Một số vấn đề về:
Vận dụng phơng pháp tích hợp
trong môn ngữ văn
I.Đặt vấn đề:
Môn Ngữ Văn trớc hết là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó
nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, t tởng, tình cảm cho
học sinh. Môn Ngữ Văn còn là một môn học thuộc nhóm công cụ. Điều đó nói lên
mối quan hệ giữa Ngữ Văn và các môn khác. Học môn Ngữ Văn sẽ có tác động tích
cực đến kết quả học tập các môn khác và các môn khác cũng góp phần giúp học tốt
môn Ngữ Văn. Cho nên tự nó cũng toát nên yêu cầu tăng cờng tính thực hành giảm
lý thuyết gắn với đời sống.
Xuất phát từ những căn cứ đó, chơng trình đã nêu mục tiêu tổng quát của môn
ngữ văn: Môn Ngữ Văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của tr-
ờng trung học cơ sở: góp phần hình thành những con ngời có trình độ học vấn phổ
thông cơ sở, chuẩn bị cho họ tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Đó là những con ngời
có ý tức tự tu dỡng, biết thơng yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nớc,
yêu chủ nghĩa xã hội, biết hớng tới những t tởng, tình cảm cao đẹp nh lòng nhân ái,
tinh thần tôn trọng lẽ phải sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những
con ngời biết rèn luyện để có tính tự lập, có t duy sáng tạo, bớc đầu có năng lực cảm
thụ các giá trị chân, thiện, mỹ, cho nghệ thuật, trớc hết là trong văn học, có năng
lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt nh một công cụ để t duy và giao tiếp.
Đó cũng là những ngời có ham muốm đem tài trí của mình cống hiến cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tơng lai để hớng con ngời tới các mục tiêu trên thì
đối với các môn khác, vấn đề tên gọi tên môn học có lẽ không cần đặt ra, nhng đối
với môn này tên gọi ấy thể hiện một cách nổi bật một trong những điểm cải tiến căn
bản của việc xây dựng chơng trình lần này là quan điểm tích hợp, nếu trớc đây ta
thờng nói tới ba phân môn :Văn học Tiếng Việt Tập làm văn thì hiện nay theo
quan điểm tích hợp triệt để ranh giới giữa ba phân môn ấy sẽ còn nữa mà thực sự sáp
nhập là một . Cho nên việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc
dạy các tri thức, kỹ năng riêng của từng phân môn.Vấn đề là làm thế nào phối hợp
các tri thức, kĩ năng thuộc từng phân môn thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu
chung của môn Ngữ Văn .
II. giải quyết vấn đề .
Trớc hết về kiến thức yêu cầu học sinh nắm đợc những đặc điểm hình thức và ngữ
nghĩa của các loại đơn vị tiêu biểu của từng bộ phận cấu thành tiếng Việt, những tri
thức về ngữ cảnh, về ý định, về mục đích, hiệu quả giao tiếp, nắm đơc quy tắc chi
phối việc sử dụng Tiếng Việt để giao tiếp trong nhà trờng cũng nh ngoài xã hội .
Còn đối với văn bản phải nắm đợc đặc điểm về văn bản tự sự, văn bản miêu tả,
văn bản biểu cảm, văn bản nhật dụng đồng thời nắm đ ợc những tri thức thuộc
cách thức hình hội và tạo lập các kiểu văn bản đó.
Nếu trớc đây chơng trình sách giáo khoa thiên về dạy lý thuyết và dạy quá hệ
thống thì nay chơng trình nhấn mạnh :trọng tâm của việc rèn luyện là rèn luyện kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt khá thành thạo theo các kiểu văn bản và có kỹ
năng sơ giản về phân tích tác phẩm văn học, bớc đầu có năng lực cảm nhận và bình
giá văn học, đồng thơì nâng cao ý thức giữ gìn sự giàu đẹp của Tiếng Việt và tinh
thần yêu quý các thành tựu của văn học dân tộc và văn học thế giới, xây dựng hứng
thú và thái độ nghiêm túc, khoa học trong việc học tập tiếng Việt và văn học, có ý
thức và biết cách ứng xử, giao tiếp trong gia đình, trong trừơng học và ngoài xã hội
một cách có văn hoá ;yêu quý những giá trị chân thiện mĩ và khinh ghét những cái
xấu xa, độc ác, giả dối đợc phản ánh trong các văn bàn đã học và đã đọc.
