Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Vì sao nhiên liệu sinh học chưa được quan tâm ở nước ta? pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.95 KB, 27 trang )



Vì sao nhiên liệu sinh
học chưa được quan
tâm ở nước ta?



PGS-TS Đỗ Huy
Định - ủy viên Hội
đồng quản trị Công
ty APP, thành viên
Hội đồng Chính sách Khoa học
và Công nghệ (KH&CN) Quốc
gia là một nhà khoa học rất say
sưa, tâm huyết và đã có nhiều
nghiên cứu về nhiên liệu sinh h
ọc


(NLSH) trên thế giới và tại Việt
Nam. Tháng 6.2004, ông đã đề
xuất với Chính phủ Đề án phát
triển NLSH tại Việt Nam. NLSH
- vấn đề đang được quan tâm
hiện nay trên thế giới nhưng vì
sao chưa được quan tâm đúng
mức ở nước ta và những chính
sách, tháo gỡ cần thiết để phát
triển nguồn năng lượng sạch này
là nội dung mà ông mu


ốn chuyển
tải tới bạn đọc.

An ninh năng lượng và biến đổi
khí hậu - mối lo của toàn cầu

Các hội nghị quốc tế hay khu vực
trong thời gian qua đã đề cập rất
nhiều đến vấn đề an ninh năng
lượng. Việc đảm bảo nguồn năng
lượng dài hạn thay thế năng lượng
hoá thạch ngày càng trở nên cấp
thiết, nhất là khi dầu mỏ đang cạn
dần và trở nên đắt đỏ. Sự gia tăng
dân số, tăng trưởng kinh tế, gia
tăng năng lượng phục vụ đời sống
ngày một cao kéo theo nhu cầu về
năng lượng ngày càng tăng, dẫn
đến tình trạng môi trường tự nhiên
ngày một xấu đi. Hiện tượng khí
hậu toàn cầu đang nóng dần lên là
một trong những thách thức lớn
nhất của toàn nhân lo
ại trong thế kỷ
này. Trên thế giới, gần 2 tỷ người
nghèo ở các nước đang phát triển
chưa được tiếp cận với năng lượng
hiện đại. Tất cả những điều này chỉ
có thể đạt được khi sử dụng năng
lượng tái tạo. Nhiều chuyên gia

kinh tế - môi trường có chung nhận
xét: Mẫu hình vận hành phát triển
kinh tế - xã hội chủ yếu dựa vào
năng lượng hoá thạch là mẫu hình
phát tri
ển không bền vững. Do vậy,
nhiều quốc gia đã có chính sách k
ết
hợp sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
các dạng năng lượng hiện có, với
chính sách sử dụng năng lượng
thân thiện môi trường. Tại hội nghị
quốc tế do APEC tổ chức tại
Vancouver (Canada) ngày 27-
29.4.2005, quyết định sử dụng
NLSH đ
ể thay thế xăng dầu khoáng
trong ngành giao thông đã được
nhiều hãng ôtô chấp nhận.


Thế giới quan tâm phát triển
NLSH

Hiện nay có khoảng 50 nước ở
khắp các châu lục khai thác và sử
dụng NLSH ở các mức độ khác
nhau. NLSH được hiểu là nhiên
liệu tái tạo (Renewable Fuel) được
sản xuất từ nguyên liệu sinh học -

sinh khối. NLSH dùng làm nhiêu
liệu cho ngành giao thông bao g
ồm:
Dầu thực vật sạch, ethanol, diesel
sinh học, dimetyl ether (DME),
ethyl tertiary butyl ether (ETBE) và
các sản phẩm từ chúng. Năm 2006,
toàn thế giới đã s
ản xuất khoảng 50
tỷ lít ethanol (75% dùng làm nhiên
liệu) so với năm 2003 là 38 tỷ lít,
dự kiến năm 2012 là khoảng 80 tỷ
lít; năm 2005 sản xuất 4 triệu tấn
diesel sinh học (B100), năm 2010
sẽ tăng lên khoảng trên 20 triệu tấn.


