/ngày kéo dài mãi, phối hợp Ticlopidin (Ticlid) 250 mg x
2 lần ngày trong nửa tháng hoặc Clopidogrel (Plavix) 75 mg/ngày. Vai trò của
Clopidogrel ngày càng đợc nhấn mạnh vì tính hiệu quả và khá an toàn của nó.
Những nghiên cứu gần đây cho thấy lợi ích của Plavix càng đợc khẳng định khi
dùng kéo dài đến 9 tháng.
ã Các thuốc ức chế thụ thể GP IIb/IIIa (ReoPro, Aggrastat ) là những
thuốc chống ngng kết tiểu cầu triệt để. Khi dùng cùng với can thiệp ĐMV cấp làm
giảm đáng kể tỷ lệ tai biến do can thiệp và tỷ lệ tắc mạch sau can thiệp. Tuy nhiên