Về vấn đề phơng pháp: để tích hợp một cách có hệ thống học sinh dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ vận dụng thì ngời giáo viên đứng lớp phải biêt thực hiện mọi yêu cầu một
cách linh hoạt và sáng tạo mà mấu chốt của sự sáng tạo đó là luôn suy nghĩ về mục
tiêu của bộ môn Ngữ văn nói chung để tìm ra những yếu tố đồng quy giữa ba phân
môn thích hợp trong từng thời điểm, theo từng vấn đề .
Tích hợp trong từng thời điểm (một tiết học, một bài học ) là tích hợp ngang .
Ví dụ:khi giảng văn bản Vợt thác của nhà văn Võ Quảng trong sách giáo khoa
Ngữ Văn 6 tập hai giáo viên cần triệt để khai thác mối liên hệ mật thiết giữa văn bản
và hai vấn đề đang dạy ở phần tiếng Việt và phần Tập làm văn là phép so sánh và ph-
ơng pháp tả cảnh ở bài đó .
Giáo viên có thể đặt câu hỏi qua chi tiết miêu tả cảnh thiên nhiên em có nhận
xét về nghệ thật miêu tả cảnh của tác giả ?
Ngời viết: Nguyễn Thị Lan Anh
Trờng THCS Giao Hà
2
Em chỉ ra nghệ thuật nhân hoá và so soánh ?
Em hiểu thế nào là cổ thụ , mãnh liệt
- Từ Hán Việt
Qua cách miêu tả của nhà văn em cảm nhận gì về hình ảnh cây cổ thụ?
Nêu nhận xét của em về bức tranh thiên nhiên đó. Nh vậy với hệ thống câu hỏi đó
học sinh hiểu bài sâu và thấy đợc trong bài đó nhà văn Võ Quảng tả cảnh rất hay và
sử dụng phép tu từ so sánh, nhân hoá rất thành công .Nhng đồng thời giáo viên phải
cho học sinh tìm hiểu kĩ phần chú thích để thấy đợc cách giải thích từ Hán Việt
trong bài dĩ nhiên không thể áp dụng một cách máy móc ở bộ phận văn học dân gian
và văn học dịch
Tích hợp theo từng vấn đề
Ví dụ phần Tiếng Việt đang dạy phép so sánh thì ở phần văn học có cần phân tích
hình tợng tợng Hơng Th nh một pho tợng đồng đúc nữa không? Dĩ nhiên, không
phải bao giờ cũng cần và cũng có thể phân tích toàn bộ phép tu từ đợc sử dụng trong
một tác phẩm song những chỗ cần đề cập để làm rõ giá trị nghệ thuật thì không thể
bỏ qua, còn phần Tiếng Việt trên cơ sở đó mở rộng, đi sâu hơn.
- Tìm phép so sánh trong câu văn trên? sự vật nào đợc so sánh với sự vật nào?
- Tác giả sử dụng phép so sánh đó nhằm mục đích gì?
Nh vậy tích hợp theo từng vấn đề lại còn bao hàm cả tích hợp dọc. Nội dung
đang giảng dạy ở một phân môn còn có liên hệ đến các nội dung khác đã học ở hai
phân môn kia hoặc ở phân môn đó.
Đối với kiến thức đã dạy cần lợi dụng cơ hội này để củng cố ôn tập, đồng thời
qua đó rèn luyện cho học sinh ý thức và kĩ năng vận dụng mọi kiến thức đã học để
sử lý các vấn đề trớc mắt.
Đối với kiến thức dạy có thể giới thiệu ở chừng mực cần thiết cho sự hiểu biết tối
thiểu về khía cạnh đang đề cập, đồng thời qua đó khơi gợi trí tò mò, tinh thần ham
hiểu biết của thế hệ trẻ và đặt cơ sở thuận lợi cho việc trình bày kiến thức sẽ học ở
sau.
