Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Giáo trình: Côn Trùng Trong Nông Nghiệp - Chương 4 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 41 trang )

Chương IV: SINH VẬT HỌC CÔN TRÙNG

I. TRỨNG VÀ CÁC PHƯƠNG THỨC SINH SẢN

1. Trứng

a - Cấu tạo

Trứng là một tế bào lớn, phía ngoài có vỏ trứng. Vỏ trứng cấu tạo bởi protein và
sáp, tương đối cứng. Độ cứng khác nhau tùy loài côn trùng. Bề mặt của vỏ trứng có
nhiều dạng vân và màu sắc khác nhau. Phía trong vỏ trứng có một màng rất mỏng gọi
là màng lòng đỏ trứng. Màng nầy bao bọc lấy nhân trứng và các tế bào chất. Chất tế
bào chia thành hai bộ phận: b
ộ phận ở chung quanh tương đối dầy không trộn lẫn với
lòng đỏ trứng và bộ phận ở giữa đan nhau dạng mắt lưới, ở giữa các khe của mạng lưới
có lòng đỏ. Trứng chưa thụ tinh thì nhân trứng nằm ở chính giữa, sau khi thụ tinh
thành hợp tử và phân chia thành nhiều hạch bào tử thì di chuyển ra phía ngoài. Trên vỏ
trứng thường có lỗ thụ tinh, gồm một lỗ thật nhỏ
hoặc một nhóm lỗ nhỏ để tinh trùng
đi vào trứng.

b- Kích thước và hình dạng của trứng

Trứng thường có kích thước khác nhau tùy loài côn trùng, từ nhỏ hơn 1 mm
(trứng các loài ong ký sinh) đến hàng chục mm (trứng của sạt sành). Hình dạng trứng
cũng rất khác biệt tùy loài côn trùng, phần lớn trứng có hình tròn, bánh bao, bầu dục
(bướm, ngài), hình trống (bọ xít), hình dưa chuột (rầy), có cuống như trứng của
chrysopa (bộ Neuroptera).

c - V
ị trí đẻ trứng



Phần lớn trứng được đẻ ở những nơi mà trứng và ấu trùng nở ra từ trứng có thể
được bảo vệ và có điều kịện thích hợp cho sự phát triển. Trứng của côn trùng có thể
được đẻ lộ thiên (bướm, bọ xít, ), rải rác từng trứng một hoặc đẻ thành từng ổ hoặc
từng bọc (dán, ngựa trời). Ở các loài ngài (Lepidoptera), các
ổ trứng thường che kín
bởi những lớp lông nhỏ từ mình của côn trùng (sâu ăn tạp, sâu đục thân lúa hai
chấm, ). Có nhiều loài đẻ trứng trong đất, một số loài đẻ trứng trong mô cây (rầy nâu,
rầy lưng trắng).

Đối với các loài ăn thực vật, trứng thường đươc đẻ trên cây nơi ấu trùng sẽ sinh
sống sau nầy. Đối với những loài có giai đoạn ấu trùng sống trong nước, trứng th
ường
được đẻ vào (trên) những vật, cây hiện diện trong nước. Côn trùng ký sinh thường đẻ
trứng trên hoặc trong cơ thể con ký chủ.

67


Hình IV.1. Các dạng trứng của côn trùng
A: ngài Spodoptera frugipada ; B: sâu cuốn lá Desmia furenalis; C: sâu rễ bắp
Diabrotica undecimpunctata; D: ruồi Gasterophilus intestinalis; E: cào cào
Decanthus fultoni; F: muỗi Anopheles; G: ruồi bắp Hylemya platura; H: muỗi
Culex; I: bọ cánh lưới Chrysopa (Neuroptera); J: ngài Alsophila pometaria
(Geometridae) (Borror và ctv., 1981).


Hình IV.2. Bọ xít và trứng bọ xít (Pentatomidae)

68




Hình IV.3. Trứng và vị trí đẻ trứng của một số loài côn trùng gây hại trên lúa.
A: bọ xít Leptocorisa (Alydidae); B: rầy lưng trắng Sogatella furcifera; C+D:
dế nhũi Gryllotalpa orientalis; E: muỗi hành Orseolia oryzae; F: sâu phao
Nymphula depunctalis; G+H: trứng và vị trí đẻ trứng của cào cào trên lúa (G:
lúa rẩy - trong đất; H: lúa nước - phía sau bẹ lá) (Reissig và ctv., 1986).



69
2. Các phương thức sinh sản của côn trùng

a - Sinh sản hữu tính

Đây là phương thức sinh sản thông thường và rất phổ biến ở côn trùng. Con đực
và con cái giao phối, tạo ra trứng đã thụ tinh và trứng có thụ tinh mới hình thành được
một cá thể mới.

b - Sinh sản đơn tính

Đây là kiểu sinh sản mà con cái không cần thụ tinh nhưng vẫn có thể phát dục,
sinh sản và đẻ ra những cá th
ể mới.

c - Sinh sản hữu tính và đơn tính

Có nhiều loài côn trùng có thể vừa sinh sản hữu tính, vừa sinh sản đơn tính, ví
dụ như ở loài rầy mềm (Aphididae), phương pháp sinh sản đơn tính và hữu tính xen kẻ

nhau có tính chất chu kỳ, thường thì rầy mềm sau một số lần sinh sản đơn tính thì xen
vào một lần hữu tính, tuy nhiên cũng có loài, cứ một lần hữu tính lại một lần đơn tính.
Ở các loài t
ằm, trứng chưa thụ tinh vẫn có thể phát dục để cho ra những cá thể mới.
Đối với các loài ong, kiến sống có tính quần tụ xã hội: ong chúa, kiến chúa sau khi
giao phối cũng có thể đẻ ra những trứng không thụ tinh, những trứng này sẽ nở thành
con đực, trứng được thụ tinh sẽ nở thành con cái.

