Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Giáo trình Cơ sở chăn nuôi - Chương 5 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.58 KB, 34 trang )


79

Chương 5
GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA THỨC ĂN


5.1. KHÁI NIỆM VÀ THỨC ĂN VÀ CHẤT DINH DƯỠNG
Trong chăn nuôi, thức ăn là yếu tố quyết định năng suất và chất lượng sản phẩm
và thường chiếm tới 70% giá thành sản phẩm. Vì vậy nghiên cứu về thức ăn và dinh
dưỡng có ý nghĩa vô cùng quan trọng nhằm sử dụng thức ăn hợp lý, hạ giá thành sản
phẩ
m chăn nuôi.
5.1.1. Khái niệm về thức ăn
Khái niệm về thức ăn vật nuôi thường thay đổi theo giai đoạn phát triển kinh tế
của xã hội loài người. Thời kỳ chăn nuôi du mục, các loại cỏ xanh thiên nhiên là
nguồn thức ăn chủ yếu của vật nuôi. Đến thời kỳ con người biết trồng trọt thì các sản
phẩm của cây trồng được sử dụng làm thức ă
n cho vật nuôi. Khi trình độ khoa học kỹ
thuật tiên tiến, chăn nuôi được đề cao, người ta bắt đầu trồng các loại cây thức ăn có
năng suất và chất lượng cao. Khai thác mọi nguồn thức ăn vì thế khái niệm thức ăn cho
vật nuôi cũng được thay đổi theo. Ngày nay, khái niệm về thức ăn vật nuôi được định
nghĩa như sau : "Thức ăn gia súc là những sản phẩm của thực v
ật, động vật, khoáng
vật vi sinh vật, nấm. . .những sản phẩm này cung cấp chất dinh dưỡng cho con vật,
những chất dinh dưỡng trong sản phẩm này phải phù hợp với đặc tính sinh lý tiêu hoá
để con vật có thể ăn được, tiêu hoá và hấp thụ được để sinh sống, sinh trưởng và sinh
sản bình thường trong một thời gian dài".
5.1.2. Khái niệm về chất dinh dưỡng
Chất dinh dưỡng là thành phần có trong thức ăn khi qua đường tiêu hoá được c
ơ


thể vật nuôi tiêu hoá và hấp thụ để duy trì thể nhiệt và hoạt động của cơ thể, làm
nguyên liệu cho sinh trưởng phát dục, sinh sản, sản xuất, cấu tạo, tu bổ các tổ chức của
cơ thể.
Như vậy có loại thức ăn bao gồm nhiều chất dinh dưỡng, có loại thức ăn không
phải là chất dinh dưỡng nhưng rất cần thiết cho vật nuôi. Vai trò của các ch
ất dinh
dưỡng và thức ăn khác nhau tuỳ thuộc vào loài vật nuôi.
5.1.3. Thành phần hoá học của thức ăn
Thành phần hoá học của thức ăn rất phức tạp, mỗi loại thức ăn có thành phần cấu
tạo hoá học rất khác nhau. Qua phân tích hoá học người ta thấy trong thức ăn có 4
nguyên tố cơ bản là C, H, O, N có chức năng chủ yếu sinh năng lượng, ngoài ra còn có
các yếu tố khoáng đa lượng và vi lượ
ng khác như : Ca, P, Na, K, Cl, Mg, Fe, Cu, Co,
I
2
, Zn. . .
Các nguyên tố hoá học trên tồn tại ở dạng thức ăn khác nhau như : gluxit, protit,

80
lipit, vitamin, khoáng . . . các hợp chất này ở trong cơ thể động vật. thực vật rất khác
nhau. Các chất này là nguyên liệu chủ yếu cho sự phát triển của vật nuôi. Có thể tóm
tắt thành phần hoá học của thức ăn theo sơ đồ sau:

5.1.4. Quan hệ giữa thức ăn và năng suất vật nuôi

Mục đích cuối cùng của chăn nuôi là tạo ra nhiều sản phẩm như : thịt, trứng, sữa.
. . có chất lượng tốt và giá thành hợp lý. Năng suất và chất lượng sản phẩm chăn nuôi
là do nhiều yếu tố quyết định như : thức ăn dinh dưỡng giống, nuôi dưỡng và chăm sóc
. . . Nhưng yếu tố thức
ăn là quan trọng nhất để tạo ra năng suất và chất lượng sản

