Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Đề cương ôn tập cuối kì môn Lịch sử văn minh thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.67 KB, 30 trang )

 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH CÁC NỀN VĂN MINH PHƯƠNG ĐÔNG THỜI CỔ
ĐẠI (ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CƯ DÂN, KẾT CẤU NHÀ NƯỚC, XÃ HỘI):
ĐKtự
nhiên:
- Hình thành trên lưu vực của các sông lớn, đồng bằng phù sa màu mỡ phì
nhiêu, thường lấy tên các dòng sông đặt cho các nền văn minh.à Đất đai mềm,
ẩm ướt, phì nhiêu.
VD: văn minh sông Nil à Ấn Độ.
Văn minh Hoàng Hà à Trung Hoa
Thời điểm
hình thành
- 5000 năm cách nay (3000 năm TCN)
Thời điểm con người biết sử dụng công cụ lao động bằng đồng.
à Văn minh thời đại đồ đồng.
+ Đồng đỏ: đồng nguyên chất, mềm.
+ Đồng thau: đồng pha kẽm
Thích hợp vùng đất mềm.
Cơ sở kinh tế - Nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa.
Thủ công nghiệp chỉ là ngành phụ trong thời gian nông nhàn không là
hàng hóa.
à Các nền văn minh đều là văn minh nông nghiệp
Kết cấu giai cấp
trong xã hội
- Giai cấp nông dân công xã chiếm 90% dân số xã hội à là lực lượng
sản xuất chính trị bị bốc lột (tô, thuế).
- Giai cấp thống trị là tầng lớp quý tộc chủ nô.
- Giai cấp nô lệ:
+ Số lượng: không đông, thiểu số.
+ Vai trò: không là lực lượng sản xuất chính trị trong xã hội.
à Chế độ chiếm hữu nô lệ phương Đông không điển hình, còn gọi là
chế độ nô lệ gia trưởng và giai cấp nô lệ còn gọi là nô tì.


Giai cấp nô lệ là giai cấp cùng cực nhất.
Chế độ chính trị - Vấn đề trị thủy để giải quyết kinh tế nông nghiệp nên xuất hiện thủ
lĩnh à vua có đặc điểm:
+Nắm toàn bộ vương quyền.
+Thủ lĩnh tối cao tôn giáo (thần quyền).
+Thần thánh hóa (tự xưng là con trời).
à Chế độ quân chủ chuyên chế TW tập quyền (mang tính cha truyền
con nối.)
- Tính chất trì trệ, phát triển không nhảy vọt à kéo dài 3000 năm mà
văn minh Phương Đông chưa đạt đỉnh cao.
2. CƠ SỞ NÊN VĂN MINH PHƯƠNG TÂY (ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, CƯ DÂN,
KẾT CẤU NHÀ NƯỚC, XÃ HỘI):
ĐKtự - Hình thành ở các thành phố ven biển Địa Trung Hải, khí hậu ôn hòa nhưng
nhiên lượng mưa không cao. Địa hình bờ biển gồ ghề, lởm chởmà Đất đai cứng,
khô cằn, nhiều đá, không thuận lợi phát triển nông nghiệp trồng lúa.à tạo
nhiều vịnh và hải cảng tự nhiên rất tốt, sẽ là căn cứ cho những đội thương
thuyền.
Thời điểm
hình thành
- 3000 năm cách nay (1000 năm TCN)
Sắt: cứng, thích hợp vùng đất cứng, khô cằn.
Cơ sở kinh
tế
- Nền kinh tế trồng lúa mì thích hợp phát triển cây: (nho à rượu nho, ô liu à
dầu ô liu)
à sản phẩm thủ công truyền thống phát triển: đồ gốmm, đồ gỗ, đồ trang sức.
- Trao đổi bên ngoài lấy lương thực.
à ngành mậu dịch hàng hải phát triển.
à nền kinh tế hàng hóa phát triển hình thành kỷ nguyên TT.KT Địa trung hải.
Kết cấu

giai cấp
trong xã
hội
- Giai cấp thống trị là giai cấp quý tộc chủ nô. Xuất hiện từ những người
đứng đầu thị tộc, bộ lạc (tộc trưởng, tù trưởng).
- Giai cấp nô lệ:
+ Số lượng: rất đông, đại bộ phận dân cư.
+ Vai trò: lực lượng sản xuất chính xã hội.
- Tầng lớp dân tự do.
à Chế độ chiếm hữu nô lệ phát triển mang tính điển hình, chỉ tồn tại ở Hy Lạp
và La Mã.
Chế độ
chính trị
- Vua phương Tây được hình thành do đại hội nhân dân bầu ra viện nguyên
lão à cử ra người đứng đầu Nhà nước (vua: REX).
à Chế độ cộng hòa: là cộng hòa quý tộc (vì viện nguyên lão chỉ gồm quý tộc)
àlà chế độ dân chủ (vì viện nguyên lão đông).
Đây là chế độ chính trị ưu việt nhất ở thời kỳ cổ đại, khoa học kỷ thuật phát
triển mạnh nên chỉ 300 năm văn minh phương Tây đạt đỉnh cao.
3. CÁC THÀNH TỰU VĂN MINH AI CẬP (KHOA HỌC TỰ NHIÊN, CHỮ
VIẾT):
1. Chữ viết:
- Chử viết của Ai Cập cổ đại xuất hiện rất sớm trong thời kỳ tan rã của chế độ CXNT trên
vùng lãnh thổ sông Nil → chữ viết này là chữ viết tượng hình.
- Tượng hình nghĩa là hình thức ký hiệu tương tự, giống như sự việc người ta muốn mô
tả.
+ Tượng hình chỉ Ý: chỉ biểu thị những gì mang tính cụ thể, còn những gì mang tính trừu
tượng thì không biểu thị được.
+ Tượng hình chỉ ÂM : là những ký hiệu không đọc được ở hình vẽ mà đọc ở âm quy
ước của nó. Và đi kèm còn có hơn 24 ký hiệu chỉ phụ âm. Khó học nên chỉ có giai cấp

quý tộc và tầng lớp thư lại mới biết chữ. => Khi Ai Cập bị người La Mã chiếm đóng thì
họ có chữ viết riêng (mẫu tự ) nên sau thời gian ngắn không ai sử dụng chữ tượng hình
nữa → ngôn ngữ chết.
Ý nghĩa: Người Ai Cập cổ đại có chữ viết từ rất sớm và nhờ hình thành chữ viết này họ
đã để lại một di sản văn hóa vô cùng phong phú trên tất cả mọi lãnh vực.
2. Thành tựu khoa học tự nhiên:
a. Thiên văn học:
Xuất phát từ nhu cầu cần nhận biết sự lên xuống của nước sông Nil mà thiên văn học
xuất hiện sớm và tích lũy hàng nghìn năm.
Đạt được thành tựu:
- Nhận biết được các chòm sao: vẽ được bản đồ thiên thể (trên các vòm, trần của đền đài)
→ Phát hiện được sao bắc đẩu: ký hiệu là hình đầu bò.
- Xác định được vị trí và vẽ được bản đồ của 12 cung hoàng đạo từ vương triều 14.
- Nhận biết được 5 hành tinh trong hệ mặt trời là Sao thủy, Kim, Mộc, Hỏa, Thổ.
- Biết sử dụng đồng hồ đo bóng mặt trời, còn lưu giữ tại bảo tàng Beclin 3500 năm nay.
b. Lịch pháp:
Xuất phát từ nhu cầu cần nhận biết sự lên xuống của mực nước sông Nil nên người Ai
Cập phát hiện:
- Buổi sáng mùa thu nhìn đường chân trời phía đông thấy một ngôi sao Lang (Sirus ) xuất
hiện là lúc nước sông Nil bắt đầu dâng lên.
- Chu kỳ xuất hiện của sao Lang là 365 ngày → dương lịch, đây là chu kỳ của Trái đất
xung quanh Mặt trời.
- 1 năm có 12 tháng, 1 tháng có 30 ngày, và có 5 ngày thừa để ăn tết. Có 3 mùa:
+ Tháng 7, 8, 9, 10 mùa nước.
+ Tháng 11, 12, 1, 2 mùa thu hoạch.
+ Tháng 3, 4, 5, 6 mùa gieo trồng ( ngũ cốc ) → họ biết đặt ra năm nhuận.
c. Toán học:
- Số học:
+ Sáng tạo nên hệ đếm thập phân ( hệ đếm cơ số 10 )
+ Biết đến 4 phép tính cơ bản là cộng, trừ, nhân, chia ( nhưng chủ yếu là cộng trừ ).

- Hình học:
+ Tìm ra trị số п = 3,16 giải những bài toán hình học không gian phục vụ xây dựng
+ Biết công thức tính chu vi và diện tích các hình cơ bản ( vuông, chữ nhật, thang… )
+ Biết công thức tính thể tích của hình cầu, hình tháp
- Đại số học: biết giải các phương trình bậc nhất ( dùng chữ thay số )
d. Y học: Không chỉ hiểu biết chung về y học mà còn chữa theo chuyên khoa. Tuy chưa
biết được sự tuần hoàn của máu trong cơ thể nhưng họ biết được thân nhiệt liên quan chặt
chẽ với nhịp đập trái tim.
- Biết đuợc 3 loại bệnh: chữa đựoc bệnh hoàn toàn, bệnh có khả năng chữa khỏi và bệnh
không thể chữa
- Thành tựu rực rỡ là kỹ thuật “ướp xác” → Tốn kém nên chỉ áp dụng đối với hoàng đế,
Kim Tự Tháp là lăng mộ của Hoàng đế đặt các xác ướp.
4. NỀN VĂN MINH ẤN ĐỘ: TÔN GIÁO
a. Tín ngưỡng và tôn giáo nguyên thủy:
Các tôn giáo Ấn Độ phần lớn bắt nguồn từ những tín ngưỡng và tôn giáo trong thời kỳ
nguyên thủy: Sùng bái các hiện tượng tự nhiên, sùng bái vật tổ à kinh VEDA
Đọc trong kinh VEDA cho thấy người Ấn Độ thờ nhiều thần (33.333 vị thần) gồm thần
lửa, sấm sét Trong đó thần lửa có vị trí và vai trò rất quan trọng. Sau đó phát sinh tục
thờ cúng tổ tiên à tất cả những tôn giáo này phản ánh hình thái ý thức của xã hội nguyên
thủy. Từ đó được tổng hợp lại và hình thành nên tôn giáo mới à Đạo bàlamôn.
b. Đạo Bàlamôn: Không có giáo chủ, kinh sử dụng chỉ yếu là VEDA (là giáo lý của đạo).
Tập trung 3 vấn đề:
- Ra sức biện hộ cho chế độ thịnh hành ở Ấn Độ là chế độ chủng tính (Đẳng cấp)
(VARNA) có 4 đẳng cấp:
+ Tăng lữ (BRAHMAN): thiểu số trong xã hội, nắm giữ chức vụ quan trọng của bộ máy
nhà nước và tôn giáo, được quyền đọc, giảng kinh VEDA và thực hành những nghi lễ tôn
giáo. Đây là đẳng cấp cao quý không ai được quyền đụng chạm đến
+ Võ sĩ (KSATRYA): bảo vệ vua chúa, mùa màng, lãnh thổ được đọc kinh VERA và
dự buổi tế lễ.
+ Bình dân (VAISHYA): những người hoạt động trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và

thương nghiệp được đọc kinh VEDA và dự tế lễ.
+ Tiện dân (SUDRA) gồm: CHANDNA và PARIA, hèn mọn, gồm con cháu của các bộ
lạc bị bại trận, họ phải sống bên ngòai các công xã, địa vị xã hội thấp kém, có nghĩa vụ
phục vụ cho các đẳng cấp trên. Là đẳng cấp ô uế, không ai thèm đụng chạm đến.
- Có 4 đẳng cấp là do BRAHMA sinh ra, đó là đấng tối cao tạo ra vạn vật vũ trụ và muôn
loài, cách giải thích là BRAHMA tồn tại vĩnh viễn nên đẳng cấp là vĩnh viễn.
Câu chuyện thần thoại về đẳng cấp của thần PURANA
+ Tăng lữ à miệng.
+ Võ sĩ à Đùi.
+Tiện dân à chân.
Xã hội Ấn Độ hợp pháp hóa chế độ đẳng cấp bằng luật MANUDRAHMAà Bảo vệ chế
độ đẳng cấp tức là bảo vệ quyền lợi giai cấp thống trị.
* Vạn vật trong vũ trụ tồn tại vĩnh viễn à chế độ đẳng cấp sẽ tồn tại vĩnh viễn và bất di
bất dịch.
* Khẳng định thuyết luân hồi và nghiệp báo nhấn mạnh tính nhân quả.
Cho rằng cuộc đời con người là chuỗi liên tiếp nhiều mắt xích gọi là kiếp, nếu kiếp này
sống tốt thì kiếp sau được hóa thân sang đẳng cấp cao hơn à phải chấp nhận chế độ đẳng
cấp.
Để thích hợp tinh thần mới của xã hội Ấn Độ và để cạnh tranh với Phật giáo à đạo
Bàlamôn phát triển thành HINDU (thờ bò cái) có 80% dân theo và không ăn thịt bò à tôn
giáo địa phương chứ không ra thế giới được.
c. Phật giáo:
1/ Tiền đề xã hội đạo Phật
Giữa thế kỷ 1 trước công nguyên đạo Phật ra đời
- Kinh tế: giữa thế kỷ 1 TCN lực lượng sản xuất phát triển mạnh ở Ấn Độ, công cụ lao
động bằng sắt được sản xuất rất phổ biến à làm cho xã hội phân hóa sâu sắc, đại bộ phận
nhân dân Ấn Độ bị bần cùng hóa, một bộ phận lớn cư dân trở thành người nô lệ do thiếu
nợ, một bộ phận khác tuy vẫn là người tự do nhưng trở thành những người ăn xin.
- Xã hội: trong khi đời sống nhân dân lao động bị bần cùng hóa, đạo BÀLAMÔN sau khi
được hình thành và phát triển được củng cố, giáo lý, luật lệ càng chặt chẽ, nghi thức cúng