Brasil là quốc gia đầu tiên sử dụng
ethanol làm nhiên liệu ở quy mô
công nghiệp từ năm 1970. Tất cả
các loại xăng ở quốc gia này đều
pha khoảng 25% ethanol (E25),
mỗi năm tiết kiệm được trên 2 tỷ
USD do không phải nhập dầu mỏ.
Hiện tại, ở nước này có 3 triệu ôtô
sử dụng hoàn toàn ethanol và trên
17 triệu ôtô sử dụng E25. Thành
công này bắt nguồn từ chương tr
ình
Proalcool của Chính phủ đư

ợc thực
thi từ năm 1975, chương trình này
đã trở thành mẫu hình cho nhiều
quốc gia khác tham khảo.

Mỹ hiện là quốc gia sản xuất
ethanol l
ớn nhất thế giới (năm 2006
đạt gần 19 tỷ lít, trong đó 15 tỷ lít
dùng làm nhiên liệu - chiếm
khoảng 3% thị trường xăng). Năm
2012 sẽ cung cấp trên 28 tỷ lít
ethanol và diesel sinh học, chiếm
3,5% lượng xăng dầu sử dụng. Để
khuyến khích sử dụng nhiêu liệu
sạch, Chính phủ đã thực hiện việc
gi
ảm thuế 0,50 USD/gallon ethanol
và 1 USD /gallon diesel sinh học,
hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ sản
xuất NLSH. Người đứng đầu Nhà
trắng đã tuyên bố sẽ đưa nước Mỹ
thoát khỏi sự phụ thuộc dầu mỏ từ
nước ngoài, bằng cách đầu tư lớn
cho R &D để tạo công nghệ mới
sản xuất năng lượng sạch và
NLSH.

Trung Quốc mỗi ngày sử dụng 2,4-
2, 5 triệu thùng d

ầu mỷ, trong số đó
có tới 50% phải nhập khẩu. Để đối
phó với sự thiếu hụt năng lượng,
một mặt Trung Quốc đầu tư lớn ra
ngoài lãnh th
ổ để khai thác dầu mỏ,
mặt khác tập trung khai thác, sử
dụng năng lượng tái tạo, đầu tư để
nhiều cơ sở khoa học nghiên cứu
về NLSH. Đầu năm 2003, xăng
E10 (10% ethanol và 90% xăng) đ
ã
chính thức được sử dụng ở 5 thành
phố lớn và sắp tới sẽ mở rộng thêm
tại 9 tỉnh đông dân cư khác. Dự
kiến, ethanol nhiêu liệu sẽ tăng tr
ên
2 tỷ lít vào năm 2010, kho
ảng 10 tỷ
lít vào năm 2020 (năm 2005 là 1, 2
tỷ lít). Cuối năm 2005, nhà máy s
ản
xuất ethanol nhiên liệu công suất
600.000 tấn /năm (lớn nhất thế
giới) đã đi vào hoạt động tại Cát
Lâm. Tháng 6.2006, Quốc hội
Trung Quốc đã thông qua Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hoá thân thiện môi
trường.


ấn Độ hiện tiêu thụ khoảng 2 triệu
thùng dầu mỏ /ngày nhưng có tới
70% phải nhập khẩu. Chính phủ đã
có kế hoạch đầu tư 4 tỷ USD cho
phát triển nhiên liệu tái tạo, mỗi
năm sản xuất khoảng 3 tỷ lít
ethanol. Từ tháng 1.2003, 9 bang
và 4 tiểu vùng đã sử dụng xăng E5,
thời gian tới sẽ sử dụng ở các bang
còn lại, sau đó sử dụng trong cả
nước. Để phát triển diesel sinh học
dùng cho giao thông công cộng,
Chính phủ có kế hoạch trồng các
cây có dầu, đặc biệt là dự án trồng
13 triệu hécta cây Jatropha curcas
/physic nut (cây cọc rào, cây dầu
mè) để năm 2010 thay thế khoảng
10% diesel dầu mỏ.