Quan điểm tích hợp phải quán triệt trong mọi khâu, kể cả khâu đánh giá. Có thể
có những bài tập riêng cho từng phân môn song chúng ta cần đánh giá cao những
học sinh biết sử dụng kiến thức của phân môn này để giải quyết vấn đề của phân
môn khác.
Cùng với một số bài tập về văn học nh trớc đây, ngoài những tri thức và kĩ năng
có tính chuyên ngành, chúng ta phải đánh giá chặt chẽ hơn về thao tác làm các kiểu
3
bài, về cách vận dụng lý thuyết và quy tắc của Tiếng Việt trong việc đặt câu, dùng
từ đặc biệt về trình độ tiếp cận và vận dụng các vấn đề của Tiếng Việt và tập làm văn
trong thời gian đó hoặc thời gian trớc đó.Bên cạnh việc tích hợp thì giáo viên còn
phải phát huy tính tích cực của học sinh, tính sáng tạo, chủ thể học tập ở tất cả mọi
khâu: từ việc chuẩn bị bài, su tập t liệu, phát biểu trong tổ, nhóm tự đánh giá và
đánh giá bạn, tham quan, hoạt động thực tế theo đặc trng bộ môn.
Đối với phân môn văn học cần làm cho học sinh chủ động tiếp cận tác phẩm theo
hớng đọc hiểu, suy ngẫm- vận dụng, liên tởng tích luỹ, khả năng đọc hiểu (bao
gồm cả cảm thụ ) một tác phẩm văn chơng lệ thuộc không ít vào việc có thể trả lời đ-
ợc không những câu hỏi đặt ra ở những cấp độ khác nhau. Mức thấp nhất là chỉ cần
sử dụng những thông tin đã có ngay trong văn bản. Đó là những câu hỏi đã có sẵn
trong bài
Ví dụ: khi giảng bài Bài học đờng đời đầu tiên thì giáo viên đặt câu hỏi phát hiện
- Em tìm những chi tiết miêu tả về chàng Dế Mèn ?
Học sinh sẽ tự phát hiện ngay trong văn bản.
Còn ở mức cao hơn là buộc học sinh phải suy nghĩ và sử dụng những thông tin trong
bài. Đó là trờng hợp phải suy ra câu trả lời từ những đầu mối trong văn bản.
Ví dụ: Cách xng hô chú mày với anh giữa Dế Choắt và Dế Mèn gợi cho em suy
nghĩ gì trong văn bản Bài học đờng đời đầu tiên ?
Cao hơn nữa là yêu cầu khái quát, liên hệ giữa những cái mà học sinh đã học với thế
giới bên ngoài bài học.
Ví dụ: Qua cách đối xử của Dế Mèn với Dế Choắt thì Dế Mèn đã rút ra bài học gì
trong cuộc sống?
- Câu chuyện này tác giả muốn khuyên răn chúng ta điều gì?
Học sinh tự rút ra bài học gì cho bản thân.
Sau một loạt hệ thống câu hỏi cuối bài phần luyện tập hoặc ngay trong phần đọc
hiểu giáo viên có thể rút ra câu hỏi cho tổ, nhóm khác nêu nhận xét ý kiến của
mình. Cuối cùng giáo viên kết luận cho điểm tổ, nhóm, cá nhân
Ví dụ: trong văn bản Bài học đờng đời đầu tiên của Tô Hoài. Sau khi đã học xong
đoạn trích xem hãy viết một đoạn văn diễn tả lại tâm trạng của Dế Mèn khi chôn cất
Dế Choắt?
Giáo viên cho học sinh thảo luận viết một đoạn văn sau đó cử đại diện nhóm tr-
ởng trình bày, nhóm khác chú ý. Giáo viên kết luận cho điểm.
Ngời viết: Nguyễn Thị Lan Anh
Trờng THCS Giao Hà
4
Khám phá văn bản theo chiều hớng ấy thì học sinh không chỉ hứng thú, hiểu sâu văn
bản mà còn liên hệ đợc một cách sinh động, tự nhiên việc học văn với những vấn đề
cuộc sống.