d - Sinh sản nhiều phôi

Là phương thức sinh sản từ một trứng có thể phát dục tạ
o thành hai hoặc nhiều
cá thể mới. Phương thức sinh sản nầy thường gặp ở các loài ong ký sinh như họ ong
nhỏ (Chalcididae), họ ong nhỏ không mạch cánh (Proctotrupidae), họ ong kén nhỏ
(Braconidae), họ ong cự (Ichneumonidae) thuộc bộ Cánh màng (Hymenoptera). Số
lượng cá thể sinh sản từ một trứng khác nhau tùy theo loài, một vài loài ong thuộc họ
Encyrtidae, từ một trứng có thể sản sinh trên 1000 cá thể.

e - Hiện tượng thai sinh

Đa số côn trùng đẻ trứ
ng nhưng cũng có môt số loài đẻ con. Hiện tượng nầy
thường gặp ở họ rầy mềm (Aphididae), họ ruồi ký sinh (Tachinidae), họ ruồi
(Muscidae), bộ cánh tơ (Thysanoptera) và một số loài thuộc bộ Cánh cứng
(Coleoptera).

70

f - Sinh sản thời kỳ ấu trùng
Phương thức nàythấy ở một số loài côn trùng thuộc họ muỗi năng (Cecidomiidae),

muỗi Chỉ hồng (Chironomidae) thuộc bộ Hai cánh và họ Micromal thidae thuộc bộ
Cánh cứng (Coleoptera). Buồng trứng ở thời kỳ sâu non đã chín và trứng không cần
qua thụ tinh vẫn có thể phát dục thành ấu trùng. Ấu trùng phát dục trong cơ thể ấu
trùng mẹ. Sau khi hoàn thành giai đoạn phát dục, ấ
u trùng chui ra khỏi cơ thể của ấu
trùng mẹ và tiếp thụ phương thức sinh sản của ấu trùng mẹ. Phương thức sinh sản vào
thời kỳ ấu trùng và sinh sản hữu tính được tiến hành xen kẽ nhau, qua một số lần sinh
sản vào thời kỳ sâu non không có giai đoạn nhộng thì xuất hiện một số thế hệ mới xuất
hiện nhộng. Nhộng có thể cho ra cá thể đực ho
ặc cá thể cái, các cá thể nầy sẽ giao phối
và cho ra các cá thể mới.
Ngoài một số phương thức sinh sản như ở trên, ở loài rệp sáp bông Icerya
purchasi lại có kiểu sinh sản đực cái cùng cơ thể (hermaphroditic). Ở loài nầy, hầu hết
các cá thể côn trùng đều có tính đực, cái trên cùng cơ thể. Trong tuyến sinh dục của
con cái có cả trứng và tinh trùng. Một phần tế bào sinh dục ở mặt ngoài của tuyến sinh
dục phát dụ
c thành trứng, còn tế bào sinh dục ở mặt trong phát dục thành tinh trùng.
Sự thụ tinh đều do trứng và tinh trùng trên cùng cơ thể đó tiến hành với nhau, trường
hợp ngẫu nhiên cũng có thể có một số ít tế bào trứng không qua thụ tinh mà phát triển
thành cá thể tính đực. Cá thể tính đực nầy có thể tiến hành giao phối với cá thể đực cái
trên cùng cơ thể. Giữa các cá thể đực, cái cùng cơ thể không thể giao phối nhau.

3. Hiện t
ượng trứng nở

Sau khi hoàn thành giai đoạn phát dục phôi thai, ấu trùng phá vở vỏ trứng chui
ra ngoài, đó là hiện tượng trứng nở. Trứng của côn trùng thường có vỏ cứng, ấu trùng
phải có những phương thức đặc biệt để phá vở vỏ trứng chui ra ngoài. Ấu trùng có
miệng nhai thì dùng đôi hàm trên cắn thủng vỏ trứng để chui ra, những loài khác có
thể có cấu tạo dạng gai, dạng lưỡi cưa hoặ

c dạng túi lồi có thể phá vở vỏ trứng, ở các
loài nầy khi côn trùng chuẩn bị chui ra khỏi vỏ trứng thì đoạn trước của ống tiêu hóa
hút toàn bộ dịch dương mạc và không khí vào, lúc đó nhờ sự vận động của hệ cơ tạo
nên một áp lực làm cho vỏ trứng và màng bao bị rách, nhờ sức ép của phần đầu cùng
các cấu tạo nói trên để phá vở vỏ trứng. Ở m
ột số loài châu chấu, sau khi phát dục phôi
thai, túi lồi ở cổ hút đầy máu phình to lên tạo thành sức ép để phá vở trứng và bọc
trứng để chui ra. Một số loài bọ xít, trứng thường có nắp, chỉ cần sự co dãn của cơ tạo
nên sức ép làm bật nắp trứng để sâu chui ra. Một số loài dòi ruồi dùng móc miệng để
chọc rách màng lòng đỏ là có thể ra khỏi trứng.