bái càng phức tạp à địa vị của tầng lớp tăng lữ được củng cố. Do chế độ đẳng cấp vững
chắc, đã khiến tầng lớp nông dân lao động căm ghét ra sức chống đối những người đã đè
nén bóc lột họ. Để phản ánh tâm trạng này, trong xã hội Ấn Độ xuất hiện nhiều trào lưu
tư tưởng khác nhau à trong đó đều có điểm gặp gỡ chung là trực tiếp hoặc gián tiếp chống
lại chế độ đẳng cấp và đạo Phật là một trong số đó.
2/ Tinh thần cơ bản của Phật:
- Phật giáo phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn và bất diệt của mọi sự vật. Đó chính là vô
thường có nghĩa là không thường còn, để chỉ sự biến động sự thay đổi diễn ra trong từng
đơn vị rất nhỏ (KAKNA vô thường).
- Phật giáo công nhận thuyết luân hồi, nghiệp báo và nhấn mạnh tính nhân quả à điều này
kế thừa của đạo Bàlamôn.
- Học thuyết nổi tiếng của Phật giáo là “TỨ DIỆU ĐẾ” gồm:
+ Khổ đế à giải thích thế nào là khổ theo quan niệm của Phật giáo đó là những điều bất
trắc mà con người không toại nguyện trong cuộc sống.
+ Tập đế à chỉ ra nguyên nhân vì sao sinh ra sự khổ, đó là do con người bị ràng buộc bởi
rất nhiều ham muốn: tham (lam), sân (nóng nảy, giận giữ), si (mê muội).
+ Diệt đế à nhận thức sự cần thiết phải loại trừ sự khổ khỏi cuộc sống con người, tức phải
lọai trừ tất cả những nguyên nhân gây ra sự khổ, đó là diệt những ham muốn si mê.
+ Đạo đế à 8 con đường đúng đắn đó là đòi hỏi con người phải nhận thức đúng đắn trong
tư duy, trong hành động và sự việc để vươn đến sự giác ngộ và giải thoát.
à mục đích cuối cùng của sự giác ngộ, sự giải thoát là đạt đến Niết bàn. Niết bàn là một
trạng thái tâm hồn đã hoàn toàn được giải thóat, không còn ham muốn không còn si mê à
đã thành Phật.
- Giáo lý Phật giáo do đệ tử Phật ghi chép lại tạo thành TAM TẠNG KINH ĐIỂN, gồm 3
phần:
+ Kinh tạng: là bộ phận ghi chép những lời dạy của Phật.
+ Luật tạng: luật nhà Phật.
+ Luận tạng: làm rõ những điều chưa rõ trong Kinh và Luật.
3/ Quá trình truyền bá: (TK 5 TCN – TK 5 sau CN)
Đạo phật xuất hiện ở Ấn Độ vào khoảng giữa TK1 TCN tức vào thời điểm hưng thịnh

của đạo Bàlamôn và ở chế độ đẳng cấp, thế nhưng với giáo lý đề cao lòng từ bi của con
người, của đồng loại, chống lại giáo lý đẳng cấp và tinh thần bác ái, đạo phật đã nhanh
chóng chinh phục các tầng lớp nhân dân Ấn Độ từ vua chúa đến bình dân. Sau khi Phật
qua đời thì giáo lý của đạo phật đã được sưu tập, chỉnh lý và sa định thành kinh phật qua
4 kỳ HN kết tập:
- HN lần I: diễn ra trong thời gian ngắn sau khi Phật qua đời, thời gian HN này có 500
ĐB tăng ni họp trong vòng 7 tháng tại vương quốc MAGADHA. Biên tập được 2 phần:
kinh tạng (ghi lại lời thuyết giảng) và luật tạng (nói đến giáo luật: đi ăn mặc, ứng xử).
- HN lần II: diễn ra giữa thế kỷ 4, ĐH này tập trung 700 tăng ni họp trong 8 tháng. Lưu ý:
diễn ra phân liệt trong nội bộ thành 2 khuynh hướng:
+ Chủ trương tuân thủ những giá trị truyền thống của các chư tăng trước đó gọi là
THƯỢNG TOẠ BỘ.
+ Chủ trương canh tân và đưa ra 10 điều sửa đổi BỘ LUẬT TẠNG.
Từ ĐH này, bắt đầu đưa chủ trương xây dựng chùa, tháp đặt ra các ngày lễ và cho tiến
hành tạc tượng, vẽ chân dung để thờ cúng,
- HN lần III: diễn ra năm 253 TCN à được sự bảo trợ của vua ASHOKA nước
MAGATHA ĐH này khuynh hướng phân liệt ngày càng nghiêm trọng, họ chấn chỉnh tổ
chức, giáo lý, cho ra đời BỘ LUẬN TẠNG hoàn chỉnh kho tàng kinh điển. Thành lập
nhiều tăng đoàn để truyền bá phật giáo khắp Ấn Độ và nước ngoài như Srilanka, Miến
Điện, Thái Lan, Indo tuyên bố phật giáo là quốc giáo được Nhà nước ủng hộ, là thời kỳ
phát triển rực rở nhất.
- HN lần IV: vào năm 100 (TK I – TK II) dưới sự bảo trợ của vua KANISHA, vương
quốc KUSHAN. Bổ sung hoàn chỉnh kho tàng kinh điển, khắc vào bảng đồng để lưu giữ
(300.000 bảng đồng được khắc trong 12 năm).
Kết luận:
- Phật giáo từ 1 tôn giáo địa phương, nhưng đến đầu công nguyên trở đi đặc biệt là sau
ĐH kết tập lần 4, Phật giáo đã được truyền bá sang các nước phía Đông và Tây Ấn Độ và
trở thành 1 tôn giáo thế giới.
- Trong ĐH 4 này bắt đầu xuất hiện giáo lý cải cách (về sau gọi là Phật giáo Đại thừa).
Sự phân hoá trong đội ngũ phật giáo chia thành 2 phái: Đại thừa (phái bắc tông) và tiểu

thừa (phái nam tông).
Giống: về mặt tôn chỉ và mục đích.
Khác: về phương pháp và phương tiện để đạt đến.
+ Tiểu thừa à chủ trương quay vào trung thành với những ý nghĩa ban đầu của phật giáo
(phật giáo nguyên thủy) tức tu luyện và giải thoát theo từng quy mô nhỏ mang tính cá
nhân và tư phát.
+ Đại thừa à chủ trương mở rộng giáo lý trong nhiều bộ kinh khác nhau, giải thoát đông
đảo nhiều người. Từ đó tôn vinh phật thích ca trở thành giáo chủ của phật giáo và tạc
tượng để thờ, xây dựng chùa chiền. Bồ tát là những người tu thành phật tự nguyện giúp
đỡ chúng sinh.
Vậy sau thời kỳ phát triển rất thịnh đạt khoảng 1000 năm (TK 5 TCN – TK 5 Sau CN)
phật giáo ở Ấn Độ bắt đầu có những biểu hiện suy thoái, giáo lý của phật ngày càng trở
nên uyên thâm, khó hiểu vượt quá sự hiểu biết của quần chúng à Phật giáo ngày càng bị
thu hẹp trước sự phát triển của Thiên chúa giáo và Hồi giáo.
5. VM TRUNG QUỐC (CHỮ VIẾT TƯ TƯỞNG)
- Theo truyền thuyết, chữ viết Trung Hoa xuất hiện từ thời kỳ Hoàng đế cách nay 5.000
năm à nếu có thì đây chỉ là loại văn tự kết thừng (thắt nút). Vì các tù trưởng đeo sợi dây
thừng ngang lưng. Khi sự việc nào quan trọng à nút lớn, ít quan trọng à nút nhỏ. Đây là
phương thức để ghi nhớ các sự việc trong buổi đầu của thời đại văn minh.
- Chữ viết xuất hiện thực sự từ thời kỳ nhà Thương TK 17 TCN à văn tự giáp cốt.
+ Giáp văn: văn tự viết trên mai rùa.
+ Cốt văn: viết trên xương thú, chủ yếu là xương bò.
Thời kỳ nhà Thương quan niệm có thượng đế quyết định mọi việc dưới trần gian, nên khi
làm việc gì đều hỏi ý kiến thần linh, thượng đế. Dùng mai rùa nung nóng trên lửa, có vết
nứt à đoán chữ và khắc lên. Cốt văn cũng vậy, toàn bộ có 5.000 ký hiệu khác nhau, diễn
đạt những đoạn văn tương đối dài, có bản hơn 100 chữ. Về bản chất văn tự này là chữ
tượng hình.
Thời kỳ Tây Chu: áp dụng chế độ tông pháp mang đất đai, nô lệ, của cải cho người nhà,
thường cho đúc chuông và đỉnh bằng đồng trên đó khắc ký hiệu để ghi nhớ sự việc ấy,
gọi là Chung đỉnh văn (nhưng vì đều bằng kim loại nên còn gọi là Kim văn).

+ Còn có văn tự khắc trên đá (Thạch cổ văn).
à Về cơ bản vẫn là chữ tượng hình, nhưng cách viết đơn giản hơn và chữ viết ngay ngắn
hơn và số lượng chữ nhiều hơn.
Thời kỳ Xuân Thu (770 TCN - 475 TCN) chữ viết Trung Hoa ngày càng phát triển và các
chữ viết đều được ghi trong 1 khung hình vuông nhất định à gọi là Tiểu triện à về bản
chất vẫn là chữ tượng hình nhưng viết ngay ngắn hơn, đẹp hơn và được viết theo một trật
tự nhất định.
Kết luận: Chữ Giáp cốt, Kim văn và Tiểu triện là những chặn đường phát triển đầu tiên
nhưng rất quan trọng và cơ bản của chữ Hán sau này. à Như vậy đến nay chữ viết Trung
Hoa đã tồn tại hơn 3.000 năm, số lượng chữ viết ngày càng tăng, cách viết đơn giản hơn,
bớt đi nhiều nét so với trước đó.Trong thời gian qua chính phủ Trung Quốc nhiều lần cải
tiến chữ viết nhưng kết quả rất hạn chế, chỉ giới hạn ở một số biện pháp nhất định về hình
thức chứ không hề đề cập đến bản chất và kết cấu chữ viết.
Ý nghĩa: do có chữ viết từ rất sớm mà người Trung Hoa cổ đại để lại một di sản văn hoá
vô cùng phong phú và được sử dụng liên tục từ 3.000 năm nay.
6. VM HI LẠP (KHTN, CHỮ VIẾT)
1. Chữ viết:
Ở Hy Lạp các nhà khoa học cho rằng chữ viết được hình thành TK 2 TCN và sau đó
người ta tìm thấy một dạng chữ viết thứ 2 có niên đại khoảng 1.700 à 1.200 TCN. Loại
thứ 2 được chia làm 2 loại:
- Loại A có niên đại từ 1.700 à 1.400 TCN: chưa giải mã được.
- Loại B có niên đại từ 1.400 à 1.200 TCN: đã được giải mã vào năm 1952 do nhà sử học
người Anh.
Sau khi nền văn minh CRÉT MYXEN chấm dứt thì ở Hy Lạp người ta không tìm thấy
chữ viết. Cho đến TK 8 TCN, chữ viết lại bắt đầu xuất hiện ở Hy Lạp với sự tiếp thu và
kế thừa hệ thống chữ cái của người PHÊNÊXI có khoảng 40 chữ cái. Qua quá trình sáng
tạo còn 27 chữ cái, sau còn 24 chữ cái.
Sau khi tiếp thu hệ thống chữ cái của người PHÊNÊXI, người Hy Lạp đã cải tiến và sáng
tạo giảm số lượng chữ cái từ 27 xuống còn 24 gồm 18 phụ âm và 06 nguyên âm. Năm
403 TCN dưới thời của PERICLÉT, ông đã quyết định thống nhất chữ viết từ trái sang