phẩm. Viện sỹ M.F.Ivanov nói “ảnh hưởng của thức ăn dinh dưỡng con mạnh hơn so
với giống là tổ tiên của đạt nuôi". Ví dụ đối với ngành chăn nuôi lợn. Theo tính toán
của chuyên gia kỹ thuật và kinh tế cho thấy : Mức độ chi phí thức ăn trong tổng giá
thành chăn nuôi lợn rất cao và tuỳ thuộc vào mục đích chă
n nuôi như : Chăn nuôi là
giống chi phí thức ăn chiếm khoảng 65% giá thành, chăn nuôi lợn thịt chi phí thức ăn
chiếm 75-80% tổng chi phí giá thành. Việc sử dụng thức ăn hợp lý trên cơ sở khoa học
và kinh tế là điều kiện hết sức cần thiết để nâng cao năng suất va giảm chi phí thức ăn
cho một đơn vị sản phẩm chăn nuôi sản xuất ra. Vì vậy cần xác định rõ giá tr
ị dính
dưỡng cửa thức ăn.
5.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA THỨC ĂN
Từ khi bắt đầu chăn nuôi, con người đã bắt đầu biết tích luỹ những kiến thức về
chăn nuôi nói chung và dinh dưỡng nói riêng. Khoa học càng ngày càng phát triển thì
nghiên cứu về các chất dinh dưỡng càng được đẩy mạnh.
Những thành tựu của môn khoa học tự nhiên như : Sinh lý học, Giải phẫu học,
Hoá h
ọc, Sinh hoá học … đã là cơ sở để phát triển những nghiên cứu về dinh dưỡng
của người và động vật cũng như giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
Đầu thế kỷ XIX ( 1810) đã có phương pháp xác định giá trị dinh dưỡng của thức

81
ăn tính theo đương lượng cỏ khô của Thaer, trước đó Einhof đã phân tích thức ăn bằng
nước, cồn, axit và ông đã định ra rằng tổng số các chất của thức ăn hoà tan trong phản
ứng phân tích bằng các chất trên là những phần thức ăn có giá trị dinh dưỡng. Thaer đã
dùng những số liệu phân tích của Einhof làm cơ sở tính toán , dương lượng cỏ khô của
ông và phát triển : Đương lượng cỏ khô
Của mộ
t loại thức ăn nào đó là giá trị dinh dưỡng của loại thức ăn đó so với cỏ
khô tiêu chuẩn.

Ví dụ : 350 bảng su hào (bảng 1 57kg) củ bằng 1 đương lượng cỏ khô.
- Năm 1842, Liebig (Đức) đã phân tích được 3 nhóm chất dinh dưỡng chủ yếu
của thức ăn là protit gluxit, và lipit bằng phân tích hoá học, ngày nay phương pháp này
dần được sử dụng.
Ở nhiều nước với trang thiết bị ngày càng hiện
đại hơn nên độ chính xác cao hơn.
- Năm 1845. Grouven dùng những chất dinh dưỡng này làm tiêu chuẩn định giá
trị dinh dưỡng của thức ăn và lần đầu tiên dùng nó để làm đơn vị tính tiêu chuẩn cho
gia súc.
- Năm 1860 . Ienneberg và Stomann đã tiến hành thành công phương pháp thử
mức tiêu hoá ở bò và cừu, đã chứng minh chỗ yếu của phương pháp định giá trị dinh
dưỡng của Grouven. Từ đó người ta bắt đầu đánh giá giá trị dinh dưỡng củ
a thức ăn
theo giá trị dinh dưỡng tiêu hoá được và tính nhu cầu thức ăn của gia súc theo các chất
dinh dưỡng tiêu hoá được. Nhưng tiêu hoá mới chỉ là sự thể hiện mối quan hệ giữa cơ
thể là thức ăn ở giai đoạn đầu chứ không phải là kết quả cuối cùng của quá trình
chuyển hoá của thức ăn trong cơ thể. Khoa học ngày càng phát triển, kết quả những thí
nghiệm cân bằ
ng vật chất và nhiệt năng đã giúp cho việc xác định giá trị dinh dưỡng
của tất cả các loại thức ăn sâu sắc hơn.
- Năm 1906, Okellner (Đức) đã dùng phương pháp cân bằng vật chất để tìm
lượng mỡ tích luỹ của các loại thức ăn trên bò đực thiến. Lượng mỡ tích luỹ này óng
gọi là hiệu lực sản xuất mỡ và ông đã chọn hiệu lực sản xu
ất mỡ của tinh bột thuần có
giá trị tích luỹ 248gr mỡ làm tiêu chuẩn bằng 1 đơn vị thức ăn (đvtă) để so sánh giá trị
dinh dưỡng của các loại thức ăn khác.
- Năm 1912 Armby (mỹ ) đưa ra một phương pháp đánh giá giá trị dinh dưỡng
của thức ăn tương tự như Okellner nhưng dựa vào phương pháp thí nghiệm cân bằng
nhiệt năng để tìm nhiệt năng tích luỹ trên bò
đực thiên. Nhiệt năng này ông gọi là nhiệt

năng thuần. Giá trị dinh dưỡng của các loại thức ăn được đánh giá theo nhiệt năng
thuần.
- Năm 1915 Morisson dựa vào phương pháp thí nghiệm thử mức tiêu hoá đưa ra
cách dùng "tổng các chất tiêu hoá được (TDN)" để đánh giá giá trị dinh dưỡng của
thức ăn. Trong các chất dinh dưỡng tiêu hoá được của thức ăn bao gồm lượng protil,
gluxit, và lipit tiêu hoá được cộng lại, riêng lipit liều hoá phả
i nhân với 2,3.
TDN : Protit tiêu hoá + gluxit tiêu hoá + (lipit tiêu hoá x 2.3)