Bên cạnh các văn bản đợc giảng tại lớp, có một số văn bản, tuy cũng đợc chú
thích và hớng dẫn kĩ lỡng song dành cho học sinh học ở nhà. Nếu cần giáo viên có
thể nhấn mạnh một vài trọng điểm để gợi ý thêm. Cần nhắc học sinh có thể nằm
trong phạm vi nội dung của các đề kiểm tra và đề thi, kể cả các đề thi cuối cấp.
Đối với việc dạy Tiếng Việt và Tập làm văn, việc phân tích mẫu và học theo mẫu
đóng vai trò quan trọng theo hớng phát huy tích cực của chủ thể, cần u tiên sử dụng
phơng pháp quy nạp trong việc phân tích mẫu để rút ra kết luận. Tuy nhiên dù cho
mẫu chọn tốt đến mấy cũng không bao giờ phản ánh hết thực tiễn phong phú và đa
dạng. Cần cho học sinh tham gia tối đa vào quá trình su tầm, tập hợp để xử lý thông
tin rút ra các kết luận, quy tắc định nghĩa. Cần biết cận trọng trong việc sử dụng
phép quy nạp và chỉ cho học sinh biết giới hạn của nó, cần tránh lối kết luận giản
đơn và khái quát hoá cực đoan trong việc sử dụng phép qui nạp và biết dùng đúng
chỗ, đúng mức mọi phơng pháp khi cần thiết.
Giáo viên đóng vai trò là ngời hớng dẫn tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi
học sinh đều đợc hoạt động , đợc bộc lộ mình và đợc phát triển. Hoạt động đầu
tiên là phân tích mẫu, mẫu là ngữ liệu điển hình (từ, câu, đoạn văn) đợc trích chủ
yếu từ các văn bản học sinh đã học ở phân môn Văn học. Các mẫu này đợc lựa
chọn theo phơng châm càng ngắn gọn càng dễ thể hiện đợc đầy đủ đặc điểm của
hiện tợng hoặc đơn vị ngôn ngữ dạy trong tiết học càng tốt.
Giáo viên có thể tổ chức việc phân tích mẫu theo trình tự các câu hỏi trong sách
giáo khoa.
Ví dụ: Khi dạy về danh từ sau khi cho học sinh đọc bài tập (Ví dụ) giáo viên đặt
câu hỏi : Em hãy nhớ lại kiển thức bậc tiểu học tìm danh từ trong câu văn, đoạn
văn, trên thì học sinh dễ nhận ra.
Sau khi phân tích mẫu, giáo viên giúp các em suy ra những kết luận cơ bản
nhất nêu trong phần ghi trên. Cũng có khi, giáo viên không cần chờ học sinh trả
lời xong tất cả các câu hỏi hoặc thực hiện xong tất cả các lệnh đợc rút ra kết luận,
mà có thể hớng dẫn các em rút ra kết luận sau mỗi lần trả lời một câu hỏi thực
hiện một lệnh nhất định.
Ví dụ: Sau khi chỉ ra đợc các danh từ trong câu văn, đoạn văn. Giáo viên tự cho
học sinh rút ra khái niệm về danh từ luôn.
5
- Qua đó em cho biết thế nào là danh từ?
- Học sinh tự rút ra đợc.
Hoạt động thứ hai là hoạt động thực hành nhận diện hoặc phân tích giá trị biểu
hiện của các hiện tợng, đơn vị ngôn ngữ, thực hành dùng từ, đặt câu, dựng đoạn,
chữa lỗi về từ, câu và đoạn văn.
Ví dụ: Bài về danh từ yêu cầu học sinh:
- Em tìm một số danh từ chỉ sự vật, hiện tợng, khái niệm sau đó đặt câu hỏi
với mỗi danh từ đó.
Một hoạt động trong nhà trờng nói riêng là trao đổi, giáo viên cần khuyến khích
học sinh thảo luận và thực hiện hoạt động này theo quan hệ thầy trò, trò
thầy, trò trò; Khắc phục tình trạng suốt giờ học chỉ có thầy hỏi, trò trả lời đơn
điệu và thiếu dân chủ.