phải, từ trên xuống dưới, hệ thống chữ cái của người Hy Lạp được xem là loại chữ đẹp
nhất thế giới, bởi sự cân đối hài hoà, đây là đặc điểm của kiến trúc Hy Lạp sau này.
2. Khoa học tự nhiên:
Được coi là quê hương của nhiểu lĩnh vực khoa học khác nhau thuộc khoa học tự nhiên:
toán, lý, hóa, y học, sinh học ….Là nơi sản sinh ra rất nhiều nhà khoa học khổng lồ để lại
nhiều thành tựu lớn lao vĩ đại trong kho tàng khoa học của nhân loại, đặc biệt là các lĩnh
vực toán học, vật lý học, y học, thiên văn…
- Người đầu tiên là ông THALES ( talét ) đã phát minh ra nhiều định lý. Ông là người
đầu tiên chứng minh hai góc đáy của tam giác cân bằng nhau, người đầu tiên đo được
chiều cao của Kim Tự Tháp và ông đã phát minh ra tỷ lệ thức triết học, địa lý học và ông
đã tính được ngày xảy ra nhật thực ở nước Hy lạp
- Ông PITAGORE (sinh 580 - mất 500 TCN) là nhà toán học nỗi tiếng của Hy lạp cổ đại
là người đem lại nhiều biến đổi cho nền toán học. Định luật nỗi tiếng mang tên ông về
quan hệ giữa 3 cạnh tam giác vuông. Ông xác định trái đất hình cầu và chuyển động theo
quỹ đạo nhất định, đặc biệt ông được coi là nhà khoa học về những con số
- Ông ACSIMÉT (sinh 28 -mất 212 TCN) thành tựu của ông rất to lớn trong lĩnh vực
toán học và cơ học và đặc biệt là ông biết ứng dụng những phát minh của mình vào cuộc
sống , góp phần giải phóng sức lao động của con người. Ông là tác giả của định luật nổi
tiếng mang tên ông về sức đẩy của nước và tính trọng lượng của vật ngâm trong nước.
Ngoài ra, ông còn là người phát minh ra đòn bẫy, ròng rọc, máy bơm nước, công thức
tính diện tích hình nón, hình cầu, và cả số ( ∏ ).
- ƠCLÍT củng là nhà tốn học Hy lạp, ơng sống ở thế kỷ 3 TCN, ơng đã để lại nhiều cơng
trình nghiên cứu đồ sộ và tiêu biểu là bộ sách cơ bản gồm 13 cuốn chủ yếu về nội dung
hình học phẳng và khơng gian. Phần lớn chương trình tốn phổ thơng hiện nay sử dụng 6
cuốn của bộ này và viết sách giáo khoa cho chưong trình học phổ thơng.
- ÊRATOXTEN đây là nhà khoa học tài năng ở nhiều lĩnh vực, thiên văn, vật lý, sử học.
Đặc biệt ơng đã tính được độ dài của chu vi trái đất là: 39.700km và vẽ được bản đồ thế
giới theo quan điểm tiểu thuyết lúc bấy giờ nhưng ngày nay khơng sử dụng được
7. VM LA MÃ: KITO GIÁO_ NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH
Tiền đề hình thành:

- Về mặt xã hội:
Năm 63 TCN, tại vùng đất Palestin, nơi người Do Thái sinh sống đã xảy ra
một cuộc nội chiến. Một trong những bên tham chiến đã cầu viện La Mã.
Pompei – người La Mã - đã đem quân chinh phục vùng đất này, áp đặt chế
độ cai trò và bóc lột hết sức hà khắc với cư dân ở đây (trực tiếp cai trò
hoặc chỉ đònh hoàng tử người Palestin cai trò theo chủ trương và phục vụ
quyền lợi của người La Mã). Nhiều cuộc khởi nghóa đã nổ ra chống lại sự
thống trò và bóc lột của nhà nước và chủ nô La Mã đặc biết là người
Zealot nhưng đều lần lượt thất bại và bò đàn áp hết sức dã man. Dưới ách
cai trò của La Mã, cư dân ở đây phải sống cuộc sống hết sức cực khổ va bất
cơng. Vì vậy,nô lệ và dân nghèo bắt đầu chán nản, tuyệt vọng va họ tìm vào
một sự giải thoát, trông chờ vào sự cứu giúp của một lực lượng siêu
nhiên có thể giúp họ thoát khỏi ách thống trò của chủ nô La Mã, xây
dựng một vương quốc công bằng, bình đẳng.
- Về tôn giáo:
Vùng đất Palestin là vùng đất sinh sống chủ yếu của người Do Thái, một
tộc người chòu nhiều bất hạnh trong lòch sử của mình. Tổ tiên của họ là
người Hebre, một tộc người sống du mục nay đây mai đó. Khoảng giữa thế
kỷ XIII TCN, dưới sự dẫn dắt của Moises người Do Thái đã từ Ai Cập trở
về Palestin và sau đó đã lập nên quốc gia Do Thái (cuối thiên niên kỷ II
TCN). Từ đó, người Do Thái đã tin và đi theo một tôn giáo nhất thần - thờ
vò thần duy nhất đó là Chúa Giêhôva, với sự truyền giáo của Moises. Họ
tin rằng, dân tộc Do thái là dân được Chúa trọn, Chúa chỉ nói chuyện với
người Do Thái, thông qua Sứ giả của Người là Moises. Năm 586, quốc gia Do
thái bò đế quốc Tân Babilon cai trò, nền độc lập của quốc gia này đã không
còn tồn tại trong một thời gian dài sau đó.
Trong bối cảnh như vậy, các nhà tiên tri Do Thái giáo đã dự đoán và tuyên
truyền rằng sẽ có một vò Chúa Cứu Thế sắp xuống trần gian để cứu vớt
loài người, tiêu diệt kẻ xấu, giải thoát những đau khổ của con người, giải
cứu khỏi kiếp nô lệ trầm luân.

- Về tư tưởng triết học:
Từ giữa thế kỷ I TCN trở đi, nhà nước La Mã đã chuyển dần từ hưng thònh
sang suy thoái. Giai cấp chủ nô muốn lợi dụng tôn giáo để duy trì trật tự xã
hội. Do vậy triết học La Mã chuyển dần sang duy tâm, quay về với trường
phái triết học khắc kỷ - Stoicism đựoc hinh thành ở Hy Lạp khoảng cuối thế
kỷ IV TCN. Tiêu biểu cho trường phái này ở La Mã là các tư tưởng của
Seneque và Philo.
+ Seneque: (cuối thế kỷ I TCN - đầu TK I s.CN): ông muốn thiết lập một hệ
thống luân lý dựa trên nguyên tắc khiêm nhường và nhẫn nhục. Ông cho
rằng thể xác là gánh nặng của linh hồn, là sự trừng phạt đối với linh hồn.
Cuộc sống trần gian chỉ là khúc dạo đầu cho thế giới bên kia của linh hồn -
thế giới con người sau khi chết. Cái thế giới bên kia, nô lệ - nghèo khó,
giàu có - quý tộc đều có thể đạt được như nhau, nếu con người biết nhẫn
nhục, nhường nhòn, chòu đựng gian khổ, lấy sự phục tùng làm đức tính tốt
đẹp nhất của con người.
+ Philo: (nửa đầu thế kỷ I s.CN): thế giới vật chất, trong đó có cả con
người là can nguyên của tội lỗi. Giữa thể xác và linh hồn có một vực
thẳm không thể đến với nhau được và trung gian của vực thẳm đó là cái
mà ông gọi là Thiên Đạo - Đấng Cứu Thế. Con người muốn được giải
thoát chi cần có niềm tin và một cuộc sống đạo đức.
8. VĂN MINH TÂY ÂU TRUNG ĐẠI: TỰ CHUẨN BỊ. CÁC CUỘC PHÁP KIẾN
ĐỊA LÝ, HỆ QUẢ
1. Bồ Đào Nha:
- Thành lập trường hàng hải, thiên văn, đòa lí (hoàng tử Henri)
- Tiến hành nhiều cuộc thám hiểm, dần tìm ra Ghine, Công Gô, Nam Phi-mũi
Hảo Vọng.
- Vascô đơ Gama: đỉnh cao các cuộc thám hiểm Bồ Đào Nha: năm 1497
xuất phát từ Lixbon bò bão thổi tới Braxin sau đó đến Hảo Vọng và ra Ấn
Độ Dương tới Môzămbich. Năm 1498 lạc đến bờ biển Ấn Độ, họ phải chiến
đấu rất ác liệt. Sau đó quay về Bồ Đào Nha 18-9-1499 với hàng hoá gấp 60

lần chi phí cho chuyến đi. Từ đó giữ độc quyền con đường đến Ấn Độ
Dương trong gần 1 thế kỉ song song với tổ chức nhiều cuộc hàng hải mới.
Năm 1517 đến Trung Quốc, 1542 đến Nhật Bản.
2. Tây Ban Nha:
Mục tiêu đi về phía tây (Bồ Đào Nha đi về phía nam) vì cho rằng giả thuyết
của quả đất hình cầu.
- Critstốp Côlômbô: sinh giữa thế kỉ XV đến Bồ Đào Nha 1476 với tư
cách là một nhà buôn. 1485 chuyển sang Tây Ban Nha vì không được quốc
vương Bồ Đào Nha chấp nhận kế hoạch thám hiểm của ông. Nhà vua Tây
Ban Nha đồng ý cho tổ chức cuộc thám hiểnsang phương đông, ông chòu 1/8
kinh phí và hưởng 1/10 số của cải thu được từ chuyến đi.
Ngày 3-9-1942 xuất phát từ cảng Palốtđi về phía tây, ngày 12-10 đến một
hòn đảo thuộc châu Mó - quần đảo Bahama.
28-10-1492 đến Cuba thuộc quần đảo Bahama, đảo Haiti và tìm thấy nhiều
vàng hơn các đảo khác.
bốn-1-1493 lân đường trở về đến ngày 15-3-1493 cấp cảng Palốt.
Vùng đất ông tìm ông cho là đông châu Á, chủ yếu thuộc Ấn Độ nên
ông gọi thổ dân là người Ấn. Côlômbô được phong thượng tướng hải
quân và tổng đốc Ấn Độ.
Tiếp sau đó là cuộc thám hiểm lần hai (1493-1496) khám phá nhiều đảo
khác: Puêtôricô, Jamaica…
Lần ba (1498-1500): Triniđát và lục đòa Nam Mỹ và vẫn cho là một phần
của lục đòa châu Á.
Lần bốn (1502-1504): Hônđurát, Nicaragoa, Côtxtarica, Panama và vònh Đarien
và phát hiện rằng không có eo biển sang Ấn Độ dương.
Ông chán nản quay về Tây Ban Nha ngày 7/10/1504 và 20/5/1506 ông chết
trong cảnh nghèo đói mà chưa ai biết hết công lao của ông.
Sau Amerigô Vexpuxi (ý) bốn lần thám hiểm châu mỹ và ông cho rằng đó
là lục đòa mới đến năm 1520 tất cả các bản đồ thế giới đều sử dụng đòa
danh America để chỉ châu Mỹ.