II. SỰ BIẾN THÁI

Quá trình sinh trưởng phát triển của côn trùng kể từ lúc trứng nở cho đến khi
trưởng thành có thể có một số thay đổi phức tạp về hình thái bên ngoài cũng như các
cơ quan bên trong. Hiện tượng thay đổi nầy được gọi là sự biến thái. Ở một số loài, sự
biến đổi về hình dạng giữa thành trùng và ấu trùng rất ít, ngoại trừ sự khác biệt về kích

71
thước, ở một số loài khác, sự khác biệt nầy lại rất lớn, không những về hình dạng mà
cả về tập quán sinh hoạt. Mức độ khác biệt nầy thay đổi tùy theo nhóm côn trùng. Nói
chung, có thể phân biệt hai dạng biến thái chính: biến thái đơn giản và biến thái hoàn
toàn.
Ở dạng biến thái đơn giản thì cánh sẽ phát triển từ từ bên ngoài cơ thể vào giai
đoạn ấu trùng và không có giai đoạn nhộng tr
ước khi vũ hóa. Còn đối với kiểu biến
thái hoàn toàn, cánh sẽ phát triển phía trong cơ thể trong suốt giai đoạn ấu trùng; giai
đoạn nhộng (bất động - không hoạt động) là giai đoạn phát triển rất cần thiết cho một
sự thay đổi mạnh mẽ từ giai đoạn ấu trùng đến giai đoạn trưởng thành.


1. Các kiểu biến thái
a - Biến thái đơn giản
Đây là kiểu biế
n thái mà quá trình sinh trưởng phát triển chỉ gồm có ba giai
đoạn: Trứng - Ấu trùng - Trưởng thành, không có giai đoạn nhộng. Ấu trùng có
hình dạng rất giống thành trùng. Mắt đơn sẽ hiện diện vào giai đoạn ấu trùng nếu
thành trùng có mắt đơn. Nếu thành trùng có cánh thì cánh sẽ phát triển từ từ bên ngoài
cơ thể ngay từ ở các giai đoạn ấu trùng và sẽ phát triển hoàn toàn vào giai đoạn trưởng
thành.
Biến thái đơn giả
n được ghi nhận ở các bộ từ số 1 đến số 19 (Xem chương VI).
Biến thái đơn giản cũng được chia ra làm 3 nhóm:
* - Biến thái Ametabolous
Ấu trùng và thành trùng chỉ khác biệt chủ yếu về kích thước cơ thể, thường gặp
ở các bộ phụ không cánh như Protura, Collembola, Microcoryphia, Thysanura, .
* - Biến thái Hemimetabolous
Ấu trùng sống trong nước, thở bằng mang và có hình dạng rất khác với thành
trùng như ở các bộ Ephemeroptera, bộ Odonata và bộ Plecoptera.


B A
Hình IV.4.
Biến thái Ametabolous (A) và biến thái Hemimetabolous (B)

72

*- Biến thái Paurometabolous (Biến thái dần dần)
Ấu trùng và thành trùng nói chung cũng có hình dạng rất giống nhau, chỉ khác
nhau về kích thước cơ thể, sự phát triển của mắt đơn và đôi khi sự phát triển của một
số bộ phận khác như số đốt trên râu, bộ phận sinh dục ngoài, Ấu trùng và thành

trùng thường có tập quán sinh hoạt, gây hại tương tự nhau, và định cư trên cùng một
nơi, gặp ở
bộ Cánh thẳng (Orthoptera), bộ Cánh nữa cứng (Hemiptera), bộ Cánh đều
(Homoptera).

Hình IV.5. Biến thái dần dần (Paurometabolous) của một số bộ côn trùng.
Thành
trùng
Trứng
Ấu trùng
B
A
A: Bộ Cánh thẳng (Orthoptera)
B: Bộ Cánh nửa cứng (Hemiptera)


b - Biến thái hoàn toàn

Đặc điểm của kiểu biến thái nầy là quá trình sinh trưởng phát triển của côn
trùng gồm 4 giai đoạn: Trứng - Ấu trùng (sâu non) - Nhộng và Trưởng thành.

Ấu trùng của biến thái hoàn toàn có hình dạng và tập quán sinh ho
ạt, gây hại,
rất khác biệt với thành trùng. Vào giai đoạn ấu trùng, hình dạng của côn trùng thường
không khác biệt ở các tuổi, chỉ khác nhau về kích thước. Nếu thuộc nhóm trưởng thành
có cánh thì vào giai đoạn ấu trùng, cánh hoàn toàn không lộ ra ngoài cơ thể, và chỉ
xuất hiện vào giai đoạn trưởng thành. Ấu trùng không có mắt kép, có hoặc không có
chân ngực, đôi khi có chân bụng. Phần lớn ấu trùng có miệng nhai, ngay cả ở những

73

bộ mà trưởng thành có miệng thuộc nhóm miệng hút. Sau lần lột xác cuối cùng của ấu
trùng (sâu non), ấu trùng sẽ đi vào giai đoạn nhộng, vào giai đoạn nầy ấu trùng thường
không ăn, tìm nơi kín đáo để hóa nhộng. Nhộng thường được bảo vệ bên ngoài bằng
một cái kén làm bằng tơ hoặc bằng những chất liệu khác.



B A
Hình IV.6. Biến thái hoàn toàn
A: Formicidae (Hymenoptera); B: Papilionidae (Lepidoptera) (Smith và ctv.,1997).


Tạ
i vùng ôn đới, nhiều loài côn trùng qua đông ở giai đoạn nhộng. Vào cuối
giai đoạn nhộng, côn trùng sẽ lột xác, hóa trưởng thành. Khi vừa vũ hóa, côn trùng có
màu sắc nhạt và cánh của chúng thường có màu trắng, ngắn, mềm yếu và nhăn; chỉ
trong một thời gian ngắn, từ vài phút đến vài giờ (tùy loài côn trùng) cánh sẽ được
duỗi thẳng và cứng lại, màu sắc phát triển và côn trùng đã sẵn sàng hoạt động. Kiểu
biến thái nầy đượ
c gặp ở các bộ từ số 20-28 (Xem chương VI). Ngoài hai kiểu biến
thái chính vừa nêu trên, người ta còn ghi nhận có một số kiểu biến thái khác như sau:

c - Biến thái trung gian

Một số loài côn trùng có kiểu biến thái không thuộc hai kiểu biến thái vừa trình
bài ở trên mà nằm trung gian giữa hai kiểu biến thái nầy, đó là kiểu biến thái thường
gặp ở nhóm bọ trĩ, rệp dính và rầy phấn (Aleyrodidae).