82
Nội dung cơ bản của phương pháp xác định giá trị dinh dưỡng của thức ăn như
sau:
5.2.1. Phương pháp phân tích thức ăn
Dùng phương pháp phân tích thành phần hoá học của thức ăn và thành phần hoá
học của cơ thể, rồi so sánh và đánh giá, các loại thức ăn nào có thành phần hoá học
tương tự như thành phần hoá học của cơ thể là những loại thức ăn có giá trị dinh
dưỡng cao.
Ưu điểm :
- Biết được thành phần hoá học của thức ăn và thành phần hoá học của cơ thể từ
đó chọn những loại thức ăn phù hợp.
- Phương pháp này đơn giản, dễ làm, tiết kiệm.
- Qua số liệu phân tích bước đầu biết được thức ăn tốt hay xấu.
Nhược điểm : Chưa phản ánh được đầy đủ giá trị dinh dưỡ
ng của thức ăn chỉ biết
được về mặt số lượng mà không biết được chất lượng của thức ăn, chưa cho biết thức
ăn ảnh hưởng tới tình trạng sức khoẻ, sức sản xuất của gia súc tốt hay xấu.
5.2.2. Phương pháp thử mức tiêu hoá
Thường được thí nghiệm trên bò đực thiến khoẻ mạnh, không bệnh tật. Thời gian
thí nghiệm khoảng 10- 12 ngày, trướ
c khi thí nghiệm phải có bước chuẩn bị để cơ thể

bài tiết hết những thức ăn (Ta ) đã ăn trước thí nghiệm đồng thời để con vật làm quen
với thức ăn thí nghiệm. Thời gian chuẩn bị với trâu bò dê cừu là 10-15 ngày, ngựa là
8-10 ngày, gia cầm 6-8 ngày,thỏ, chó là 6-7 ngày
Muốn xác định tỷ lệ tiêu hoá của thức ăn hoặc các chất dinh dưỡng nào đó người
ta lấy mẫu thứ
c ăn đem phân tích thành phần hoá học, sau đó cho con vật thí nghiệm
ăn loại thức ăn đó, thu nhặt phân và nước tiểu của con vật thí nghiệm đem phân tích
thành phần hoá học. Số chênh lệch giữa thành phần hoá học giữa hai lần phân tích là tỷ
lệ tiêu hoá của khẩu phần thức ăn đó. Phương pháp này đòi hỏi phải trực 24giờ/ngày.
Sau này, do phát triển của khoa học người ta thường dùng các chất chỉ
thị màu
SIO
2
và Br
2
O
3
để tính. Những chất chỉ thị màu này không bị tiêu hoá khi con vật ăn
vào và được bài tiết ra ngoài theo phân. Trộn đều chất chỉ thị đã nghiền nhỏ vào khẩu
phần thức ăn định thí nghiệm xác định tỷ lệ % của nó trong thức ăn. Đem cho con vật
thí nghiệm ăn khẩu phần này, hằng ngày lấy mẫu phân để phân tích mỗi lần 100gr, 3
lần/ngày. Đem mẫu thức ăn và mẫu phân thu
được phân tích thành phần hoá học, riêng
phân phải phân tích thêm thành phần chất chỉ thị màu, từ đó tính tỷ lệ tiêu hoá theo
công thức sau :

Ví dụ : Trong khẩu phần thí nghiệm tỷ lệ SIO
2
là 2,52%, tỷ lệ protit khẩu phần là
19,62%. Sau khi con vật ăn khẩu phần thí nghiệm này thu nhặt phân và phân tích thấy

, TL tham khao, P.V. Hai

83
tỷ lệ SIO
2
trong phầnlà 7,12%, tỷ lệ protit còn trong phân là 12,12%. Tỷ lệ tiêu hoá
như sau (TLTH):