Ví dụ: Giáo viên viết ví dụ vào bảng phụ yêu cầu học sinh đọc sau đó đặt câu hỏi
cho học sinh thảo luận theo nhóm tổ, nhóm, theo lớp. Gọi đại diện nhóm trình bày,
đại diện nhóm khác nhận xét, nêu ý kiến. Cuối cùng giáo viên tổng hợp lại cho
điểm.
Thông thờng khi gặp những bài tập tích hợp mẫu thực hành có yêu cầu thống
kê, phân tích ngữ liệu cụ thể giáo viên nên để mỗi học sinh làm việc độc lập, còn
khi gặp những câu hỏi có tính khái quát, tổng hợp thì nên tổ chức hoạt động theo
nhóm. Phơng pháp dạy học này sẽ phát huy tính tích cực của học sinh, gây hứng
thú cho các em nâng các em lên một lần nhận thức mới.
Còn đối với phân môn Tập làm văn đóng vai trò quan trọng trong việc cung
cấp tri thức cơ bản về các kiểu văn bản hình thành kỹ năng nói (kể chuyện, tóm
tắt), hiểu khái quát về văn bản và bố cục của nó. Bản thân tập làm văn là môn hoạt
động tích hợp, tích hợp tri thức văn bản đọc hiểu và tiếng Việt vào việc tạo lập văn
bản mới. Học sinh không chỉ biết phân tích mà còn phải biết học theo mẫu. Đừng
nghĩ học theo mẫu là không phát huy đợc tính tích cực. Phải động não mới thấy đợc
cái hay của mẫu, mới nắm đợc quy cách, thể thức cần rút ra từ các mẫu, rồi từ đó
mới có thể học theo mẫu một cách sáng tạo. Cũng cần đặt học sinh vào tình huống
để học sinh hứng thú học tập, có dịp tự giác trình bày ý kiến, tình cảm một cách
chân thật, song những tình huống đó phải là tình huống có ý nghĩa không phải cái
cớ hoặc thủ thuật để dẫn dắt học sinh học tập.
Ví dụ khi tím hiểu về bản tự sự giáo viên phải rèn luyên kỹ nang kể lại bằng ngôn
ngữ của mình.
Ngời viết: Nguyễn Thị Lan Anh
Trờng THCS Giao Hà
6
- Em hãy kể lại câu chuyện Thánh Gióng bằng ngôn ngữ của em?.
Trên cơ sở giáo viên phải cung cấp kiến thức về nhân vật, việc bố cục, lời văn, đoạn
văn, ngôi kể, thứ tự kể, tự sự đời thờng, tự sự tởng tợng, sáng tạo. Các kiến thức
đó là điều kiện cho học sinh năm đợc nhiều khả năng biến hoá tự sự, mặt khác
cũng tác động ngợc trở lại giúp học sinh học tốt phần đọc hiểu văn bản tự sự
trong chơng trình Ngữ văn 6. Những điều chú ý là thực hành xây dựng bài qua thực
hành, thực hành nhận biết và làm văn bản. Chơng trình chú trọng phần luyên nói
(Hoạt động Ngữ văn, thi kể truyện, làm thơ). Mục đích của nhngx tiết này là tạo
điều kiện cho học sinh thói quen bạo dạn phát biểu miệng tróc tập thể. Tiết trả bài
yêu cầu tổng hợp: Lập ý, dàn bài, sửa lỗi ngữ pháp, dùng từ vàchính tả.
Về vấn đề kiểm tra - đánh giá giáo viên có thể kiểm tra đánh giá hàng ngày, kiểm
tra bài cũ, kiểm tra đánh giá kết quả làm việc trên lớp.
Kiểm tra đánh giá học kỳ, cuối năm học.
Kiểm tra đánh giá của thầy đối với trò.
Hoạt động tự kiểm tra, đánh giá của học sinh.
Việc kiểm tra đánh giá cuối học kỳ, cuối năm học giáo viên căn cứ vào yêu cầu cụ
thể của công việc mà định hình thức kiểm tra.