74

* Biến thái của Bọ trĩ (Thysanoptera)

Ấu trùng T1 và T2 không cánh và có thể di chuyển, T3 và T4 (T3, T4 và T5 ở
bộ phụ Tubulifera) không di chuyển, T3 (T3 và T4 ở bộ phụ Tubulifera) được gọi là
tiền nhộng và T4 (T4 và T5 ở bộ phụ Tubulifera) được gọi là nhộng. Kiểu biến thái
nầy tương tự như kiểu biến thái hoàn toàn vì cánh phát triển bên trong cơ thể vào giai
đoạn ấu trùng (T1 và T2) và có một giai đoạn bất động trước khi hóa trưởng thành.
Kiể
u biến thái nầy lại giống biến thái đơn giản vì ấu trùng T1 và T2 đã có mắt kép và
cánh đã xuất hiện bên ngoài cơ thể vào giai đoạn tiền nhộng.



Hình IV.7. Các giai đoạn ấu trùng và nhộng của nhóm Tubulifera (Bọ
trĩ- Thysanoptera). (ấu trùng tuổi 1 có độ lớn được phóng đại
gấp hai
lần so với các tuổi khác).



75


Hình IV. 8. Các giai đoạn ấu trùng của nhóm Terebrantia (Bọ trĩ -Thysanoptera).
(ấu trùng tuổi 1 được phóng đại gấp hai lần so với các tuổi khác).


* Biến thái của rầy phấn (Aleyrodidae)

Quá trình sinh trưởng phát triển gồm 5 giai đoạn, giai đoạn cuối là trưởng

thành. Ấu trùng T1 không cánh, có thể di chuyển, nhưng T2, T3 bất động, có dạng rệp
dính, T4 được gọi là nhộng với cánh phát triển bên ngoài cơ thể. Ba tuổi đầu tiên (T1,
T2, T3) thườ
ng được gọi là ấu trùng. Lần lột xác cuối để hóa nhộng được thực hiện
trong lớp da của ấu trùng tuổi cuối, tạo nên một nhộng bọc như ở bộ Hai cánh
(Diptera). Kiểu biến thái nầy gần giống như kiểu biến thái hoàn toàn, mặc dù đa số các
loài côn trùng thuộc bộ Homoptera có kiểu biến thái đơn giản.


76


Hình IV.9. Các giai đoạn phát triển của Aleyrodidae (Smith và ctv., 1997).


* Biến thái ở rệp dính (Coccoidea- Homoptera)

Các loài rệp dính cũng có kiểu biến thái tương tự như ở họ Aleyrodidae. Ấu
trùng T1 không cánh, hoạt động (di chuyển), còn những tuổi sau thì bất động và cố
định tại một chổ để chích hút, giai đoạn tiền trưởng thành có cánh lộ ra ngoài được gọi
là nhộng.

d - Biến thái Hypermetamorphosis (biến thái quá độ)

Đây là m
ột dạng của biến thái hoàn toàn nhưng trong đó các ấu trùng ở các tuổi
khác nhau không giống nhau: giai đoạn tuổi 1 hoạt động và có dạng chân chạy
(campodiform) nhưng ở các tuổi sau lại có dạng sâu, dòi (vermiform) hay dạng bọ
hung (carabaeiform). Kiểu biến thái quá độ này thường gặp ở nhóm côn trùng ký sinh,
giai đoạn tuổi 1 là giai đoạn sâu tìm kiếm ký chủ và khi đã tìm được và định cư trên ký

chủ thì sẽ lột xác thành ấu trùng ít hoạt động hơn. G
ặp ở các họ Meloidae,
Rhipiphoroidae (Coleoptera), Mantispidae (Neuroptera), Strepsiptera và ở một số ít
côn trùng thuộc bộ Hai cánh (Diptera) và Cánh màng (Hymenoptera).


77


Hình IV.10. Biến thái trung gian - Rệp dính Aonidiella aurantii
(Diaspididae- Homoptera) (Smith và ctv. ,1997)



2. Yếu tố điều khiển sự biến thái

Sự biến thái của côn trùng được điều khiển bởi ba hormone chính: hormone
não, hormone lột xác (ecdysone) và hormone sâu non (hormone juvenile). Hormone
nảo kích thích tuyến ngực trước tiết ra ecdysone cho phép côn trùng phát triển và lột
xác. Hormone juvenile giúp cho ấu trùng và nhộng phát triển, kìm hãm sự biến thái.
Nếu tiêm ecdysone vào phần bụng côn trùng đã tách riêng ra thì phần nầy sẽ lột xác.
Nếu lấy hormone juvenile ra khỏi ấ
u trùng (bằng cánh tách tuyến Corpora allata) ra sẽ
làm cho sâu non hóa nhộng. Tiêm ecdysone vào trong nhộng (khi có sự hiện diện của
Hormone juvenile) sẽ làm cho nhộng lột xác thành một nhộng thứ hai. Nếu tiêm
hormone juvenile vào ấu trùng tuổi cuối sẽ làm cho ấu trùng nầy tiếp tục lột xác thành
ấu trùng khác. Tuyến Corpora allata hoạt động mạnh vào giai đoạn tuổi nhỏ và
thường ngừng tiết hormone juvenile vào giai đoạn trước trưởng thành.