Từ năm 1985, Thái Lan đã huy
động hàng chục cơ quan khoa học
đầu ngành để thực thi dự án Hoàng
gia phát triển công nghệ hiệu quả
sản xuất ethanol và diesel sinh học
từ dầu cọ. Năm 2001, nước này đã
thành lập ủy ban ethanol nhiên liệu
quốc gia (NEC) do Bộ trư
ởng Công
nghiệp phụ trách để điều hành

chương trình phát triển NLSH.
Năm 2003, đã có hàng chục trạm
phân phối xăng E10 ở Băngcốc và
vùng phụ cận. Chính phủ khẳng
định E10 và B10 sẽ được sử dụng
trong cả nước vào đầu thập kỷ tới.

ủy ban dầu cọ Malaixia (MPOB)
cho bi
ết, từ nay đến năm 2015 sẽ có
5 nhà máy sản xuất diesel sinh học
từ dầu cọ, với tổng công suất gần 1
triệu tấn để sử dụng trong nước và
xuất khẩu sang EU. Inđônêxia ph
ấn
đấu đến năm 2015 sẽ sử dụng B5
đại trà trong cả nước. Ngoài d
ầu cọ,
sẽ đầu tư trồng 10 triệu ha cây
J.Curcas lấy dầu làm diesel sinh
học. Mêhicô có chiến lược phát
triển cây dầu cọ và J.Curcas để
cung cấp diesel sinh học dùng cho
vận tải công cộng ở thủ đô và vùng
nông thôn. Côlômbia đã ban hành
đạo luật bắt buộc các đô thị trên
500 ngàn dân phải sử dụng E10.
Achentina đã phê duyệt Luật
NLSH (tháng 4.2006) quy định
năm 2010 các nhà máy lọc dầu pha

5% ethanol và 5% diesel sinh học
trong xăng dầu để bán trên thị
trường. Costa Rica, Philipin đều
có lộ trình sử dụng diesel sinh học
từ dầu cọ, dầu dừa. Các quốc gia
thuộc châu âu đều có chương trình
NLSH như: Đức, Anh, Pháp, Tây
Ban Nha, Italia, Hà Lan, Thụy
Điển, Bồ Đào Nha, Thụy Sĩ, áo,
Bungari, Ba Lan, Hungari, Ucraina,
Belarus, Nga, Slôvakia Ngay tại
Lào cũng đang xây dựng nhà máy
sản xuất diesel sinh học ở ngoại ô
thủ đô Viên Chăn. Một số nước
châu Phi như Gana, Tanjania
cũng đang tiếp cận đến NLSH.


Những lợi ích khi sử dụng NLSH


Tham gia cân đối nhiên liệu, giảm
lượng xăng dầu nhập ngoại bằng
nguồn nhiên liệu cung cấp trong
nước, cải thiện cán cân thương mại.


Sử dụng NLSH sẽ giảm thiểu ô
nhiễm và khí nhà kính


Hiện nay, hàng năm toàn thế giới
phát thải khoảng 25 tỷ tấn khí độc
hại và khí nhà kính. Nồng độ khí
CO2, loại khí nhà kính chủ yếu,
tăng trên 30% so với thời kỳ tiền
công nghiệp (từ 280 ppm tăng lên
360 ppm), nhiệt độ trái đất tăng
0,2-0, 40C. N
ếu không có giải pháp
tích cực, nồng độ khí nhà kính có
thể tăng đến 400 ppm vào năm
2050 và 500 ppm vào cuối thế kỷ
XXI, nhiệt độ trái đất nóng thêm 2-
40C, gây ra hậu quả khôn lường về
môi trường sống. Sử dụng NLSH
so với xăng dầu khoáng giảm được
70% khí CO2 và 30% khí độc hại,
do NLSH chứa một lượng cực nhỏ
lưu huỳnh, chứa 11% oxy, nên
cháy sạch hơn. NLSH phân huỷ
sinh học nhanh, ít gây ô nhiễm
nguồn nước và đất.