Cách tính tỷ lệ tiêu hoá của các thành phần khác của thức ăn định thí nghiệm cũng
lương tự như trên.
Nhược điểm : Trong phân, ngoài những chất dinh dưỡng trong thức ăn chưa được
liều hoá còn có thêm các chất của sự trao đổi như cặn bã dịch tiêu hoá, tế bào biểu bì
ruột. vi khuẩn làm ảnh hưởng đến tỷ lệ tiêu hoá protit, lipit. Mặt khác, vi khuẩn lại
phân giải một phần đáng k
ể bột đường, xơ thành chất khí CO
2
cho thải ra ngoài, cho
nên tỷ lệ tiêu hoá của nhóm gluxit thường cao hơn trong thực tế nhất là đối với loài
gia súc nhai lại. Tỷ lệ tiêu hoá còn phụ thuộc vào loài gia súc thí nghiệm lứa tuổi, trạng
thái sinh lý khác nhau, điều kiện sức khoẻ
5.2.3. Phương pháp thí nghiệm sinh vật học
Đây là phương pháp xác định giá trị dinh dưỡng của thức ăn thông qua cơ thể
con vật, người ta cho con vật ăn một loại thức ăn thí nghi
ệm nào đó sau một thời gian
thí nghiệm, xác định kết quả của nuôi dưỡng trên con vật qua các mặt : tăng trọng, sản
phẩm thịt, trứng, sữa, lông
Yêu cầu : Gia súc thí nghiệm phải đồng đều về giống. tuổt, tính biệt, trọng lượng,
thể chất năng lực sinh sản và có số lượng >30 con/ lô thí nghiệm.
Muốn xác định được giá trị dinh dưỡng của loại thức ăn nào đó thì c
ần thay đổi

loại thức ăn này còn các toại thức ăn khác phải ổn định, chế độ chăm sóc amin lý
giống nhau.
Phương pháp này đơn giản, dễ làm, áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên chưa có ảnh
hưởng cuối cùng của thức ăn trên cơ thể con vật.
5.2.4. Phương pháp thí nghiệm cân bằng vật chất
Là phương pháp đánh giá chất lượng thức ăn qua việc nhận xét, đánh giá những
thay đổi c
ủa cơ thể vật nuôi với sự chênh lệch giữa các chất dinh dưỡng trong thức ăn
vào và các chất bài tiết ra. Trong thức ăn có nhiều chất dinh dưỡng khác nhau nhưng
trong thí nghiệm cân bằng vật chất chỉ theo dõi sự cân bằng của protit, lipit và khoáng
còn nước và gluxit thì ít khi xác định đến vì nước không phải là nguồn nhiệt năng,
gluxit trong cơ thể lại rất ít (con bò nặng 400-500 kg nhưng chỉ chứa tới 2 kg gluxil).
Mặt khác, trong điều ki
ện ăn uống bình thường hàm lượng gluxit trong cơ thể ít thay
đổi. Vì vậy, muốn biết hiệu quả của thức ăn đối với cơ thể phải căn cứ vào sự tích luỹ
hay phần giải protit của protit và lipit qua sự cân bằng cửa nitơ và cacbon.
5.2.4.1. Cân bằng nitơ
Khảo sát lượng N ăn vào và N bài tiết ra chênh lệch bao nhiêu.
Khái niệm : Phương pháp xác định lượng N sau khi ăn vào được tích luỹ hay

84
phân giải trong cơ thể, trên cơ sở đó đánh giá được giá trị dinh dưỡng của thức ăn, đặc
biệt đánh giá chất lượng protit của thức ăn.
Phương pháp thí nghiệm : Muốn tiến hành thí nghiệm về cân bằng N người ta đã
dựa vào sự biến đổi N trong cơ thể theo sơ đồ sau: N ăn vào N ở phân

Nếu N ăn vào > N thải ra , cân bằng N >0 (con vật có tích luỹ N).
Nếu N ăn vào < N thải ra , cân bằng N <0 (con vật tiêu hao N của cơ thể).
Trong thực tế cân bằng N > 0 thường gặp ở vật đang sinh trưởng, đang mang
thai, con vật mới ốm khỏi đang phục hồi sức khoẻ.

Cân bằng N = 0 gặp trong trường hợp con vật đủ protit và cả khi thiếu protit,
nhưng không thiếu nghiêm trọng.
Cân bằng N < 0 thường gặ
p khi con vật thiếu protit nghiêm trọng, con vật phải
huy động protit trong cơ thể hoặc trong trường hợp đủ protit nhưng chất lượng kém, tỷ
lệ không cân đối.
Ví dụ 1 :
Bảng 5.1. Kết quả thí nghiệm cân bằng N ở bò đực thiến.