78

3. Sự biến đổi cơ cấu tổ chức trong cơ thể côn trùng vào giai đoạn biến thái
Ở kiểu biến thái đơn giản, sự thay đổi từ tuổi nầy sang tuổi khác vào giai đoạn
ấu trùng mang tính cánh dần dần và nhẹ nhàng. Nhưng ở kiểu biến thái hoàn toàn, có
một sự tổ chức cấu tạo cơ thể lại. Vào giai đoạn nhộng: ở giai đoạn
ấu trùng, một số cơ
quan như tim, hệ thần kinh thay đổi ít vào lúc biến thái, một số cơ quan khác hiện diện
rất thô sơ vào giai đoạn ấu trùng lại thình lình biến đổi rất nhiều vào giai đoạn nhộng
để sau đó biến thành thành trùng có hình dạng và cấu tạo rất khác với ấu trùng. Trong
kiểu biến thái nầy, người ta ghi nhận có nhiều bộ phận không hiện diện ở giai đoạn
ấu
trùng nhưng lại hiện diện ở giai đoạn thành trùng.
Những sự thay đổi vào giai đoạn biến thái được thực hiện bởi hai quá trình: quá
trình phá vỡ tổ chức (histolysis) và quá trình xây dựng tổ chức (histogenesis). Trong
quá trình phá vỡ tổ chức, một số tổ chức trong cơ thể của ấu trùng bị phá vỡ toàn bộ
hoặc một phần để sau đó xây dựng và hình thành lại các tổ chức tương
ứng với côn
trùng trưởng thành. Quá trình tổ chức lại là quá trình phát triển các cấu tạo của thành
trùng từ những sản phẩm sản sinh ra từ quá trình phá vỡ tổ chức. Nguồn vật chất chủ
yếu và cần thiết cho quá trình xây dựng tổ chức là máu, thể mở và các hệ cơ của ấu
trùng. Những sự thay đổi nầy đã được bắt đầu tiến hành vào giai đoạn ấu trùng tuổi
cu
ối, trước khi hóa nhộng; sự thay đổi đầu tiên được tiến hành ở tế bào nội bì
(epidermis), tế bào nội bì sẽ tiết ra các chất hình thành biểu bì của nhộng.
III. CÁC DẠNG ẤU TRÙNG VÀ NHỘNG CỦA CÔN TRÙNG THUỘC
KIỂU BIẾN THÁI HOÀN TOÀN

1. Các dạng ấu trùng

Ấu trùng của các bộ côn trùng thuộc kiểu biến thái hoàn toàn có hình dạng bên
ngoài rất khác biệt nhau, có thể ghi nhận một số dạng chính như sau:


a - Dạng nhiều chân

Cơ thể thường hình ống, đầu phát triển nhưng râu đầu rất ngắn, có cả chân ngực
và chân bụng. Gặp ở các bộ Lepidoptera, Mecoptera, và họ Ong ăn lá Tenthredinidae
của bộ Cánh màng (Hymenoptera.)




79


Hình IV.11. Sâu Attacus edwardsii Hình IV.12. Sâu họ ong ăn lá
Tenthredinidae
(Saturniidae-Lepidoptera) (Hymenoptera)



Hình IV.13. Một số dạng ấu trùng bộ Cánh vẩy

b - Dạng chân chạy (Campodeiform)

Cơ thể dài, thường dẹp, lông đuôi và râu đầu thường phát triển, chân ngực phát
triển, ấu trùng thường rất hoạt động. Gặp ở các bộ Neuroptera, Trichoptera và nhiều
loài thuộc bộ Coleoptera.

Hình IV.14. Ấu trùng họ Chân chạy (Carabidae)

c - Dạng sùng đất (Scarabaeiform)


80

Cơ thể thường uốn cong, đầu rất phát triển, có chân ngực nhưng không có chân
bụng, chậm chạp. Thường gặp ở họ Bọ hung (Scarabaeidae) thuộc bộ Coleoptera.





A B

Hình IV.15. Ấu trùng bọ Hung (sùng đất) (Coleoptera ) (A+B)


d - Dạng sâu thép

Cơ thể dài, tròn, cứng, chân ngắn, lông trên cơ thể gần như không có. Gặp ở họ
Elateridae thuộc bộ Coleoptera.


Hình IV.16. Thành trùng và ấu trùng (sâu thép) (Elateridae – Coleoptera)

e - Dạng ấu trùng không chân, dòi


81

A B
Hình IV.17. Dòi (ấu trùng của ruồi- Diptera) (A+B)





Hình IV.18. Ấu trùng không chân (Cerambycidae- Coleoptera)


Cơ thể ấu trùng dài, không chân, đầu kém phát triển hoặc thoái hóa. Thường
gặp ở các bộ Diptera, Siphonaptera và nhiều loài thuộc bộ Cánh màng và vài loài
thuộc bộ Coleoptera và bộ Lepidoptera.

2. Các dạng nhộng

Vào giai đoạn nhộng, côn trùng thường không cử động (trừ một số côn trùng
thuộc họ muỗi chỉ hồng (Chironomidae); họ muỗi năng (Cecidomyidae) và không ăn,
không thể bảo vệ mình trước những sự tấ
n công của kẻ thù vì vậy trước khi hóa nhộng
sâu non thường tìm nơi kín đáo, lợi dụng những vị trí có tác dụng bảo vệ thiên nhiên
để hóa nhộng. Nhiều loài côn trùng thuộc bộ Cánh vẩy, bộ Cánh cứng có thể chui
xuống đất xây tổ kén bằng đất hoặc nhả tơ dệt kén để nằm trong đó hóa nhộng. Căn cứ
vào đặc điểm hình thái, có thể chia nhộng thành ba dạng hình.