- Magienlăng:
Trước Magienlăng có Banboa vào năm 1513 xuyên qua châu mỹ và xuyên
qua eo Panama. Từ trên một đỉnh núi, Banboa nhìn thấy Thái Bình Dương ông
gọi là Nam Hải, nhưng bò nghi ngờ là phản vua Tây Ban Nha xử tử.
Magienlăng người Bồ Đào Nha bò ảnh hưởng bởi phát hiện của Banboa và
cho rằng vòng qua cực nam châu Mỹ có thể vào được Thái Bình dương. Quốc
vương Bồ Đào Nha không chấp thuận đến 1517 ông sang Tây Ban Nha và gia
nhập "hội đồng Ấn Độ" và viết cuốn "Đông Ấn Độ phong thổ kí" (ông
đã từng đến Ấn Độ khi ở Bồ Đào Nha)
Tổng cộng: 5 thuyền và 265/239 người rời Tây Ban Nha ngày 20/9/1519 đến
đảo Cana và Braxin; 11/1519 đến nam Mỹ
28/11/1520 đến được Thái Bình Dương
16/3/1521 tới quần đảo Philippin
27/bốn/1521 Magienlăng bò chết do đụng độ với thổ dân .
Encanô lên thay tiếp tục đến Malaysia và Timor, đến sáu/9/1522 chỉ còn một
thuyền và 18 người về đến Tây Ban Nha.
Chứng minh một cách thuyết phục nhất quả đất hình cầu và biến những gì
mà hàng trăm thế hệ trước coi như giấc mơ thành hiện thực .
3. Hậu quả kinh tế:
Không chỉ đối với người Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, ý mà toàn châu u,
trên nhiều lónh vực
+ Mở rộng phạm vi buôn bán thế giới từ đó phát triển nhanh thương nghiệp
và công nghiệp, tìm nhiều đường sang phương đông vốn trước kia phải theo
trung gian là người Arập. Phạm vi tăng 5 lần. Từ đó tư bản châu u có lónh
vực đòa bàn rộng lớn.
+ Số lượng hàng hoá trao đổi buôn bán phong phú: thuốc lá, Ca cao, cà phê,
chè, lá, đường cát và nhiều hàng hoá khác.
Các thành phố của Italia sa sút dần, trái lại thành thò Tây Ban Nha và Bồ
Đào Nha đặc biệt là Hà Lan trở nên phồn vinh chưa từng thấy
+ "Cách mạng giá cả":

Tây Ban Nha chiếm được nhiều vàng từ cướp bóc và chiếm đoạt ở châu
Mỹ. Vàng được tung ra mua hàng hoá khiến giá tăng cao.
Anh, Pháp, Đức giá tăng 2-2,5 lần.
Tây Ban Nha tăng 4-5 lần
Từ đó có lợi cho thương nhân và nhà sản xuất song nhân dân bò bần cùng
hoá nhanh chóng.
Đã kích thích quá trình tích luỹ tư bản ban đầu thúc đẩy sự phát triển sản
xuất
Những phát kiến đòa lí về mặt khách quan là sự cống hiến rất quan trọng cho
sự phát triển của khoa học. Đem lại nhiều kiến thức về đòa lí, thiên văn, kó
thuật và kinh nghiệm hàng hải, mở ra phạm vi rộng lớn cho sự phát triển và
nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác nhau: ngôn ngữ học, đòa chất
học, sinh vật học… Từ đó hình thành chủ nghóa thực dân: tìm đất mới ở
bắc, trung mỹ, Phi, Á và toàn châu Mỹ. Khai thác bằng mọi thủ đoạn tàn
bạo tài nguyên, của cải, đàn áp các dân tộc thuộc đòa.
9. NỘI DUNG TU TƯỞNG VĂN HĨA PHỤC HƯNG
Qua các tác phẩm của mình, các nhà văn hố thời Phục hưng đã thể hiện những tư tưởng
chính sau:
• Chống lại những quan niệm khơng hợp thời của giáo hội lúc bấy giờ cùng tầng lớp q
tộc phong kiến. Nhiều tác phẩm văn hố đã cơng khai đả kích, châm biếm thói đạo đức
giả, dốt nát của tầng lớp q tộc, phong kiến. Các nhà văn hố thời Phục hưng đấu tranh
đòi văn hố phải khơng bị kiểm sốt bởi nhà thờ.
• Nhiều tác phẩm cơng khai ca ngợi quyền được sống tự do phóng khống, quyền được
hưởng thụ. Họ chủ trương văn hố phát triển phải lấy mục đích vì hạnh phúc con người;
đối tượng ca ngợi phải là con người Có thể nói tư tưởng chủ đạo là chủ nghĩa nhân văn
• Phong trào Văn hố Phục hưng còn ca ngợi tình u tổ quốc, tinh thần dân tộc và ý thức
các tác phẩm văn hố phải hướng về phục vụ tầng lớp bình dân. Vì vậy khơng còn sử
dụng chữ Latin mà sử dụng chữ viết riêng của mỗi dân tộc.
• Nhiều nhà văn hố thời Phục hưng đã dũng cảm chống lại những quan điểm phản khoa
học của những thế lực cầm quyền đương thời, bất chấp sự đe doạ của những hình phạt, kể

cả dàn thiêu. Các tác phẩm của họ đã giáng những đòn quyết liệt vào triết học kinh viện
và chủ nghĩa duy tâm đương thời, làm lung lay quyền uy của các tăng lữ.
• Phong trào Văn hố Phục hưng là tấm gương phản chiếu sức sống mãnh liệt của xã hội
phương Tây lúc đó và đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ.
Câu 1: Khái niệm lịch sử
Lịch sử là những gì xẩy ra trong q khứ của con người. Là một ngành khoa học thuộc
nhóm các ngành khoa học nhân văn, có đối tượng nghiên cứu là q khứ của con người
và xã hội lồi người kể từ khi con người xuất hiện cho đến nay, từ đó phát hiện ra quy
luật phát sinh và phát triển của lịch sử xã hội lồi người. (lồi người xuất hiện cách đây
khoảng 3.5 triệu năm)
Câu 2: Khái niệm văn hóa – văn minh
a. Văn hóa: Văn hóa là tổng thể những giá trị được thể hiện cả hai mặt vật chất và tinh
thần do con người và xã hội lồi người sáng tạo ra kể từ khi con người xuất hiện cho đến
nay.
- Văn hóa là khái niệm vơ cùng phức tạp.
- Văn hóa mang tính bền vững, khó thay đổi, nói gắn liền với dân tộc
- Văn hóa được hình thành đầu tiên ở xã hội Phương Đơng nơng nghiệp
- Văn hóa phát triển đến một trình độ nào đó thì trở thành văn minh
b. Văn minh: Văn minh là giai đoạn phát triển cao của văn hóa, là một trạng thái tiến bộ
được thể hiện ở hai mặt vật chất và tinh thần được con người và xã hội loài người sáng
tạo ra trong giai đoạn phát triển cao của xã hội.
- Văn minh có tính siêu dân tộc (quốc tế)
- Những thành tựu văn minh xuất hiện ở xã hội Phương Tây đô thị.
- Văn hóa có trước văn minh (loài người xuất hiện thì văn hóa cũng xuất hiện ). Tuy
nhiên, có những thành tựu văn hóa có giá trị nhưng không tiến bộ, còn các giá trị văn
minh đều mang tinh chất tiến bộ ở đỉnh cao.
- Văn minh có nghĩa hẹp nhưng mang tính chất đỉnh cao.
Câu 3: Khái niệm Phương Đông – Phương Tây
Phương Đông và Phương Tây là những khái niệm thuộc về nhận thức của con người. Ban
đầu, các khái niệm này đơn thuần dùng để chỉ phương hướng, nhưng về sau nó gắn liền

với yếu tố lịch sử và có tính chính trị. Vì thế, ranh giới giữa Phương Đông và Phương
Tây chỉ mang tính quy ước, tương đối.
Là quy ước do người Phương Tây đặt ra (Theo quan điểm lấy châu Âu làm trung tâm thế
giới) quan điểm này xuất phát từ Hy Lạp, một quốc gia nằm ở phía nam châu Âu, thuộc
khu vực Địa Trung Hải, khối cư dân ở đây gọi khu vực phía Tây của họ là Phương Tây
còn các vùng đất còn lại (bao gồm khu vực phía đông Địa Trung Hải và cả Đông Bắc
Phi) là Phương Đông. Từ quan niệm này sau đó đã xuất hiện các khái niệm Cận Đông,
Trung Đông, và Viễn Đông.Tuy nhiên, trong tiến trình lịch sử, khái niệm Phương Đông
và Phương Tây lại được hiểu một cách linh hoạt dựa trên các tiêu chí khác nhau như thời
gian hình thành, nhân chủng, văn hóa, kinh tế, chính trị, địa lý.
Văn minh Phương Đông xuất hiện từ cuối thiên niên kỷ IV TCN đến cuối thiên niên kỷ
III TCN
Văn minh Phương Tây xuất hiện khỏan đầu thiên niên kỷ I TCN.
Câu 4: Cơ sở hình thành văn minh Phương Đông cổ đại
1. Điều kiện tự nhiên
v Các nền văn minh Phương Đông cổ đại bao gồm các nền văn minh thuộc khu vực Đông
Bắc châu Phi và châu Á. Đặc điểm của các nền văn minh Phương Đông cổ đại là đều
hình thành trên lưu vực của các con sông.
- Văn minh Ai Cập: hình thành trên lưu vực của sông Nile (hình thành vùng đồng bằng
thượng Ai Cập và hạ Ai Cập). Nằm ở Đông Bắc châu Phi nối với châu Á bằng một eo đất
nhỏ hẹp – eo Xinai.
- Văn minh Lưỡng Hà: Nằm giữa sông S.Tigris và Euphrates nằm ở khu vực Trung Đông
gần vịnh Ba Tư, gồm phần lớn của lãnh thổ Irap và Iran ngày nay.
- Văn minh Ấn Độ: Hình thành trên lưu vực sông Ấn sau đó là sông Hằng
- Văn minh Trung Hoa: Hình thành ở khu vực đồng bằng Hoàng Hà, sau đó mở rộng
xuống khu vực Trường Giang.
v Sông giữ vai trò quan trọng trong đời sống hàng ngày của người dân Phương Đông bởi
vì:
- Nguồn phù sa đem lại sự màu mỡ cho đất đai, thuận lợi cho việc trồng các loại cây
lương thực.

- Là nguồn nước sinh hoạt cho con người và là nguồn nước tưới tiêu cho cây trồng gần
như là duy nhất.
- Đường giao thông chính, tương đối thuận lợi
- Cung cấp cho con người lượng thủy sản phong phú, dồi dào
- Các con sống ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị, xã hội,
phong tục tập quán, văn học, ngôn ngữ… của khối dân cư sống quanh nó. Nên văn minh
Phương Đông là nền văn minh sông nước.
v Các nền văn minh Phương Đông thời cổ đại đều hình thành trên các đồng bằng phù sa,
đất đai màu mỡ, mềm, mịn, tơi xốp nên nghề nông phát triển nhanh chóng, sản xuất nông
nghiệp đã tạo ra sản phẩm thừa và làm xuất hiện tư hữu, từ đó hình thành giai cấp và nhà
nước xuất hiện sớm. Vì thế văn minh Phương Đông còn được gọi là văn minh nông
nghiệp.
v Ở buổi đầu hầu hết các nền văn minh Phương Đông đều tồn tại một cách biệt lập, khép
kín (ngọai trừ nền văn minh Lưỡng Hà) đặc điểm này là do vị trí địa lý và địa hình tự
nhiên. Sự biệt lập khép kín đã dẫn đến những hệ quả khác nhau:
- Giữ được bản sắc riêng biệt
- Chế độ chính trị ổn định lâu dài
- Tính cố kết cộng đồng
Nhưng nó cũng để lại hậu quả
- Ít có sự tiếp xúc với bên ngoài
- Chế độ chuyên chế tồn tại lâu dài, dai dẳng, tín ngưỡng và tôn giáo phát triển mạnh ảnh
hưởng chi phối nhiều mặt tới đời sống xã hội, kìm hãm sự phát triển, làm cho xã hội trì
trệ, bảo thủ, lạc hậu.
- Tâm lý sống thụ động, khép kín, sợ tiếp xúc cái mới.
v Khoáng sản: Các mỏ khoáng sản (lộ thiên) rất ít. Do vậy công cụ lao động vũ khí còn
thô sơ lạc hậu, chủ yếu được làm từ gỗ, đá, tiến bộ nhất là bằng đồng vì thế gọi văn minh
Phương Đông là văn minh đồ đồng.
v Khí hậu nhiệt đới: (nhiệt đới sa mạc và nhiệt đới gió mùa) thảm thực vật phong phú
thuận lợi cho việc trồng cây lương thực. Tuy nhiên, người dân Phương Đông hàng năm
phải chống chọi với nhiều thiên tai. Cuộc đấu tranh với thiên nhiên trở thành vấn đề

thường xuyên, liên tục và hao tốn nhiều sức người, sức của.
2. Cư dân
v Ai Cập: Cư dân bản địa là người Negroit, thổ dân châu Phi, đến khoảng 4.000 tr.CN
một nhánh người Hamites ở Tây Á sang định cư ở đồng bằng sông Nile. Và hai cộng
đồng người này tự nhận mình là con cháu của thần Osiris và được gọi là Egypt – người
Ai Cập.
v Ấn Độ: Chủ nhân của nền văn minh sông Hằng là người Aryan sống du mục có nguồn
gốc từ vùng thảo nguyên Trung Á thiên di xuống Ấn Độ. Khoảng giữa thiên niên kỷ II
tr.CN có ý kiến cho rằng họ đã chinh phục người Dravida, tàn phá nền văn minh sông
Ấn, sau đó xây dựng nền văn minh sông Hằng.
Ngòai ra Ấn Độ còn nhiều tộc người khác đến định cư và sinh sống như người Hi Lạp,
Mông Cổ, Ả Rập.
v Trung Hoa
Khối dân cư đầu tiên cư trú vùng đồng bằng Hoa Bắc (lưu vực Hoàng Hà) là người Hoa
Hạ, họ gọi các dân cư cư trú ở khu vực phía Bắc, Tây, Nam và Đông là người Địch,
Nhung, Man, Di. Cúôi thiên niên kỷ II tr.CN họ chinh phục người Địch và Nhung ở phía
Bắc và Tây.
Sau đó họ tiến xuống phía Nam chinh phục và đồng hóa khối dân cư Bách Việt ở khu vực
Trường Giang, đến thời nhà Tần các khối dân cư này được gọi chung là người Hán – chủ
nhân của nền văn minh Trung Hoa.
v Lưỡng Hà: đầu tiên là Sumer sau đó Akkad, Guti, Amorite, Chandec, người
Assyria, người Elam
v Ả Rập: người Bedawi phía Bắc, người Semite, người do thái
3. Kinh tế
Kinh tế các quốc gia Phương Đông thời cổ đại là nền kinh tế tự nhiên mang tính tự cung
tự cấp, chế độ tư hữu ruộng đất diễn ra yếu ớt, trình độ sản xuất xã hội hết sức thấp kém,
các quá trình phân công lao động hầu như chưa diễn ra.
Lực lượng lao động sản xuất chính là tầng lớp tự do, những nông dân trong các công xã,
những sản phẩm tạo ra phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của chính họ.
a. Nông nghiệp:

Là ngành kinh tế chủ đạo, chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi trong đó trồng trọt là chính
chăn nuôi phụ.
Trồng trọt: canh tác chủ yếu trên loại đất phù sa trên danh nghĩa là đất thuộc sở hữu một
người (vua) nhưng trên thực tế diện tích đất thuộc các bộ máy công xã quản lý luôn phiên
cho các thành viên. Người dân cuối mùa nộp lại cho nhà nước một phần làm ra (gọi là
nộp tô., lúc đầu tô sản vật sau đó tiền, sau đó thuế)
Đất đại được chia nhỏ lẽ. quy mô canh tác nhỏ, xuất hiện mô hình các đại điền trang.
Do ảnh hưởng điều kiện tự nhiên hầu hết cư dân Phương Đông thời cổ đại chỉ canh tác
một năm một mùa vụ chính vì thế lượng sản phẩm xã hội làm ra không nhiều, chủ yếu
phục vụ cho nhu cầu của con người.
Các sản phẩm trồng trọt chính: Đầu tiên là các loại lúa, các loại rau, các lọai cây ăn quả,
cây công nghiệp.
Do tư tưởng bình quân dẫn đến tư tưởng cào bằng nên quy mô canh tác nhỏ
Chăn nuôi: tiến hành theo mô hình cá thể có chuồng trại, quy mô nhỏ, được tiến hành
theo từng hộ gia đình, mục đích sử dụng làm sức kéo, cải thiện bữa ăn hàng ngày.
Các vật nuôi chủ yếu: trâu, bò, dê, ngựa. Sản lượng chăn nuôi ít dẫn đến người Phương
Đông ít ăn thit, các vật nuôi trở nên quý hiếm.
b. Thủ công nghiệp:
Mang tính cục bộ, riêng lẻ, không phải là ngành kinh tế chủ đạo. Phát triển trong phạm vi
hẹp trong các công xã, thị trường tiêu thụ nhỏ, phục vụ cho nhu cầu công xã, sự trao đổi
hàng hóa diễn ra ít, các sản phẩm công nghiệp sản xuất theo đơn đặt hàng và mang đậm
dấu ấn của các địa phương. Tuy nhiên, các ngành nghề tương đối phong phú và chất
lượng khá tinh xảo. Do quá trình sản xuất chủ yếu phục vụ cho nhu cầu trong công xã
nên lượng hàng hóa làm ra chưa nhiều, vì vậy sản phẩm thủ công nghiệp cũng trở thành
hàng hóa. Các ngành nghề cũng tương đối đa dạng như chế tác vũ khí, công cụ lao động,
sản xuất đồ gốm, gạch ngói, đồ trang sức, thủy tinh….
c. Thương nghiệp:
Nền kinh tế mang tính tự cung, tự cấp, sức sản xuất kém và mạng lượng giao thông chưa
phát triển nên thương nghiệp chưa thực sự hình thành, mang tính cục bộ, ít giao lưu, trao
đổi với bên ngoài. Phương thức chủ yếu là trao đổi hàng hóa.

Có thể nói kinh tế quốc gia Phương Đông thời cổ đại chưa phải là nền kinh tế hàng hóa,
lực lượng sản xuất chủ yếu là nông dân tự do (trong đó nông dân công xã giữ vai trò chủ
đạo) quá trình phân công lao động và chuyên môn hóa hầu như chưa diễn ra vì vậy chế
độ chiếm hữu nô lệ ở Phương Đông phát triển một cách không thuần thục mà điển hình là
các thành tựu văn minh thường không phát triển đến đỉnh cao và sớm bị lụi tàn.
4. Tổ chức nhà nước và kết cấu xã hội
a. Tổ chức nhà nước
Cơ cấu tổ chức: Đứng đầu nhà nước là một ông Vua, dưới Vua là bộ máy quan lại trung
ương (cồng kềnh, quan liêu) và cuối cùng là các hệ thống quan lại ở địa phương (quản lý
phân chia ruộng đất, thu thuế, hành chính…) Công cụ bảo vệ nhà nước và duy trì trật tự
xã hội là hệ thống nhà tù và lực lượng quân đội. Mối quan hệ chi phối chủ yếu giữa các
cơ quan này là tô thuế.
Chức năng nhà nước: Có 3 chức năng chính đó là thu thuế và cai trị dân chúng; thực hiện
công trình lớn (thủy lợi, kiến trúc…) và bảo vệ và mở rộng lãnh thổ.
Tính chất nhà nước: Các Nhà nước Phương đông cổ đại mang tính chất chuyên chế. Vua
nắm giữ quyền lực tối cao cả về vương quyền lẫn thần quyền, vua được thần thánh hóa
mang tính chất thế tục, đồng thời là người sở hữu tối cao toàn bộ ruộng đất; bộ máy quan
lại cồng kềnh, quan liêu. Tính chất này tồn tại lâu dài, chi phối nhiều mặt đến tiến trình
hình thành và phát triển của các nền văn minh Phương Đông
Nguyên nhân dẫn đến tính chuyên chế
- Điều kiện tự nhiên: Thuận lợi cho sự tồn tại của con người, từ sớm đây là nơi quần cư,
quần tụ đông đảo con người sinh sống cùng nhau khai thác thuận lợi của tự nhiên và con
người cho nên bị cai trị về số đông
- Công việc trị thủy: Đòi hỏi sự huy động lớn về người và của, cần có nhiều người xuất
hiện, vai trò của thủ lĩnh cộng đồng tự nguyện trao quyền, thủ lĩnh tiến hành luân phiên
giữa các bộ lạc.
- Thái độ khiếp sợ và thuần phục tự nhiên, thần thánh hóa tự nhiên, vua được thần thánh
hoá triệt để nhờ yếu tố tâm lý.
- Kẻ mạnh chinh phục kẻ yếu.
- Vũ khí công cụ thô sơ

b. Kết cấu xã hội:
Bao gồm hai giai cấp chính đó là giai cấp thống trị và giai cấp bị trị:
- Giai cấp thống trị bao gồm vua, tăng lữ, quan lại và quý tộc. Giai cấp này chiếm số
lượng ít nhưng lại sở hữu phần lớn tài sản và của cải trong xã hội. Các tầng lớp này kết
cấu với nhau nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc bóc lột sức lao động của giai cấp bị
trị thông qua chế độ tuô thuế, sưu dịch…
- Giai cấp bị trị bao gồm: Thợ thủ công, thương nhân, nông dân công và nô lệ.
· Nông dân công xã: Chiếm 80% dân số đây là lực lượng chính, đồng thời họ cũng là đối
tượng bị bóc lột chính. Do vậy, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa nông
dân công xã và giai cấp thống trị, mâu thuẫn này chi phối tạo ra động lực cho sự phát
triển xã hội. Đồng thời, họ cũng là những tầng lớp trực tiếp tạo ra quá trình sáng tạo nền
văn minh cổ đại.
· Nô lệ: Chiếm số lượng không nhiều, không phải là tầng lớp áp đảo trong xã hội, chủ
yếu là tù binh trong chiến tranh; nợ phải bán thân mình; phạm nhân bị giáng xuống làm
nô lệ; nô lệ mẹ đẻ ra nô lệ con. Khác với Phương Tây nô lệ Phương Đông làm nô dịch
trong các gia đình chủ nô hoặc trong các lĩnh vực sản xuất khác, hoạt động sản xuất có
nhưng không nhiều, cho nên chế độ nô lệ ở phương Đông được gọi là chế độ chiếm hữu
nô lệ không điển hình hay chế độ chiếm hữu nô lệ gia trưởng.
Câu 5: Cơ sở hình thành văn minh Phương Tây cổ đại
1. Điều kiện tự nhiên:
- Hy – La cổ đại là hai quốc gia thuộc khu vực Địa Trung Hải, nơi giao nhau của các
Châu Âu, Á và Phi. Đời sống và kinh tế của cư dân ở Hy-La gắn liền với biển – tính chất
văn minh biển.
- Có ba mặt tiếp giáp với biển tạo nên địa hình mở, tiếp cận được các yếu tố văn Phương
Đông nên mang tính chất văn minh mở.
- Khoáng sản: Phong phú, có nhiều mỏ quặng lộ thiên, làm xuất hiện khá sớm ngành khai
khoáng và luyện kim. Đất đai cứng nên chỉ khi đồ sắt ra đời thì nông nghiệp mới được
phát huy, khối dân cư ở đây mới có điều kiện phát triển, nhà nước mới bắt đầu xuất hiện
nên gọi là văn minh đồ sắt.
- Khí hậu: mang tính ôn đới

- Địa hình: Gồm nhiều lục địa và các hòn đảo lớn nhỏ nằm rải rác trên biển Địa Trung
Hải, ở Hy Lạp miền Bắc và miền Trung của Hy Lạp bị chia cắt bởi những dãy đồi hình
thành các quốc gia thành bang. Hy Lạp là nơi xuất hiện nền văn minh sớm nhất ở Phương
Tây.
2. Cư dân:
a. Hy Lạp:
Trước khi hình thành nhà nước Hy Lạp đã có cư dân sinh sống, đó là cư dân bản địa.
Ngay từ đầu họ đã trở thành một khối dân cư với nhau, họ cùng nói chung một thứ tiếng,
có chung một nền văn hóa. Sau đó Hy Lạp diễn ra một đợt thiên di kéo dài hơn 1.000
năm ghi nhận một số tộc người Dorien; Eolien; Eonien; Aclieens, những khối dân cư
định cư rải rác khắp các vùng đất của lãnh thổ Hy Lạp. Trong quá trình sinh sống họ bình
đẳng về mọi mặt. Đến đầu TNK I TCN tất cả các khối dân cư này đều nhận mình là con
cháu của thần Hellene và họ tự gọi mình là Hellas – là chủ nhân của nền văn minh Hy
Lạp.
b. La Mã
- Trước TNK III TCN tồn tại khối dân cư bản địa có tên gọi Ligures.
- Đầu TNK II TCN có đợt thiên di đến định cư tại bán đảo Ý.
- Khoảng thế kỷ X TCN người Etrusque từ Tiểu Á cũng thiên di đến bán đảo
- TKVIII TCN tòan bộ dân cư này nếu cư trú ở đồng bằng Latium thì gọi là người Latin.
- Từ đồng bằng Latin này thì một số người Latin rời bỏ Latium đến bờ sông Tibres họ
xây dựng thành Roma, Năm 753 TCN trở thành công dân La Mã.
3. Kinh tế:
Khác với Phương Đông nền kinh tế Hy-La mang tính chất hàng hóa cổ điển, trong đó
phát triển mạnh các lĩnh vực thủ công nghiệp, thương nghiệp. Chế độ tư hữu ruộng đất rõ
rệt, các quá trình phân công lao động xã hội hình thành, lực lượng sản xuất chính là nô lệ.
- Nông nghiệp: Trồng trọt và chăn nuôi đã tách thành hai ngành riêng biệt.
+ Trồng trọt: quy mô canh tác khá lớn. Đất Hy Lạp – La Mã không phù hợp trồng cây
lương thực. Sản phẩm chính là nho và ôliu, tạo nên nguyên liệu chính cho một số ngành
thủ công nghiệp.
+ Chăn nuôi: Tiến hành theo mô hình bầy đàn không chuồng trại. Sản phẩm chăn nuôi