TT Thí nghiệm N ăn
vào
N thải ra
(N phân + N nước tiểu)
Cân bằng N
(gr)
1 I 200 170 +30
2 II 200 220 -20
Như vậy, ở thí nghiệm I con vật tích luỹ protil một ngày là :
30 x 6.25 = 187gr.
Ở thí nghiệm II con vật liều hao protit cơ thê mồi ngày là :
20 x 6,25= 125gr








85

Ví dụ 2 :
Bảng 5.2. Kêu quả thí nghiệm cân bằng N ở lợn với protit đỗ tương
(Mitchell,/955)

TT Chỉ tiêu N ăn vào/ngày (gr) N thải ra/ ngày
1 N thức ăn thu nhận 19.82
2 N thải ra ở phân 2.02
3 N thải ra ở nước tiểu 7.03
4 N tích luỹ 10.77
5 Tổng số 19.82 19.82
vậy : Lượng N tích luỹ = N ăn vào - N thải ra
Cân bằng N = 19,82 - (2,02 + 7,03 ) = 10.77
Mỗi ngày con lợn này tích luỹ được :
10 77 x 6,25 : 67,3gr protit.
5.2.4.2. Thí nghiệm cân bằng cacbon
Khái niệm : Phương pháp cân bằng cacbon là phương pháp xác định khả năng
tích luỹ lipit trong cơ thể để đánh giá giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
Phương pháp thí nghiệm : Muốn tiến hành thí nghiệm cân bằng cacbon phải nằm
được sự biến đổi cacbon trong cơ thể khi vật nuôi ăn vào như th
ế nào?
Trong thức ăn có chứa cacbon như : protit, lipit gluxit.
Sơ đồ biến đổi cacbon trong cơ thể

Cụ thể ta có :
C tiêu hoá = C thức ăn - (C phần+ C khí đường tiêu hoá).
C tích luỹ = C tiêu hoá - (C nước tiểu + C khí đường hô hấp)
C tích luỹ trong lipit = C tích luỹ trong cơ thể - C tích luỹ trong protit.





86
Ví dụ 3:
Bảng 5.3. Kết quả thí nghiệm cân bằng Nitơ và các bon ở Lợn
Hàm lượng C (gr) Hàm lượng N (gr)

TT
Chỉ tiêu
Theo dõi
Ăn vào Thải ra Cân
bằng
Ăn vào Thải ra Cân
bằng
1 Khẩu phần 740 32.4
2 Phân 120 4
3 Nước tiểu 19 19.4
4 Đường hô
hấp
409
5 Tổng 740 548 +192 32.4 23.4 +9
Ta có : Lượng protit tích luỹ = 9 x 6,25 = 56,25 gr Lượng C tích luỹ trong protit =
56,25 x 52,54 % = 29,55 gr
( Tỷ lệ cacbon trong protit thịt lợn là 52,54% )
Lượng C tích luỹ trong lipit : 192 – 29,55 = 162,45gr (C tích luỹ trong lipit là 76.5
% )
Nên lương lipit tích luỹ = 162,45 gr x 100/76,5 = 212,35gr Vậy : Ở thí nghiệm trên
mỗi ngày lợn tích luỹ được 56,25gr protit và 212,35gr lipit.
5.2.5. Phương pháp thí nghiệm cân bằng nhiệt năng
* Cơ sở khoa học
Phương pháp thí nghiệm cân băng nhiệt năng dựa trên định luật bảo toàn và

chuyển hoá năng lượng : "Trong một hệ thống tổng số nhi
ệt năng sẽ không biến đổi
(không tăng lên, không mất đi ) mà chi chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác”. Đối
với sinh vật định luật này cũng đúng như đối với các vật chất khác. Vì vậy, trong thí
nghiệm cân bằng năng lượng, nếu tất cả năng lượng trong các chất protit ra kể cả sự
toả nhiệt của cơ thể mà không bằng tổng số năng lượng củ
a thức ăn ăn vào có nghĩa là
một năng lượng tích luỹ lại trong cơ thể dưới dạng protit và lipit.
Thí nghiệm cân bằng nhiệt năng còn dựa trên định luật Hess phát biểu như sau :
"Nếu một chất X nào đó được ôxy hoá thành một chất Y mặc dù chất X phải qua một
bước hay nhiều bước để thành chất Y thì tổng số năng lượng giải phóng ra sẽ như
nhau”
Ví dụ : Gluxit đối trong phòng thí nghi
ệm biến thành CO
2
+ H
2
O + Q Chì qua
một bước, còn gluxit trong cơ thể phải ôxy hoá hơn 20 bước trung gian mới thành
CO
2
+ H
2
O+ Q. Nhưng tổng số năng lượng giải phóng ra đều như nhau.
Định luật này có ý nghĩa quan trọng là nếu chúng ta muốn biết tồng nhiệt năng
của các chất dinh dưỡng giải phóng ra trong cơ thể là bao nhiêu, chúng ta chỉ cần đốt

87
những chất này trong những dụng cụ đặc biệt của phòng thí nghiệm là được.
Sơ đồ chuyển hoá năng lượng trong có thể (theo NRC. 1988 )