82

a - Nhộng trần (exarate)




Hình IV.19. Các dạng nhộng trần của xén tóc Hình IV.20. Nhộng trần Cylas

formicarius (Cerambycidae - Coleoptera)
(Curculionidae - Coleoptera)


Đặc điểm của dạng nhộng nầy là chi phụ và cánh không dính sát vào cơ thể.
Thường gặp ở hầu hết các loài côn trùng có biến thái hoàn toàn, trừ bộ Hai cánh
(Diptera) và phần lớn bộ Cánh vẩy (Lepidoptera).

b - Nhộng màng (obtect)

Với các chi phụ và cánh dính sát vào cơ thể, chủ yếu gặp ở bộ Cánh vẩy
(Lepidoptera) và mộ
t vài loài thuộc bộ Hai cánh (Diptera). Nhộng của nhiều loài bướm
lại thường được bao phủ bởi một kén bằng tơ.




83




Hình IV.21. Một số dạng nhộng màng của bộ Cánh vẩy (Lepidoptera)

c - Nhộng bọc (coarctate)
Giống như nhộng trần nhưng lớp biểu bì của ấu trùng tuổi cuối cùng không
được lột bỏ đi mà hình thành một vỏ cứng bao bọc lấy nhộng. Gặp ở bộ Hai cánh
(Diptera).






Hình IV.22. Nhộng bọc của ruồi (Diptera)

84
IV. SỰ LỘT XÁC VÀ SINH TRƯỞNG

1. Sự lột xác

Vỏ da bao bọc cơ thể côn trùng là sản phẩm của tế bào nội bì, và là một lớp da
cứng, rất ít co dãn, không thể lớn lên theo cùng sự phát triển của côn trùng, vì vậy để
phát triển lớn lên, côn trùng cần thiết phải lột bỏ lớp da cũ. Hiện tượng nầy được gọi là
sự lột xác. Số lần lột xác trong suốt quá trình phát triển của côn trùng thay đổi tùy theo
loài và tùy theo nhóm côn trùng, ngoài ra một s
ố điều kiện môi trường như nhiệt độ,
ẩm độ và thức ăn cũng ít nhiều ảnh hưởng đến sự lột xác. Phần lớn côn trùng lột xác từ
4-6 lần trước khi đi vào giai đoạn trưởng thành, ví dụ như bộ Cánh nửa cứng
(Hemiptera) lột xác 5 lần, sâu non bọ Cánh vẩy (Lepidoptera) từ 2-9 lần, bộ Phù du
(Ephemeroptera) trên 20 lần. Hầu hết các loài côn trùng thuộc lớp phụ có cánh
(Pterygota) vào giai đoạ
n trưởng thành thì không lột xác nữa, tuy vậy ở nhóm phù du
(Ephemeroptera), côn trùng vẫn lột xác sau khi hóa trưởng thành.

a - Tuổi sâu

Mỗi lần lột xác côn trùng được thêm một tuổi. Thường người ta qui định ấu
trùng từ trứng nở ra là tuổi 1 (T1), sau lần lột xác thứ 1, ấu trùng sẽ bước sang tuổi 2
(T2), và sau lần lột xác thứ 2, ấu trùng bước sang tuổi 3 (T3), v.v Tuổi sâu được tính

theo công thức n + 1 (n: số lần lột xác). Vậy tuổi sâu là khoảng th
ời gian giữa 2 lần lột
xác. Thời gian của từng tuổi cũng thay đổi tùy theo loài, có thể từ 1, 2 ngày như ở rầy
mềm Aphididae đến nhiều tháng như ở nhiều loài thuộc họ Bọ hung Scarabaeidae và
tùy theo điều kiện ngoại cảnh.

b - Cơ chế của sự lột xác

Cơ thế của sự lột xác chưa được biết rõ ràng, tuy nhiên nhiều tác giả cho rằng
sự
tách rời biểu bì mới ra khỏi lớp da cũ được thực hiện nhờ một dịch lột xác tiết ra từ
tế bào nội bì hoặc bởi tuyến lột xác của biểu bì, tuyến lột xác hoạt động trong suốt giai
đoạn ấu trùng và nhộng nhưng không hiện diện ở giai đoạn trưởng thành của ấu trùng
thuộc lớp phụ có cánh. Về cấu tạo của dịch l
ột xác thì Verson (1890) cho rằng dịch lột
xác của côn trùng chứa một dung dịch muối acid oxalic ở lần lột xác thứ 4 và acid uric
ở lần lột xác thứ nhất. Wigglesworth (1933) ghi nhận dịch lột xác của Rhodnius là một
dịch trung tính, có phản ứng màu với protein. Nhiều tác giả cũng ghi nhận sự lột xác
tiến hành được là nhờ chất hormone lột xác tiết ra từ phần đầu của côn trùng,
Wigglesworth (1934) cho rằng chất hormone nầy có thể tiết ra từ
tuyến Corpora
allata.

c- Tiến trình của sự lột xác


85
Trước khi lột xác, ấu trùng thường ngừng ăn, hoạt động chậm lại hoặc không
hoạt động, lúc nầy dưới lớp biểu bì cũ đã hình thành một lớp biểu bì mới. Khi tế bào
nội bì tách ra khỏi lớp biểu bì cũ thì dịch lột xác được tiết ra để phân giải protein, hòa

tan và tiêu hóa phần lớn biểu bì cũ, một phần chitine và protein của lớp biểu bì cũ sẽ
được hấ
p thụ trở lại để tạo nên một phần của lớp biểu bì mới.