khá cao, lượng sản phẩm phong phú, mọi sản phẩm thủ công nghiệp cũng được coi là
hàng hóa để trao đổi.
- Thủ công nghiệp: Đã tách khỏi nông nghiệp, phát triển khá đa dạng về ngành nghề với
quy mô lớn (khai khoáng mỏ). Là ngành chủ đạo của nền kinh tế.
- Thương nghiệp: Là ngành kinh tế chủ đạo, đặc biệt là mậu dịch hàng hóa, sớm mang
tính quốc tế. Sản phẩm bán: Rượu nho; dầu ôliu; kim loại; đồ gồm; vải Sản phẩm mua:
lương thực; giấy; hương liệu; gia vị; và đặc biệt là nô lệ.
Xuất hiện đồng tiền sớm và có thể sử dụng ở nhiều vùng đất khác. Điều này dẫn đến xuất
hiện một bộ phận chuyên làm nghề đổi tiền, chuyển tiền, nhận tiền, cho vay lấy lãi – hình
thành nên các ngân hàng cổ điển.
Nhìn chung, nền kinh tế Hy-La cổ đại khá phát triển. Lao động nô lệ làm cho quý tộc
thoát ly khỏi lao động chân tay và có điều kiện hoạt động và sáng tạo ra các thành tựu
văn minh rực rỡ của hai nền văn minh này.
4. Nhà nước và kết cấu xã hội
a. Nhà nước: Các nhà nước Hy-La hình thành trong khoảng nửa đầu thiên niên kỷ I
TCN, trên cơ sở tan rã của thị tộc và hầu như không có sự can thiệp của bạo lực.
Xuất hiện nhiều hình thức nhà nước khác nhau như thành bang; đế chế; cộng hòa; quân
chủ
b. Kết cấu xã hội:
Xã hội Hy-La cổ đại chia thành hai phần, đó là dân cư tự do và nô lệ. Dân tự do bao gồm
quan lại , chủ nô (giai cấp bóc lột), công dân (các tầng lớp này được nhà nước và pháp
luật bảo vệ) và bình dân. (không phải là bình dân nhưng cũng không phải là nô lệ).
Nô lệ chiếm số lượng đông nhưng không được thừa nhận về thân phận, nô lệ được xem là
tài sản của chủ nô “công cụ lao động biết đi, biết nói”. Mâu thuẫn cơ bản giữa chủ nô và
nô lệ.
Câu 6: Thành tựu chữ viết và Khoa học tự nhiên của Ai Cập
Ai Cập nằm ở Đông Bắc Châu Phi, hạ lưu sông Nin. Sông Nin là một con sông dài nhất
thế giới, khoảng 6500 km chảy từ Trung Phi lên Bắc Phi. Hàng năm, tới mùa mưa nước
sông Nin cuồn cuộn đỏ phù sa bồi đắp cho những cánh đồng ở hạ lưu sông Nin. Đất đai
màu mỡ, cây cỏ tốt tươi, các loài động thực vật phong phú, nên ngay từ thời nguyên thuỷ

con người đã tập trung sinh sống ở đây đông hơn các khu vực xung quanh.
Cách ngày nay khoảng 6000 năm, con người ở đây đã biết sử dụng những công cụ, vũ khí
bằng đồng. Công cụ bằng đồng giúp con người ở đây chuyển sang sống chủ yếu nhờ
nghề nông, thoát khỏi cuộc sống săn bắn, hái lượm và sớm bước vào xã hội văn minh
1. Chữ viết:
Chữ viết của Ai Cập cổ đại xuất hiện rất sớm là chữ viết đầu tiên của nhân loại, xuất phát
từ hai nguyên nhân: tôn giáo và nhu cầu tự sùng bái cá nhân.
- Chữ viết đầu tiên của người Ai Cập là chữ tượng hình: dùng hình vẽ khác nhau để diễn
đạt các thông tin trao đổi.
Hạn chế lớn nhất của chữ tượng hình là không diễn đạt được những thông tin mang tính
trừu tượng như trạng thái, cảm xúc
- Để khắc phụ hạn chế này, người Ai Cập đã tiến đến việc liên kết các hình vẽ lại với
nhau, giảm lược bớt những chi tiết thừa hoặc mượn đặc điểm của một vật nào đó để diễn
đạt một ý trọn vẹn hơn nên xuất hiện chữ chỉ ý.
- Tuy nhiên, chữ chỉ ý cũng chưa đủ để ghi mọi âm thanh do con người phát ra nên dần
dần xuất hiện những hình vẽ thể hiện âm tiết. Hình vẽ biểu thị một từ nhưng đồng âm với
âm tiết mà người ta muốn sử dụng nghĩa, gọi là chữ chỉ âm, đây là giai đoạn quá độ phát
triển thành giai đoạn chữ cái.
Trong nhận thức, trước hoàn cảnh lịch sử của Ai Cập không cho phép ký hiệu này thành
bảng chữ cái của người Ai Cập, không những thế hệ thống chữ viết tượng hình của người
Ai Cập hòan toàn biến mất trong 3 thế kỷ đầu sau CN.
Nhìn chung chữ viết Ai Cập thường được dùng trong các bộ binh, những lời giáo giảng
của tôn giáo nên còn có tên là thánh thi.
Hệ thống chữ tượng hình của người Ai Cập gần 1.000 ký tự và hơn 20 dấu chữ âm, đây là
loại chữ khó học, khó viết, khó nói, khó nhớ nên người dân ít sử dụng, chỉ có tầng lớp
tăng lữ và các viên thư lại cùng con em của họ mới có khả năng học và sử dụng.
Nguyên liệu viết của họ là giấy Papyrus, các bia đá, các bức tượng, các đền thờ, lăng mộ,
gốm, vải gai, da. Mực viết thì làm bằng bồ hống, bút viết là thân cây bồ hống
Năm 332 TCN Ai Cập trở thành một bộ phận của Hy Lạp, kể từ đó người Ai Cập đã tiếp
thu và sử dụng bảng chữ cái Alphabet của người Hy Lạp để ghi lại tiếng nói của mình,

hình thành chữ Copte. Sự thuận tiện, dễ đọc, dễ nói nên loại chữ này dần thay thế chữ
tượng hình trước kia. Chữ tượng hình của Ai Cập trở thành tử ngữ (không còn ai học và
sử dụng nữa)
* Khoa học tự nhiên:
1. Tóan học
Là một trong những thành tựu xuất hiện khá sớm bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và thực
tế cuộc sống của chính người Ai Cập. Tóan học Ai Cập ra đời từ rất sớm và phát triển
khá mạnh mẽ trong ba lĩnh vực: Số học; đại số và hình học
* Số học: Thành tựu đầu tiên là phép đếm theo cơ số 10, các chữ số cũng được dùng chữ
tượng hình để biểu thị và chưa tìm ra con số 0.
- Biết tính cộng trừ, nhưng phép nhân và chia được hiểu là công trừ liên tiếp
- Biết căn cứ khả năng nhân đôi của một số
- Căn cứ khả năng lấy 2/3 của một số
* Đại số: Biết giải phương trình 1 ẩn
Tìm ra cấp số cộng và cấp số nhân
* Hình học: Biết giải các bài toán tìm diện tích của hình vuông, hình chữ nhật, hình
thang….
Biết tính thể tích của hình lăng trụ, lập phương…
Tìm ra cấp số π = 3.16 và bước đầu biết đến tính chất đồng dạng
2. Thiên văn học
Là lĩnh vực rất được chú trọng, với những dụng cụ hết sức thô sơ, người Ai Cập theo dõi
sự lên xuống của mực nước sông Nile và quan sát bầu trời cả ngày lẫn đêm, thông qua đó
họ cũng xác định được bản đồ của 12 cung hoàng đạo vẽ được chòm sao Bắc cực và biết
đến hành tinh trong Thái Dương hệ.
Đặc biệt để có thể xác định thời gian ban ngày, người Ai Cập đã sáng tạo được cái để đo
thời gian ban ngày gọi là Nhật Khuê, giúp người Ai Cập biết được thời gian chính xác
hơn.
Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế khi trong thời gian ban đêm và trời mưa (không có nắng)
vì vậy vào ban đêm họ sử dụng dụng cụ để đo thời gian gọi là đồng hồ nước, nó khắc
phục hạn chế của Nhật Khuê. (người Trung Quốc là Trích lậu hộ).

3. Lịch pháp (sự ra đời của hệ thống lịch Ai Cập)
Là kết quả từ quá trình quan sát thiên văn qua quá trình quan sát bầu trời và mực nước
sông Nile họ phát hiện ra một mối quan hệ giữa mực nước sông Nile và sao Thiên Lang.
Một buổi sáng sớm một ngày mùa hè khi ngôi sao Thiên Lang xuất hiện ở đường chân
trời đó là thời điểm nước sông Nile lên cao, chu kỳ này của sao Thiên Lang là khoảng
365 lần mặt trời mọc xuất hiện.
Từ mối quan hệ trên người Ai Cập đã lấy 365 ngày tính làm thời gian cho 01 năm.
Dựa vào 12 tháng hoàng đạo, 1 năm được chia thành 12 tháng, mỗi tháng 60 ngày, còn
dư 5 ngày xếp vào cuối năm làm ngày lễ.
Họ chia 1 năm thành 3 mùa
- Mùa nước lên
- Mùa ngũ cốc
- Mùa thu hoạch
Lịch Ai Cập tương đối chính xác
Năm 45 TCN Julius Ceasae cho mời nhà thiên văn Sasigene từ Ai Cập về Roma để cải
cách lịch La Mã trên cơ sở lịch Ai Cập, hình thành lịch Julien
4. Y học
Thành tựu lớn nhất trong lĩnh vực y học là kỹ thuật ướp xác, ở Ai Cập cổ đại, việc ướp
xác khá phổ biến, xuất phát từ 2 nguyên nhân tín ngưỡng và điều kiện tự nhiên.
Câu 7: Thành tựu văn học (bộ kinh của tôn giáo) và tôn giáo của Ấn Độ
Bán đảo Ấn Độ thuộc Nam Á gần như hình tam giác. Ở phía bắc, bán đảo bị chắn bởi dãy
núi Hymalaya. Từ bên ngoài vào Ấn Độ rất khó khăn, chỉ có thể qua các con đèo nhỏ ở
tây-bắc Ấn. Đông nam và tây nam Ấn Độ giáp Ấn Độ dương.
Hàng năm tới mùa tuyết tan, nước từ dãy Hymalaya theo hai con sông Ấn (Indus) vàsông
Hằng (Ganges) lại đem phù sa tới bồi đắp cho những cánh đồng ở Bắc Ấn.
Nền văn minh ở lưu vực sông Indus (3.000-1.800 Tr. C.N.) đã thấm đượm những tư
tưởng và hình thức nghệ thuật mà về sau người ta xem như bản sắc tiêu biểu cho Ấn Độ.
1. Văn học
Văn học Ấn Độ thể hiện chủ yếu tập trong cả hai lĩnh vực đó là các bộ kinh của các tôn
giáo và đặc biệt là sử thi. Nội dung thường gắn với quan điểm triết học, tôn giáo nhằm để

giải thích vũ trụ, con người và biểu lộ ước vọng của con người trong cuộc sống.
Các kinh của tôn giáo: tập trong kinh Veda.
Kinh Veda: gồm 4 phần có 10.562 câu
Kinh Veda: Gồm những bài kinh ca tụng thần thánh, phản ánh phong tục, đời sống, chính
trị và kinh tế xã hội của người Aryan thời kỳ xâm nhập vào Ấn Độ.
Sama veda: những bài kinh ca trong khi hành lễ
Yajue veda: nhũng bài hát, công thức tế bằng văn xuôi, dạy về cách hành lế …
Athara veda: Những công thức mang đầy tính ma thuật phù thủy hay cách đọc những câu
thần chú trong các dịp cầu nguyện
Tam tạng kinh điển của phật giáo
Kinh tạng: Những lời thuyết giảng của đức phật
Luật tạng: những quy định các giới luật của luật giáo
Kinh tạng và luật tạng đựợc ghi lại tại đại lợi kết hợp phật giáo lần 1
Luật tạng: làm rõ hơn những điều trong kinh và luật
2. Tôn giáo
a. Nguyên nhân và bối cảnh ra đời của đạo Phật:
Xã hội:
Vào khoảng giữa thiên niên kỷ I TCN, ở Ấn Độ từ những công xã cổ xưa đã hình thành
hàng loạt những tiểu quốc hai bên bờ sông Hằng (miền Bắc Ấn Độ có khoảng 23 tiểu
quốc). Các vương quốc thường có điều kiện tự nhiên khác nhau (do vùng đất đai rộng
lớn). Kinh tế, xã hội, chính trị cũng phát triển không đều nhau. Do vậy, các vương quốc
này luôn tồn tại những mâu thuẫn, cạnh tranh và thôn tính lẫn nhau. Các cuộc chiến tranh
xảy ra liên miên và đến thế kỷ V TCN, chỉ còn lại 4 quốc gia: Kashi, Koshala, Magadha,
Virigis.
- Các cuộc chiến tranh đã lôi kéo người dân phải tham chiến, tình hình chính trị bất ổn,
tâm lý dân chúng bất an.
- Mâu thuẫn giữa đẳng cấp Brahma với Ksatria: sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ.
+ Brahman: thao túng toàn bộ đời sống chính trị, tinh thần, vơ vét tài sản, bắt dân chúng
nộp thuế cao và nghĩa vụ khác (của cải không người thừa kế sẽ thuộc về Brahman - Bà la
môn)