- Năng lượng thô (GE) : Năng lượng thô chứa trong chất hữu cơ của thức ăn là
tổng số năng lượng protit ra khi đốt trong máy đo năng lượng (Bomb Calorimeter).
Ví du : Năng lượng sinh ra khi đốt cháy 1gr protit là 5,65 kcalo, 1 gr 1ipit là
9,3kcalo, 1 gr gluxit là 4, 1 kcalo.
- Năng lượng tiêu hoá (DE) : là phần năng lượng được cơ thể tiêu hoá. hấp thụ.
DE = GE - FE
Năng lượng trao đổi (ME) chiếm khoáng 40-70% năng lượng thô của khẩu phần,
nó được dùng vào các phản ứng chuyển hoá c
ủa tế bào.
ME = DE - (UE + GPD)
Khí đường tiêu hoá là khí sinh ra trong quá trình lên men vi sinh vật trong đường
tiêu hoá, khí này gồm có CO
2
, O
2
, NH
4
, H2, H
2
S. Trong đó, CH
4
chiếm 40% tổng số
khí. Người ta dùng công thức tính năng lượng ME dựa vào hàm lượng khí CH
4
như
sau :
ME = 17,68 + 4.01 x CH
4
(ở bò)

ME = 9,80 + 2,41 x CH
4
(ở cừu)
- Năng lượng thuần (NE) : Là phần năng lượng còn lại sau khi lấy ME trừ di
năng lượng nhiệt (HI) : NE = ME - HI. Năng lượng thuần là năng lượng cuối cùng để
duy trì và sản xuất Năng lượng nhiệt (là) : Chiếm từ 10-40% năng lượng thô, nó phụ
thuộc vào nhiệt độ môi trường, cơ năng sinh lý của vật nuôi.
5.3. ĐƠN VỊ THỨC ĂN
Để so sánh giá trị dinh dưỡng của thứ
c ăn người ta dùng một đơn vị gọi là đơn vị
thức ăn.
Vậy : Đơn vị thức ăn là đơn vị dùng để biểu thị giá trị dinh dưỡng của thức ăn
dựa trên cơ sở một loại thức ăn nào đó hoặc một số lượng giá trị năng lượng trao đổi.
5.3.1. Đơn vị tinh bột của Okellner
Okellner là nhà khoa học người Đứ
c, ông dùng 1kg tinh bột thuần có giá trị tích
luỹ 248,8gr mỡ ở bò đực thiến, làm một đơn vị thức ăn, các loại thức ăn khác so sánh

88
với tinh bột thuần để xác định giá trị dinh dưỡng của thức ăn.
Thí nghiệm trên các chất dinh dưỡng khác ông thu được: 1 kg xơ thô tiêu hoá có
giá trị tích luỹ 248 gr mỡ.
1kg protit tiêu hoá có giá là tích luỹ 253gr mỡ.
1kg lipit tiêu hoá của thức ăn thô, củ quả tích luỹ 474 gr mỡ.
1kg lipit tiêu hoá của thức ăn hạt hoà thảo và phụ phẩm tích luỹ 526 gr mỡ.
1kg lipit tiêu hoá của các loại hạt họ Đậu tích luỹ 598 gr mỡ.
Những con số trên Okellner gọi là hi
ệu lực sản xuất mỡ của các chất dinh dưỡng.
Từ đó ta có thể tính được lượng mỡ tích luỹ của các loại thức ăn nếu biết được thành
phần hoá học của nó.

5.3.2. Đơn vị yến mạch (Liên Xô cũ)
Đơn vị yến mạch do nhà khoa học Bodanov đề xuất, ông dùng 1kg yến mạch có
giá trị dinh dưỡng 148.8 làm tròn là 150 gr mỡ trên bò đực thiến làm đơn vị thức ăn,
các lo
ại thức ăn khác so sánh với yến mạch để xác định giá trị dinh dưỡng. Về nguyên
lý tính toán theo phương pháp của Okellner.
5.3.3. Đơn vị nhiệt nâng thuần Armsbỵ
Armsby đã lấy nhiệt năng thuần của các loại thức ăn làm cơ sở đánh giá giá trị
dinh dưỡng của thức ăn. Nhiệt năng thuận mà ông tìm được trên một số loại thức ăn và
chất dinh dưỡng như sau:
Bả
ng 5.4. Nhiệt năng thuần một số l/oại thức ăn theo Arnlsbv
Chất dinh dưỡng tiêu hoá được
(Đơn vị: bảng Anh)
Nhiệt năng thuần
(1 therin = 1000kcalo)
Protit thuần 1,061
Lipit trong thức ăn thô 2,041
Lipit trong thức ăn hạt 2,722
Khô dầu 2,585
Nhóm gluxit 1,071
(1 bảng = 454 gr)
Muốn xác định giá trị dinh dưỡng của thức ăn theo nhiệt năng thuần phải làm hai
bước:
- Bước đầu lấy chất dinh dưỡng của thức ăn đổi ra nhiệt năng thuận sẽ được nhiệt
năng lý thuyết.
- Bước sau lấy nhiệt năng lý thuyết nhân với tỷ suất thực (nếu là thức ăn tinh)
theo bảng tỷ suất của Okellner hoặc trừ đ
i lượng nhiệt năng cần trừ nếu là chất xơ có
trong thức ăn thô xanh.