Sử dụng NLSH sẽ góp phần nâng
cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp

Ngành kinh tế nông nghiệp ngoài
chức năng cung cấp lương thực
thực phẩm, nguyên liệu công
nghiệp, giờ đây có thêm chức năng

cung cấp năng lượng sạch cho xã
hội, đóng góp vào việc giảm thiểu
khí nhà kính và khí độc hại. Đặc
biệt, khi phát triển NLSH có thể sử
dụng các giống cây có dầu, chẳng
hạn như J. Curcas trồng trên các
vùng đất hoang hoá hoặc đang sử
dụng kém hiệu quả, giúp nâng cao
hiệu quả sử dụng đất.


Kỹ thuật và kinh tế năng lượng

Sản xuất và sử dụng NLSH đơn
giản hơn so với các dạng nhiên li
ệu
hyđrô /pin nhiên liệu, LPG. Khi sử
dụng E20, B20 không cần cải biến
động cơ, sử dụng đư
ợc cho các loại
ôtô hiện có. Cũng không cần thay
đổi hệ thống tồn chứa và phân phối
hiện có. NLSH và nhiên liệu
khoáng có thể dùng lẫn với nhau
được. Công nghệ sản xuất NLSH
không phức tạp, có thể sản xuất ở
quy mô nhỏ (hộ gia đình) đến quy
mô lớn. Tiêu hao nhiên liệu, công
suất động cơ tương tự như dùng
xăng dầu khoáng. Nhiều công trình

nghiên cứu về cân bằng năng lư
ợng
đã cho thấy: Từ 1 đơn vị năng
lượng dầu mỏ sản xuất được 0, 87
đơn vị năng lư
ợng xăng, hoặc 1, 02
đơn vị năng lượng ETBE, hoặc 2,
05 đơn vị năng lư
ợng ethanol. Từ 1
đơn vị năng lượng dầu mỏ (dùng đ

cày bừa, trồng trọt, chăm sóc, vận
chuyển đến chế biến) sẽ tạo ra 1, 2
đơn vị năng lượng NLSH. Nếu kể
thêm các sản phẩm phụ (bã thải,
sản phẩm phụ) thì tạo ra 2-3 đơn vị
NLSH. Như vậy, cân bằng năng
lượng đầu ra so với đầu vào là
dương. Hiện tại, giá NLSH c
òn cao
do sản xuất nhỏ, giá nguyên liệu
cao. Khi sản xuất quy mô lớn với
công nghệ mới sẽ giảm giá thành.
Nếu xăng dầu không bù giá thì
NLSH có giá thành thấp hơn. Có
thể khẳng định, NLSH sẽ đem đến
đa lợi ích.


Tình hình nghiên cứu, đầu tư và

những chính sách phát triển
NLSH ở Việt Nam

Từ hơn 10 năm qua, đã có một số
cơ quan thuộc các ngành giao
thông vận tải, công nghiệp, năng
lượng nghiên cứu về NLSH. Một
số công ty, viện và trường đại học
đã nghiên c
ứu thử nghiệm xăng pha
ethanol và diesel sinh học. Công ty
Mía đường Lam Sơn (Thanh Hoá),
Sài Gòn Petro, Công ty Rượu Bình
Tây, Công ty Chí Hùng cũng đã có
dự án sản xuất ethanol làm nhiên
liệu. Gần đây, một số công ty tại
An Giang, Cần Thơ, Long An đã
đầu tư xưởng sản xuất diesel sinh
học từ mỡ cá basa với tổng công
suất khoảng 40.000 tấn /năm,
nhưng do chưa có tiêu chuẩn chất
lượng cho sản phẩm, nên chưa
thương mại được. Trong 2 năm
qua, đã có hàng chục công ty nước
ngoài muốn đầu tư s
ản xuất ethanol
và diesel sinh học; một số công ty
liên doanh ký kết thoả thuận đầu tư
sản xuất ethanol và diesel sinh học
t

ừ dầu Jatropha (giai đoạn đầu nhập
dầu thô, sau đó đầu tư trồng tại
Việt Nam). Nhìn chung, hoạt động
R &D và đầu tư về NLSH ở nước
ta còn chưa tiến triển do chưa có
chính sách năng lượng, chưa có cơ
chế, chính sách rõ ràng để các
doanh nghiệp an tâm đầu tư đ
ối với
lĩnh vực kinh doanh có điều kiện
như xăng dầu.