+ Ksatria: vua quan, quý tộc - bảo vệ và trực tiếp cai trị đất nước, là người giữ vai trò
quyết định trong chiến tranh nhưng địa vị lãnh đạo lại không rõ ràng do ở dưới đẳng cấp
Brahman và bị Brahman chi phối.
+ Vaisya: cuộc sống không ổn định do chiến tranh, mất mùa, thất thu (chiến tranh) nhưng
thuế không giảm và những áp lực của tôn giáo đè nặng.
+ Soudra: có thêm một số vaisya bị phá sản trở thành nô lệ, số khác thì phải đi ăn xin. Họ
chịu cuộc sống cực khổ dẫn đến tâm lý chán nản, tuyệt vọng trông chờ một con đưỡng
giải thoát khỏi thực tại khổ đau.
Chế độ đẳng cấp trở thành sự bức xúc lớn trong xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ.
* Kinh tế:
- Công cụ kim loại đồng thau và sau đó là đồ sắt đã làm thay đổi bản chất của sản xuất.
Vua Magadha quan tâm phát triển nông nghiệp. Song song đó, nhiều ngành kinh tế đã ra
đời và ngày càng mở rộng làm xuất hiện tầng lớp thương nhân. Tầng lớp này lúc đầu
không được xếp vào đẳng cấp nào và cuối cùng bị đẩy xuống đẳng cấp Soudra. Nhưng họ
là tầng lớp có tiềm lực kinh tế, nên muốn thay đổi địa vị trong hệ thống đẳng cấp.
Tôn giáo:
Sau một thời gian hình thành và phát triển đã được củng cố: giáo lý và luật lệ rất chặt
chẽ, nghi thức cúng bái rất phức tạp, chế độ đẳng cấp càng trở nên vững chắc.
Cuộc sống cực khổ càng làm cho nhân dân lao động thêm căm ghét những kẻ bóc lột
mình, oán ghét chế độ đẳng cấp (Varna), không còn tin vào các vị thần Bàlamôn. Những
điều thuyết giảng của tăng lữ Bàlamôn không còn đủ sức thuyết phục, an ủi và xoa dịu
cuộc sống của dân chúng. Những lễ nghi phức tạp, những nghĩa vụ phiền toái, giáo lý
ngày càng khó hiểu làm cho người dân ngày càng xa rời tôn giào này.
Trong bối cảnh đó, vào thế kỷ VI TCN, ở Ấn Độ đã xuất hiện nhiều trường phái tôn giáo,
triết học mới chủ trương xa lánh thực tại (khổ hạnh, ép xác, tiêu cực, tự kỷ - Jain), nhưng
có một điểm chung là: trực tiếp và gián tiếp chống lại đạo Bàlamôn và chế độ đẳng cấp.
Phật giáo cũng là một trong những trào lưu đó và được xem là một phản đề của đạo
Bàlamôn.
Học thuyết của Đạo Phật:
- Dưới góc độ triết học, giáo lý đạo Phật mang tính chất nhị nguyên luận (vừa có tính duy

tâm, vừa có tính duy vật).
+ Duy tâm: kế thừa một số tư tưởng của đạo Bàlamôn về thuyết luân hồi - nhân quả -
khái niệm Niết bàn - nghiệp báo
+ Duy vật: Đức Phật không tôn thờ thần và không tự coi mình là thần, thừa nhận sự biến
đổi, phủ nhận sự tồn tại bất diệt và vĩnh viễn của tất cả sự vật. Vật chất và tinh thần đều
biến hóa, có sinh có diệt (vô thường: chuyển biến, thay đổi, không có gì là bất biến diễn
ra trong từng đơn vị - sátna vô thường; vô ngã: không thể có cái ta tồn tại vĩnh viễn).
Tư tưởng
- Hòn đá tảng căn bản trong tư tưởng của Phật là thuyết Tứ diệu đế (bốn chân lý kỳ diệu),
bao gồm:
+ Khổ đế: đời là bể khổ, bất trắc, không toại nguyện trong cuộc sống (sinh, lão, bệnh, tử).
+ Tập đế: chân lý về nguyên nhân nỗi khổ, do người ràng buộc nhiều ham muốn.
+ Diệt đế: chân lý chấm dứt nỗi khổ, diệt ham muốn.
+ Đạo đế: con đường diệt khổ dẫn đến giác ngộ, giải thoát tiến đến Niết bàn. Đạo đế gồm
tám con đường diệt khổ, gọi là Bát chánh đạo:
1. Chánh Kiến: tín ngưỡng đúng đắn.
2. Chánh Tư duy: suy nghĩ đúng đắn.
3. Chánh Ngữ: nói năng đúng đắn.
4. Chánh Nghiệp: hành động đúng đắn.
5. Chánh Mệnh: sống đúng đắn.
6. Chánh Tịnh tiến: mơ tưởng ước mơ đúng đắn.
7. Chánh Niệm: tưởng nhớ đúng đắn.
8. Chánh Định: tập trung tư tưởng, ngẫm nghĩ đúng đắn.
Phật khuyên con người không sát sinh: cấm giết người, còn động vật không khắt khe.
Việc ăn chay do vua Lương Vũ Đế ( Trung Quốc - VI SCN) đặt ra (giảng thêm).
- Thuyết Thập nhị nhân duyên (duyên khởi)… Ví dụ cây nảy mầm
Có thể nói, ban đầu những tư tưởng của Phật là một học thuyết khuyên người phải từ bỏ
ham muốn, tránh điều ác, làm điều thiện, tu thân tích đức để được giải thoát chứ không
thừa nhận thượng đế và thần thánh. Do vậy, Phật chủ trương không cần cúng lễ, nghi
thức và không có tầng lớp tăng lữ, thầy cúng.

b. Quá trình truyền bá đạo Phật ở Ấn Độ:
Năm sinh Đức Phật: 624-544 TCN, Phật giáo lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu Phật
lịch (2548 = 2004); ý kiến khác 563-483 TCN.
Đạo Phật ra đời trong thời kỳ hưng thịnh của Bàlamôn. Nhưng với giáo lý từ bi, bác ái
chống đạo Bàlamôn hà khắc, nên nhanh chóng chiếm cảm tình của mọi tầng lớp nhân
dân.
Sau khi Phật tịch, các môn đệ tập trung và ghi chép lại lời giảng của Phật theo trí nhớ và
cách hiểu của mình. Nhưng cách hiểu và nhớ khác nhau, do vậy Kinh - giáo lý nhà Phật,
được chỉnh ly), ghi chép lại qua 4 lần đại hội kết tập, hình thành nên bộ Kinh Tam Tạng.
+ Đại hội I (thế kỷ V TCN) tại Magađa - quốc gia mạnh nhất Ấn Độ lúc đó. Có 500 tăng
ni họp trong 7 tháng, soạn ra Luật tạng (Đại Ca diếp hỏi, Upali ttrả lời) và Kinh tạng (do
trưởng lão A-nan giải đáp, còn gọi là Kinh Điển ngũ Bộ: Trường Bộ kinh, Trung Bộ
kinh, Tương Ưng Bộ kinh, Tăng Chi Bộ kinh và kinh Tiểu Bộ). Luật: cách hành lễ, ăn
mặc… Kinh: ghi chép lại lời giảng của Phật. Lúc đầu Kinh và Luật được các tỳ kheo học
thuộc lòng, chỉ đến Hội nghị kết tập lần 3 mới được viết trên lá bối đa.
+ Đại hội II (thế kỷ IV TCN, khoảng 100 năm sau lần I): 700 tăng ni, diễn ra trong 8
tháng.
Tại Hội nghị kết tập này có hai ý kiến khác nhau: Một số chủ trương tuân thủ truyền
thống của chư tăng, gọi là Thượng tọa bộ (những người hộ trì giáo lý của các Thượng
tọa); một số tỳ kheo khác lại chủ trương canh tân, đưa ra 10 điều luật mới sửa lại Luật
Tạng, gọi là Đại chúng bộ (những người của đại chúng) nhưng không được Hội đồng kết
tập chấp thuận - đây là tiền thân của phái Đại Thừa sau này.
Tại đại hội này đã đưa ra chủ trương xây dựng chùa, thờ cúng Phật, tạc tượng Phật, đặt
các lễ.
+ Đại hội III (253 TCN): 1000 tăng ni, diễn ra trong 9 tháng.
Diễn ra dưới sự bảo trợ của Ashoka - vua của Vương quốc Magađa, một trong những vị
vua nổi tiếng nhất Ấn Độ cổ đại. Ashoka có công trạng rực rỡ nhưng tàn sát ác liệt nên
sau đó bị day dứt, ám ảnh bởi nỗi kinh hoàng giết chóc. Ông đã sám hối, trở thành tín đồ
và dốc lòng thờ Phật sau trận đánh ở Kalinga (260 TCN).
Lúc này khuynh hướng phân liệt nghiêm trọng nên Đại hội chấn chỉnh lại tổ chức và giáo

lý, bổ sung và cho ra đời Luận tạng. Như vậy, kể từ Hội nghị này, Phật giáo có đủ Tam
Tạng ( 3 cái giỏ hay 3 cái kho, tương truyền nhà sư Huyền Trang thuộc làu 3 bộ kinh này
nên được gọi là Tam Tạng). Trong thời trị vì, Ashoka đã tuyên bố đạo Phật là quốc giáo,
đánh dấu thời kỳ phát triển cực thịnh của Phật giáo ở Ấn Độ thời cổ đại. Đồng thời,
Ashoka tiến hành xây doing nhiều chùa, tháp, thành lập nhiều tăng đoàn và khuyến khích
việc truyền bá Đạo Phật đến hiều vùnh trên bán đảo Ấn Độ và một số các quốc gia khác
(Sri Lanka, Mianma, Thái Lan, Indo…).
Thế kỷ IV - III tr. CN là thời kỳ Phật giáo phát triển nhất ở Ấn Độ.
Sau khi Magađa tan rã (322 TCN), đạo Phật suy yếu và dần mất đi vị trí thống trị trong
đời sống tâm linh của cư dân.
+ Đại hội IV: 500 tăng ni.
Đến thế kỷ I SCN, người Kusan chiếm Tây Bắc và thành lập nhà nước của mình. Vua
Kusan là Kanisha rất tôn sùng Đạo Phật nên ông đã tài trợ Đại hội kết tập lần IV của Phật
giáo (khoảng năm 100).
Tại Đại hội này đã thông qua giáo lý của Phật giáo cải cách (Đại thừa) để phân biệt phái
cũ (Tiểu thừa). Song song đó là tiến hành chỉnh lý lại văn bản Tam tạng kinh điển (với
300.000 bài tụng với 9.600.000 từ, trong đó: Kinh sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng
Kinh, Luật sớ - 100.000 bài tụng giải thích tạng Luật, Luận sớ - 100.000 bài tụng giải
thích tạng Luận) và khắc thành những bảng đồng lưu giữ trong bảo tháp. Phật giáo tiếp
tục được truyền sang các quốc gia Trung Á, Trung Quốc
* Tiểu thừa và Đại thừa: là hai tông phái của Phật giáo, có cách giải thích khác nhau về
giáo lý Phật giáo). Tôn chỉ, mục đích giống nhau, nhưng khác phương tiện, con đường tu
hành và giải thoát.
- Tiểu thừa: trung thành, coi trọng ý nghĩa ban đầu của Phật giáo, tu theo từng nhóm nhỏ
mang tính cá nhân, tự giác.
- Đại thừa: mở rộng giáo lý Phật giáo trong nhiều bộ kinh khác nhau, giải thoát cho nhiều
người.
Sau những thế kỷ phát triển thịnh đạt khoảng 1.000 năm, từ VI TCN - V CN, Phật giáo ở
Ấn Độ bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái: giáo lý uyên thâm, khó hiểu vượt khỏi tầm
hiểu biết của quần chúng. Từ đó Hindu đã lấn át phần nào, do vậy phạm vi ảnh hưởng