89


Bảng 5.5. Nhiệt năng cần trừ theo tỷ lệ xơ trong thức ăn

Hàm lượng xơ trong thức ăn (%) Cứ 1 bảng xơ cần trừ đi lượng nhiệt
năng (therin)
<4% 0.331
8 0.364
10 0.407
12 0.461
14 0.563
>16 0.621
Ví dụ : Tìm giá trị dinh dưỡng của 100 bảng lúa mạch theo nhiệt năng thuần.
Trong 100 bảng lúa mạch có 8,3 bảng protit 100 bảng lúa mạch có 16 bảng lipit
tiêu hoá, 100 bảng lúa mạch có 66.8 bảng gluxit.
Nhiệt năng thuần theo lý thuyết:
8,3 x 1,061 = 8,8063
16 x 2,722 =4,3552
66,8 x 1 ,07 1 = 7 1,5728
Tổng cộng = 84,7043
Nhiệt năng thuần thực tế : (ta biết tỷ suất thực của lúa mạch là 88,2%):
84,7043 x 88,2% = 74,7therin.
Ví dụ 2 : Tìm giá trị dinh dưỡng của 100 bảng rơm theo nhiệt năng thuần:
Trong 100 b
ảng rơm có 0,6 bảng protit tiêu hoá.
Trong 100 bảng rơm có 25 bảng gluxit tiêu hoá.
Trong 100 bảng rơm có 0,5 bảng lipit tiêu hoá.
Nhiệt năng thuần theo lý thuyết:

06 x 1 ,06 1 = 0,6366
05 x 2,04 1 = 1 ,0205
25 x 1,071 =26,7750
Tổng cộng : 28,432
Trong 100 bảng rơm có 28,9 bảng chất xơ, cứ 1 bảng xơ phải trừ đi 0,621 thăm.
Vậy 28,9 bảng xơ cần trừ nhiệt năng:
28,9 x 0,62 1 = 1 7,9469 therin

90
Vậy nhiệt năng thực tế:
28,432 - 1 7,9469 =10,4851 therin
5.3.4. Đơn vị thức ăn Việt Nam
Thời Pháp thuộc dùng đơn vị thóc của Winter và Rcmond là hai kỹ sư người
Pháp đề xuất. Phương pháp này tính như đơn vị tính bột của Okellner. Sau khi hoà
bình lập lại, chúng ta dùng đơn vị yến mạch của Liên Xô. Năm 1978. Bộ Nông nghiệp
cho phép xây dựng đơn vị thức ăn theo đơn vị năng lượng trao đổi ME. Cứ
1 đơn vị
thức ăn có giá trị 2500 kcalo năng lượng trao đổi ME và được tính như sau:

Trong đó : a,b,c,d là các giá trị năng lượng trao đổi của 1gr protit tiêu hoá, lipit,
xơ, bột đường tiêu hoá được.
Hệ số năng lượng trao đổi của 1 gr chất dinh dưỡng của các loài gia súc khác
nhau thì khác nhau, đồng thời ở các loại thức ăn khác nhau cũng khác nhau (theo tài
liệu của Alxelecon).
Ví dụ :
* Trên trâu bò :
1 gr protit tiêu hoá:
- Của thức ăn thô cho 4,5 kcalo năng lượng trao đổi.
- Của thức ăn tinh cho 4,5 kcalo năng lượng trao đổi.
- Của thức ăn xanh cho 3,3 kcalo năng l

ượng trao đổi.
- Của thức ăn động vật cho 4,5 kcalo năng lượng trao đổi.
1 gr 1ipit tiêu hoá:
- Của thức ăn thô cho 7,8 kcalo ME.
- Của thức ăn hạt cho 8,3 kcalo ME.
- Của thức ăn hạt họ đậu cho 8,8 kcalo ME.
- Của thức ăn động vật cho 9,3kcalo ME.
1 gr chất xơ tiêu hoá cho 2,9 kcaloME.
1 gr chất bột đường cho 3,7 kcalo ME.
* Trên lợn:
1 gr protit tiêu hoá cho 4,5 kcalo ME
1 gr chất mỡ tiêu hoá cho 9,3 kcalo ME
1 gr chất xơ tiêu hoá cho 4,2 kcalo ME
1gr bột đường tiêu hoá cho 4,2 kcalo ME

91
Để tính hệ số năng lượng trao đổi (a, b, c, di của lối chất dinh dưỡng được tiêu
hoá ở gà người ta sử dụng tài liệu của Tinh cụ thể là: gr chất protit tiêu hoá:
- Của thức ăn thô và phụ phẩm cho 3,6 kcalo.
- Của thức ăn hạt hoà thảo cho 4,2 kcalo.
- Của thức ăn họ đậu cho 4,3 kcalo.
1 gr lipit tiêu hoá:
- Của thức ăn thô, phụ phẩm cho 9, 1 kcalo ME.
- Của thức ăn hạt và phụ phẩm cho 9,lkcalo.
- Của th
ức ăn động vật cho 9,5 kcalo ME.
1 gr xơ tiêu hoá cho 4,2kcalo ME, rồi trừ đi phần năng lượng chất xơ không được
tiêu hoá nhân với 0,34.
1 gr bột đường tiêu hoá:
- Của thức ăn thô và phụ phẩm cho 3,8 kcalo.