Ví dụ: Yêu cầu của môn Ngữ văn là tích hợp thì khi ra đề giáo viên cũng.
Phải ra đề tích hợp ba phân môn Văn Tiếng Việt Tập làm văn theo hình thức
trắc nghiệm và tự luận để kiểm tra tổng hợp kiến thức học sinh, và lợng kiến thức
phải ra trong cả học kỳ hoặc cả năm học. Đây chính là cách đổi mới trong chơng
trình sách Ngữ văn 6.
Còn về vấn đề trang thiết bị, đồ dùng dạy học để đóng góp cải tiến phơng pháp
theo hớng tích cực và tích hợp có thể sử dụng các t liệu đồ dùng dạy học phổ biến,
thích hợp. Cần khai thác tốt sách t liệu tham khảo trong th viện trờng, cần phát huy
tác dụng của kênh hình qua phần minh hoạ trong sách giáo khoa, qua bộ tranh t liệu
văn học của Trung tâm bản đồ và tranh ảnh giáo dục, qua các băng hình của Trung
tâm nghe nhìn giáo dục, hớng dẫn học sinh xem vô tuyến truyền hình, nghe dân ca
hoặc tổ chức vẽ theo những đề tài gắn với những tác phẩm văn học.
Ví dụ: Vẽ một bức tranh minh hoạ cho truyện Thạch Sanh, em chọn chi tiết nào
và đặt tên cho bức tranh minh hoạ ấy?.
Ngoài ra giáo viên còn có thể dùng máy chiếu, hoặc bảng phụ để ghi ví dụ. Học
sinh theo dõi trả lời các câu hỏi do giáo viên dẫn dắt gợi mở.
7
III. kết thúc vấn đề:
Môn Ngữ Văn có vị trí đặc biệt trong việc thực hiện mục tiêu chung của trờng
trung học cơ sở: góp phần hình thành những con ngời có trình độ học vấn phổ thông
cơ sở, chuẩn bị cho họ tiếp tục học lên bậc học cao hơn. Đó là những con ngời có ý
tức tự tu dỡng, biết thơng yêu quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nớc, yêu chủ
nghĩa xã hội, biết hớng tới những t tởng, tình cảm cao đẹp nh lòng nhân ái, tinh
thần tôn trọng lẽ phải sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con
ngời biết rèn luyện để có tính tự lập, có t duy sáng tạo, bớc đầu có năng lực cảm thụ
các giá trị chân, thiện, mỹ, cho nghệ thuật, trớc hết là trong văn học, có năng lực
thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt nh một công cụ để t duy và giao tiếp. đối
với các môn khác, vấn đề tên gọi tên môn học có lẽ không cần đặt ra, nhng đối với
môn này tên gọi ấy thể hiện một cách nổi bật một trong những điểm cải tiến căn bản
của việc xây dựng chơng trình lần này là quan điểm tích hợp, nếu trớc đây ta thờng
nói tới ba phân môn :Văn học Tiếng Việt Tập làm văn thì hiện nay theo quan
điểm tích hợp triệt để ranh giới giữa ba phân môn ấy sẽ còn nữa mà thực sự sáp nhập
là một . Cho nên việc giảng dạy theo quan điểm tích hợp không phủ định việc dạy
các tri thức, kỹ năng riêng của từng phân môn.Vấn đề là làm thế nào phối hợp các tri
thức, kĩ năng thuộc từng phân môn thật nhuần nhuyễn nhằm đạt tới mục tiêu chung
của môn Ngữ Văn .
Trên đây là những trao đổi về việc vận dụng phơng pháp dạy học tích hợp trong
chơng trình Ngữ văn mà bản thân tôi đã rút ra từ quá trình giảng dạy, rất mong nhận
đợc sự đóng góp ý kiến của các bạn bè đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm
của tôi đợc hoàn thiện hơn nữa
Giao Hà, ngày 10 tháng 3 năm 20
Ngời viết
Nguyễn thị lan anh
Ngời viết: Nguyễn Thị Lan Anh
Trờng THCS Giao Hà
8