Phật giáo ngày càng thu hẹp lại trước sự phát triển của Hindu và Hồi giáo.
* Nguyên nhân suy yếu Đạo Phật ở Ấn Độ:
- Không thống nhất về học thuyết và tổ chức.
- Chỉ phát triển trong thành phố (thành phần ủng hộ đầu tiên là Ksatrya, (thương nhân),
những nơi hẻo lánh theo Phật giáo không nhiều. Trong khi đó Hindu đã có từ rất lâu, bám
rễ chặt cả ở nông thôn, còn Phật giáo đã yếu ở thành phố là suy yếu hẳn.
- Trong 3 thế kỷ, Vaisya cảm thấy không có lợi gì, không phải là chỗ dựa, thay đổi xã
hội.
- Đạo Bàlamôn - Hindu bớt khắt khe, nới lỏng đồng thời kế thừa một số ưu điểm của Phật
giáo nên dần thu hút dân chúng.
- Đạo Phật được một số vua cho là quốc giáo nhưng mang tính chất áp đặt nên khi nhà
vua chết, đạo Phật cũng dần mất vị trí.
- Giáo lý ngày càng trở nên uyên thâm, khó hiểu và xa lạ đối với quần chúng, nên khi đã
suy yếu thì không còn cơ hội quay trở lại đời sống tinh thần.
Câu 8: Chữ viết của Trung Quốc
Chữ Trung Quốc, hay còn gọi là chữ Hán, là một dạng chữ viết biểu ý của tiếng Trung
Quốc. Chữ Trung Quốc có nguồn gốc bản địa, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong
vùng bao gồm Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Tại các quốc gia này, chữ Hán được
vay mượn để tạo nên chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước.
- Vào nửa đầu thế kỷ III TCN Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ tượng hình nhưng đến thời
nhà Thương chữ viết Trung Hoa mới thực sự hình thành và được gọi là Giáp cốt văn (chữ
được khắc trên mai rùa và xương thú). Đây là chữ tượng hình có ký tự rời rạc, mang
nghĩa đơn, về sau phát triển thành biểu ý (ý đồ) và hài thanh (đọc được). Tổng số chữ
Giáp cốt văn khoảng 4500 chữ.
- Đến thời Tây Chu để ghi lại những sự kiện lớn xuất hiện chữ Kim văn (viết trên kim
loại), chữ Chung đỉnh văn và chữ Thạch văn (viết trên đá). Về bản chất chữ Kim văn
không có gì khác so với chữ Giáp cốt văn – vẫn là chữ tượng hình nhưng số lượng chữ
viết ngày càng nhiều hơn, cách viết đơn giản và gọn gàng hơn. Các loại chữ này được gọi
chung là chữ đại triện
- Đến thời Xuân Thu – Chiến quốc chữ viết Trung Hoa ngày càng phát triển, cách viết

cũng đơn giản, gọn gàng hơn. Tuy nhiên thời kỳ này do đất nước loạn lạc nên chữ viết
không có sự thống nhất. Cho nên đến thời nhà Tần đã cải cách thành chữ tiểu triện (chữ
giới hạn trong một hình vuông).
- Đến thời nhà Hán trở đi chữ Trung Quốc đã ổn định và phát triển theo các loại chữ:
- Lệ Thư: Là loại chữ rất thông dụng thời nhà Hán, lúc đầu là các nét cong tròn, sau đó là
nét mác lượn sóng.
- Khải thư: Xuất hiện cuối thời nhà Hán và phát triển đến nay là chữ viết ngay ngắn có
tên khác là chính thư, chân thư.
.
- Thảo thư: là một dạng viết nhanh của chữ Lệ thư nên có tên khác là Thảo lệ, viết liền
nhau, khó đọc, xuất hiện đầu nhà Hán
- Trên cơ sở chữ Thảo thời nhà Đường xuất hiện loại chữ Cuồng Thảo (mang tính trang
trí nhiều hơn)
- Hành thư: được dùng phổ biến trong thời Tam Quốc
- Giản thể: là chữ viết thông dụng hiện nay, nó được đơn giản hóa
- Từ thập niên 50 TK XX chữ này được chỉnh lý và sửa chữa.
- Chữ Trung Quốc không trở thành tử ngữ bởi vì nó tự điều chỉnh trên hai chức năng chỉ
âm và chỉ ý để phù hợp với cuộc sống.
Câu 9: Tư tưởng trùng phái pháp gia (trị nước) đường lối xây dựng đất nước
Pháp gia xuất hiện từ thời Xuân Thu, là trường phái chủ trương dùng pháp luật để trị
nước. Người khởi xưởng tư tưởng này là Quản Trọng, người nước Tề sống vào khoảng
nửa đầu thế kỷ VII TCN. Kế thừa ông có nhiều pháp gia sau đó, đặc biệt là Hàn Phi,
người đã tập hợp tư tưởng của các nhà pháp gia trước đó và viết thành sách Hàn Phi Tử,
Hàn Phi đã đề xuất một hệ thống chính trị lấy Pháp, Thế và Thuật làm nội dung cơ bản:
- Pháp: là pháp lệnh thành văn của quốc gia, được xem là tiêu chuẩn, căn cứ khách quan
để định rõ danh phận, tỏ rõ thị phi, phân rõ tốt xấu, để mọi người biết bổn phận, trách
nhiệm của mình, biét điều phải làm và điều không được làm. Pháp phải được ban hành
công khai và thi hành nghiêm minh.
- Thế: Người đầu tiên đề cập là Thận Đáo. Thế tức là quyền thế, địa vị, thể lực, quyền uy
của người đứng đầu. Địa vị của người trị vì là độc tôn, mọi người buộc phải tuân

theo.Vua có quyền lực tối cao. Trong việc trị dân, địa vị quyền thế của vua mới là trọng
yếu, còn đức không quan trọng.
- Thuật: là phương pháp, thủ thuật, cách thức mưu lược điều khiển công việc và dùng
người, khiến người triệt để tận tâm thực hiện pháp lệnh của vua mà không hiểu vua dùng
họ như thế nào. Nếu Pháp phải bằng mọi cách công bố, công khai thì Thuật là cơ trí
ngầm, là thủ đoạn, mưu lược của vua. Thuật bao gồm ba nội dung chính là bổ nhiệm,
khảo hạch và thưởng phạt.
* Đường lối xây dựng đất nước:
Chủ trương tập trung sản xuất nông nghiệp và chiến đấu. Còn văn hóa giáo dục thì không
cần thiết, không đem lại lợi ích thiết thực mà thậm chí còn có hại cho xã hội. Hàn phi nói
“Người làm việc bằng trí óc nhiều thì pháp luật rối loạn, người lao động bằng sức lực ít
thì nước nghèo, ngày nay loạn lạc chính là vì như thế. Bởi vậy, nước của vị vua sáng suốt
không cần sách vở, lấy pháp luật để dạy, không cần lời nói của các vua đời trước, dùng
quan lại làm thấy giáo”.
Áp dụng đường lối Pháp gia, nhà Tần đã cũng cố đất nước, phát triển thành một chư hầu
giàu mạnh thời Chiến quốc và sau đó thống nhất Trung Hoa. Thế nhưng, trường phái này
quá nhấn mạnh hình pháp, phủ nhận đạo đức, tình cảm, thủ tiêu văn hóa giáo dục. Ngược
lại, sự phát triển của văn minh làm cho mâu thuẫn xã hội phát triển. Và đây cũng chính là
một trong những nguyên nhân quan trọng làm cho nhà Tần sụp đổ nhanh chóng.
Câu 10: Thành tựu chữ viết và thần thoại của Hy Lạp
a. Chữ viết: Chữ viết Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện từ thời văn minh Crete- Mycene, gồm
hai loại:
- Loại I: là loại chữ tượng hình thuần túy, ghi lại hình người, động vật, cây cỏ, đồ vật…
Đây là loại chữ cổ nhất, xuất hiện khoảng vào thiên niên kỷ II TCN.
- Loại II: Là loại chữ đơn giản được cấu tạo bởi đường nét ngắn gọn đều đặn, có sự thống
nhất cách viết. Loại này được chia thành hai loại nhỏ: Loại A khoảng năm 1700 đến 1400
TCN. Loại B khoảng 1400 đến 1200 TCN.
Chữ viết này biến mất cùng nền văn hóa Crete – Mycene vào thế kỷ XII TCN.
Vào khoảng thế kỷ thứ XI đến IX TCN Hy Lạp không có chữ viết, sau đó đầu thế kỷ thứ
XVIII TCN ở Hy Lạp đã xuất hiện lại chữ viết đã được hình thành dưới dạng bảng chữ

cái Alphabet, được hình thành trên cơ sở bảng chữ cái Phoenicien là bảng chữ cái đầu
tiên của nhân loại. Chữ này phát triển từ những ký hiệu chỉ âm trong hệ thống chữ viết
của người Ai Cập và người Lưỡng Hà cổ đại. Bảng chữ cái Phoenicie gồm 22 chữ, không
có nguyên âm. Phoenicien (có nghĩa là du mục trên biển) trong quá trình giao lưu tiếp
xúc với người Phoenicien người Hy Lạp đã tiếp thu kế thừa và sáng tạo ra bảng chữ cái
Hy Lạp, qua nhiều lần thay đổi về số lượng cuối cùng tồn tại 24 chữ cái khác nhau. Trong
đó người Hy Lạp đã chia thành 18 ký hiệu phụ âm và 6 nguyên âm với cách ghép chữ hết
sức linh hoạt giữa phụ âm và nguyên âm để ghi lại tiếng nói của người Hy Lạp. Do vậy,
nó có khả năng diễn đạt mọi khái niệm trừu tượng nhất cũng như quá trình tư duy của con
người. Đây là hệ thống chữ chỉ âm và ghi âm, là một trong các loại chữ tiến bộ nhất, hoàn
chỉnh nhất lúc bấy giờ và đó là nguồn gốc hình thành những loại chữ viết khác sau đó.
Chữ Hy Lạp ảnh hưởng đến vùng đất lãnh thổ Hy Lạp ở xung quanh Địa Trung Hải và
một số vùng lân cận khác.
b. Thần thoại: Là một trong những hình thái văn học xuất hiện sớm nhất ở Hy Lạp, cung
cấp cho văn học, thơ kịch và lĩnh vực nghệ thuật những đề tài vô tận.
Thần thoại Hy Lạp là tâphợp, tổng thể những truyện dân gian truyền miệng với những nội
dung hoang đường, kỳ ảo, phản ánh nguyện vọng của nhân dân trong việc đấu tranh với
thiên nhiên, giải thích các hiện tượng tự nhiên, sự hình thành thế giới, phản ánh cuộc
sống lao động và những hoạt động đời thường của chính người Hy Lạp.
Về sau khi có chữ viết, kho tàng thần thoại này được Hesios (nhà thơ Hy Lạp sống vào
thế kỷ VII TCN) hệ thống lại trong tác phẩm Gia phả các vị thần. Hệ thống các vị thần
Hy lạp không phải là lực lượng xa vời và đáng sợ đối với con người như các thần ở
Phương Đông. Họ là những hình tượng gần gũi, có những phẩm chất, cá tính như con
người: yêu, ghét, giận hờn
Nhìn chung, thần thoại Hy Lạp dù hoang đường, dù có màu sắc thần thánh nhưng ít bị tôn
giáo đồng hóa, ít bị hòa vào tôn giáo. Nên ngay từ đầu thần thoại Hy Lạp vừa mang tính
chất hoang đường những cũng mang đậm tính lịch sử xác thực, phản ánh trạng xã hội,
duy lý và triết lý.
Câu 11: Thành tựu khoa học tự nhiên của La Mã
Người La Mã được thừa hưởng, tiếp thu có chỉnh lý, bổ sung tổng kết những thành tựu

khoa học tự nhiên của người Hy Lạp, nhưng trong lĩnh vực này, người La Mã mang tính
thực dụng cao, vận dụng nhanh chóng vào sản xuất, xây dựng và nghệ thuật. Những tên
tuổi tiêu biểu:
- Pline: là tác giải của tác phẩm Vạn vật, được xem là bộ bách khoa toàn thư, tổng kết
những thành tựu khoa học kỹ thuật thời cổ đại về các lĩnh vực địa lý, sinh học, nông học,
y dược, kiến trúc, hội họa
- Ptolemée: là tác giả của tác phẩm Hệ thống vũ trụ, ông chỉ ra rằng trái đất hình tròn
nhưng lại sai lầm khi cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ. Ông cũng vẽ ra được bản
đồ thế giới nhưng chỉ gồm ba châu Á, Âu, Phi và lấy Địa Trung Hải làm trung tâm. Đến
nay, bản đồ này không còn giá trị khoa học nhưng được xem là chính xác nhất lúc đó.
- Y học: tiêu biểu là Gallene ông đã tổng kết tri thức y học từ thời Hypocrates trở đi, viết
nên nhiều luận văn về y dược và giải phẩu, đề xuất phương pháp thực nghiệm qua và tiến
hành giải phẩu nhiều động vật.
Câu 12: Tôn giáo của La Mã
* Những tiền đề hình thành:
Ki - tô giáo ra đời ở vùng Đông của đế quốc La Mã vào khoảng thế kỷ I sCN thuộc địa

×