Khi đã có lớp biểu bì mới, những phần trong của lớp biểu bì cũ chưa được hòa
tan, phân giải thì được lột bỏ đi, đồng thời những phần lỏm vào của biểu bì để tạo nên
ruột trước, ruột sau, khí quản và một số tuyến cũng bị lột bỏ theo. Khi l
ột xác, một
đường dọc ở mặt lưng của phần ngực và bụng nứt ra, đường nứt nầy nối liền với ngấn
lột xác ở đỉnh đầu. Dựa vào sự co dãn của hệ cơ, sự tăng huyết áp và hút thêm không
khí hoặc nước (đối với côn trùng sống trong nước) dồn từ phía sau lên phía đầu và
ngực làm cho lớp biểu bì cũ bị nứt ra dần dần toàn bộ c
ơ thể chui ra khỏi biểu bì cũ.



A B C
Hình IV.23. Tiến trình lột xác của sâu (Lepidoptera)
A: Cơ thể sâu thun lại, dịch lột xác xuất hiện, cùng với sự tách rời của lớp da cũ
B và C: Sâu co thắt cơ thể để chui ra khỏi lớp da cũ.



Hình IV.24. Sâu non (họ Lymantriidae) vừa lột xác với sự hiện diện của lớp vỏ da cũ
bên cạnh

Côn trùng khi vừa lột xác, da mềm, màu nhạt là do lớp biểu bì ngoài chưa được
hình thành hoàn chỉnh. Chỉ sau một thời gian nhất định, khi các protein biến tính kết
hợp với các chất orthoquinone để tạo nên chất slerotine thì biểu bì mới trở nên cứng và
có màu sắc hoàn chỉnh.


86

2. Sự phát triển và chu kỳ sinh trưởng

a- Sự phát triển

Ấu trùng sau mỗi lần lột xác, sinh trưởng và lớn lên rất mạnh, nhất là đối với
sâu non của bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) và bộ Cánh cứng (Coleoptera). Người ta ghi
nhận ở loài ngài đục gỗ (Cossus cossus), khi mới nở, trọng lượng chỉ bằng 1/12000 lần
trọng lượng lúc sâu non sắp hoàn thành giai đoạn ấu trùng, các loài tằm nói chung có
thể tăng 9.100 - 10.500 l
ần so với lúc đầu, hoặc sâu non của ngài nhộng vòi Sphinx
ligustre (Sphingidae) vào giai đoạn tuổi cuối có thể tăng đến 9.976 lần so với tuổi 1
lúc vừa mới nở.
b - Chu kỳ sinh trưởng

Toàn bộ chu kỳ bắt đầu từ trứng đến khi côn trùng trưởng thành bắt đầu đẻ
trứng đầu tiên được gọi là vòng đời hay chu kỳ sinh trưởng. Thời gian của một vòng
đời bằng tổng số
thời gian sinh trưởng phát dục của trứng, ấu trùng, nhộng (nếu thuộc
nhóm biến thái hoàn toàn), trưởng thành đẻ trứng đầu tiên.

Thời gian của một vòng đời ngắn hay dài tùy thuộc từng loài và chịu sự chi
phối của các điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, ẩm độ, mưa, gió, ánh sáng, thức ăn,

Tại vùng ôn đới, phần lớn côn trùng có chu kỳ sinh trưởng mang tính động thái
không đều (heterodynamic) có nghĩa là thành trùng ch
ỉ xuất hiện một thời gian ngắn
trong một mùa nào đó, và trong quá trình phát triển, một số giai đoạn sẽ trãi qua giai

đoạn ngừng phát dục, giai đoạn nầy có thể là giai đoạn trứng, như thường gặp ở các bộ
Orthoptera, Homoptera, hoặc ở giai đoạn ấu trùng như đa số các loài chuồn chuồn và
bộ Cánh vẩy (Lepidoptera) vì vậy thời gian phát triển của một vòng đời thường kéo
dài hàng năm hoặc nhiều năm. Trái lại ở vùng nhiệt đới, chu kỳ phát triển chủ yếu
mang tính động thái đều (homodynamic), có nghĩa là côn trùng có sự phát triển liên
tục và không có trạng thái ngừng phát dục (diapause) hoặc tiềm sinh, vì vậy tại vùng
nhiệt đới chu kỳ sinh trưởng thường ngắn, đa số côn trùng có nhiều thế hệ trong một
năm. Ví dụ như rầy mềm (Aphididae), có thể có từ 20-30 thế hệ trong một năm; r
ầy
nâu (Delphacidae) có từ 8-10 thế hệ, sâu đục thân 6-8 thế hệ.

V. TÍNH ĂN CỦA CÔN TRÙNG TRÊN THỰC VẬT

Côn trùng có thể tấn công trên thực vật bằng nhiều cách khác nhau và tất cả các
bộ phận của cây trồng đều có thể bị côn trùng gây hại. Triệu chứng cây bị hại và mức
độ thiệt hại tùy thuộc vào các đặc tính hình thái (khẩu biện) sinh lý, các giai đoạn phát
triển và tập quán sinh sống của từng nhóm côn trùng.

87

- Côn trùng kiểu miệng nhai như bộ Cánh thẳng (Orthoptera), ấu trùng bộ
Cánh vẩy (Lepidoptera) và bộ Cánh màng (Hymenoptera), khi ăn phá trên cây trồng
thường gây ra những tổn thương cơ giới, nhóm nầy có thể tấn công trên nhiều bộ phận
của cây nhưng đa số gây hại trên lá, lá bị hại nhiều khi chỉ còn gân lá, hoặc bị cắn lủng
từng lỗ, hoặc bị ăn hoàn toàn nếu ấu trùng ở vào giai đoạ
n tuổi lớn; những côn trùng
có kích thước nhỏ có thể chỉ gặm một phần của biểu bì hoặc ăn phần xanh giữa các
gân lá, nhưng những con có kích thước lớn hơn có thể ăn toàn bộ lá.