NLSH chưa phát triển được ở
nước ta do một số nguyên nhân
sau:

l Nguồn nguyên liệu còn hạn chế
do phải dành đ
ất đai để đảm bảo an
ninh lương thực, trồng rừng bảo hộ
và nguyên liệu cho công nghiệp;
công nghệ hiện tại chưa đảm bảo
năng suất cây trồng cao. Nếu phát
triển ồ ạt, không tính toán sẽ ảnh
hưởng đến an ninh lương thực và
diện tích rừng.

l Công nghệ sản xuất NLSH hiện
tại (thế hệ thứ nhất) dùng nguyên

liệu là tinh bột ngũ cốc, mật rỉ
đường để sản xuất ethanol và dùng
dầu mỡ động thực vật để sản xuất
diesel sinh học, số lượng còn hạn
chế và có giá thành cao. Công ngh

mới (thế hệ thứ hai) để sản xuất
ethanol, diesel sinh học từ phế thải
công - nông - lâm nghiệp (ligno-
cellulosic bio mass) mới thành
công ở mô hình trình diễn, quy mô
nhỏ, cần 5-7 năm n
ữa mới có thể áp
d
ụng ở quy mô công nghiệp với giá
thành hạ, sản lượng lớn.

l NLSH mới phát triển, chưa có đ
ầu
tư thích đáng, chưa sánh được với
lịch sử hàng trăm năm của công
nghiệp dầu mỏ. Muốn khuyến cáo
sử dụng NLSH cần phải trợ giá,
hoặc có chính sách khuyến khích
ban đầu, hoặc bắt buộc như quy
định các đô thị trên 500 ngàn dân
phải sử dụng nhiên liệu sạch.

l Chưa có cơ chế, chính sách ưu đ
ãi

cho các nhà đầu tư phát triển vùng
nguyên liệu, sản xuất và phân phối
NLSH.


Trong th
ời gian tới, cần có những
chính sách, biện pháp tháo bỏ
rào cản:

l Trước hết, cần có thể chế khung
chính sách đầu tư năng lượng, nhất
là năng lượng sạch. Để có cơ sở
pháp lý đầu tư cho năng lương lâu
dài, Chính phủ cần sớm phê duyệt
“Chính sách an ninh năng lượng
quốc gia”, “Đề án phát triển
NLSH” và lộ trình thực hiện. Quốc
hội sớm ban hành Luật Năng
lượng, trong đó đề cập đến năng
lượng tái tạo. Bộ KH &CN cần
sớm xây dựng “Chương trình KH
&CN quốc gia về NLSH” để trình
Chính phủ phê duyệt.

l Sớm ban hành tiêu chuẩn chất
lượng sản phẩm để các doanh
nghiệp ổn định sản xuất, phân phối
sản phẩm và giúp các cơ quan qu
ản

lý giám sát chất lượng sản phẩm
trong sản xuất và lưu thông trên thị
trường. Ban hành cơ chế, chính
sách hỗ trợ nhà đầu tư phát triển
vùng nguyên liệu, sản xuất, phân
phối NLSH (như ưu đãi tín dụng,
giảm thuế, hỗ trợ R &D, quảng
bá ). Đặc biệt, có cơ chế hỗ trợ
vay vốn, trợ giá cho nông dân cung
cấp nguyên liệu như các nước đã
làm. Quy hoạch vùng nguyên liệu,
cây nguyên liệu chủ lực để đầu tư;
xây dựng quy trình canh tác tiên
tiến, áp dụng công nghệ sản xuất
mới để nâng cao công suất sản

×