- Côn trùng kiểu miệng hút hoặc chích hút cũng có thể tấn công trên nhiều

bộ phận của cây làm các bộ phận bị chích hút biến dạng, khô, héo, úa vàng. Cây bị côn
trùng chích hút phá hại thường khó phát hiện thấy ở bên ngoài, thường
ở các vết chích
có những đốm nhỏ (nâu, vàng, đỏ, đen, ). Nếu chích thân cành cũng có thể làm cho
cành khô và chết, cây phát triển kém, còi cọc.
Côn trùng kiểu miệng chích hút bao gồm các loài rầy, bọ xít, các loài rệp
dính, những loài nầy mặc dù kích thước rất nhỏ nhưng có thể hiện diện với mật số
rất cao, bám vào vỏ cây, vỏ cành, cuống trái, để chích hút, từ đó có thể làm cho các
bộ phận nầy bị chết khô đi. Rầy mề
m khi tấn công trên đọt non, lá non có thể làm cho
đọt và lá biến dạng cong queo, nếu chích trên trái non có thể làm cho trái bị còi và
rụng.
Có nhiều loài côn trùng lại sinh sống và tấn công chủ yếu bên trong mô cây
bằng cách đục lòn trong lá, đục cành, thân, rễ và trái. Chỉ riêng tại Hoa Kỳ đã có trên
750 loài côn trùng đục lòn trong lá thuộc bộ Cánh vẩy (400 loài thuộc 17 họ), bộ 2
cánh (300 loài thuộc 4 họ), bộ Cánh màng (chủ yếu ở phụ bộ Symphyta thuộc nhóm
ong ăn lá), bộ Cánh cứng (khoảng 50 loài thuộc các họ Chrysomelidae, Buprestidae và
Curculionidae).
R
ất nhiều loài côn trùng, chủ yếu là ấu trùng của các loài ngài bộ Cánh vảy
(Lepidoptera) và bộ Cánh cứng (Coleoptera) đục vào thân, cành và có thể làm cho thân
cành sau đó bị chết. Một số loài khác như ấu trùng của các loài ngài, ruồi và cánh cứng
cũng có thể đục trái, hạt. Bên cạnh đó, những loài cây thân gỗ, đa niên cũng thường
xuyên bị các loài côn trùng thuộc bộ Cánh cứng tấn công như Cerambycidae,
Buprestidae, Scolytidae, Curculionidae, và một số loài sâu thuộc bộ Cánh vẩy
(Cossidae), kiến và mối đục vào trong phầ
n gỗ.
Nhiều loài côn trùng khi cắn phá hoặc chích hút trên cây trồng còn tiết ra
những hóa chất độc vào cây làm cây phát triển không bình thường và có thể gây ra
những mụt, bướu. Bướu có thể hiện diện trên các bộ phận khác nhau của cây, côn

trùng gây bướu thuộc các nhóm khác nhau, có thể tạo bướu có hình dạng và ở các vị trí
khác nhau, trên từng loài cây khác nhau. Mỗi bướu có thể chứa từ một đến nhiều côn
trùng. Trong một số trường hợp khác, tác động đẻ trứng vào mô cây cũng gây ra s

kích thích từ đó đã gây ra sự tạo thành bướu. Bướu của một số loài côn trùng thường
có một lỗ thông ra với bên ngoài (bộ Cánh đều hoặc nhện đỏ) hoặc hoàn toàn kín
không có lỗ thông với bên ngoài (như ấu trùng bộ Cánh vẩy). Có tất cả 5 bộ thuộc lớp
côn trùng có thể gây ra hiện tượng bướu trên cây: bộ Diptera (chủ yếu là họ
Cecidomyidae, Tephritidae, và Agromyzidae), bộ Hymenoptera (với các họ như
Cynipidae, một vài loài thuộc tổng h
ọ Chalcidoidae và họ Tenthredinidae), bộ

88
Coleoptera (vài loài thuộc họ Curculionidae, Buprestidae và Cerambycidae), bộ
Lepidoptera và bộ Homoptera (như một số rầy mềm, rệp Coccids, ). Ngoài ra bướu
trên cây cũng có thể gây ra bởi nhện đỏ, tuyến trùng hay nấm.



A B
Hình IV.25. Xén tóc (Cerambycidae) đục cành (A) và triệu chứng chết cành
(B)



Hình IV.26. Triệu chứng cành bị gãy do Hình IV.27. Triệu chứng gây hại của sâu
xén tóc (Cerambycidae) đục thân bắp Pyrausta nubilalis


89


A B
Hình IV.28. Dòi đục trái xoài Bactrocera dorsalis (A: triệu chứng – B: dòi)



A B
Hình IV.29. Triệu chứng bị hại do dòi đục trái Bactrocera sp. (A + B)



Hình IV.30. Sâu đục trái xoài và Hình IV.31. Lá bị ghẻ (mụt) do
Psyllidae
triệu chứng (Homoptera)



90


Hình IV.32. Triệu chứng do Hình IV.33. Triệu chứng trái cam bị rụng
do
bọ trĩ (Thysanoptera ) bọ xít (Smith và ctv, 1997)





Hình IV.34. Triệu chứng lá Hành bị Hình IV.35. Triệu chứng lá Dừa bị
hại do

hại do sâu ăn lá (Lepidoptera) Kiến Vương (Scarabaeidae -
Coleoptera)


91

×