- Của thức ăn hạt hoà thảo cho 4,2 kcalo.
- Của thức ăn hạt họ đậu cho 4,0 kcalo.
Của thức ăn động vật cho 3,8 kcalo.
5.4. TỶ LỆ TIÉU HOÁ, TỶ LỆ DINH DƯỠNG
5.4.1. Tỷ lệ tiêu hoá
Tỷ
lệ tiêu hoá của một chất dinh dưỡng nào đó trong thức ăn là tỷ lệ giữa những
phần tiêu hoá được của chất dinh dưỡng đó so với chất dinh dưỡng đã ăn vào.

* Các nhân tố ánh hưởng đến tỷ lệ tiêu hoá
- Loài, giống vật nuôi : do sự khác nhau về cấu tạo bộ máy tiêu hoá và đặc tính
sinh lý tiêu hoá mà khả năng tiêu hoá của các loài vật nuôi là khác nhau, các giống
khác nhau thì tỷ lệ tiêu hoá cũng khác nhau. Thức ăn càng khó tiêu bao nhiêu thì tỷ lệ
tiêu hoá càng khác nhau : Ví dụ chất xơ ở loài nhai lại tiêu hoá 40-50%, ngựa 30%, lợn
30%. Lợn nội tiêu hoá thức ăn thô xanh tốt hơn lợn ngoại.
- Tuổi, cá thể : Ở mỗi lứa tuổi khác nhau, cấ
u tạo và chức năng sinh lý tiêu hoá
khác nhau nên tỷ lệ tiêu hoá cũng khác nhau.
Ví dụ : Bê 4 tuần tuổi lợi dụng được glucoz, lactoz nhưng không tiêu hoá được
dextrin và tinh bột, lúc lên 9 tuần tuổi trở đi tiêu hoá được maltoz. Tuổi càng tăng hoạt
tính của men maltaza và amilaza càng tăng. Tỷ lệ tiêu hoá còn khác nhau ở các cá thể
khác nhau, có con có tỷ lệ tiêu hoá cao, có con có tỷ lệ tiêu hoá thấp.
- Lượng thức ăn của khẩu phần : Khẩu phần ăn quá nhiều sẽ không đủ men và

92
dịch tiêu hoá để thấm vào mọi thành phần thức ăn mặt khác ăn quá nhiều thức ăn bị
tống ra ngoài nhanh dẫn đến tỷ lệ tiêu hoá thấp.
- Thành phần của khẩu phần:
+ Ảnh hưởng của protit : Hàm lượng protit tăng sẽ làm tăng tỷ lệ tiêu hoá vì
protit làm tăng cường hoạt động của các tuyến tiêu hoá, tăng men pepsin và lipHza. Ở

loài nhai lại còn kích thích vi sinh vật dạ cỏ phát triển. Nhưng nếu khẩ
u phần quá
nhiều protit sẽ làm rối loạn tiêu hoá do thiếu men tiêu hoá protit. vi sinh vật lên men
gây thối hoạt động phân huỷ phần protit dư thừa sinh ra nhiều độc tố gây nhiễm độc
máu, ỉa chảy dẫn tới làm giám tỷ lệ tiêu hoá.
+ Ảnh hưởng của lipit trong khẩu phần : Ăn quá nhiều mỡ sẽ thiếu dịch mật và
men tiêu hoá lipHza làm cho con vật bị ỉa chảy, rối loại tiêu hoá và làm giảm tỷ lệ tiêu
hoá.
+ Ả
nh hưởng của chất bột đường : Nếu trong khẩu phần có nhiều đường dễ tan
và tinh bột có thể làm giảm tỷ lệ tiêu hoá các thành phần trình dưỡng khác nhất là ở
các loài nhai lại nguyên nhân là do vi sinh vật dạ cỏ tập trung lên men bột đường dễ
tan. chất xơ và các chất dinh dưỡng khác ít bị tác động nên tỷ lệ tiêu hoá thấp. Đồng
thời quá trình lên men bột đường sẽ sinh nhiều axit hữu cơ kích thích nhu động ruột
làm thứ
c ăn bị tống ra ngoài nhanh khi chưa được tiêu hoá triệt để.
+Ảnh hưởng của chất xơ trong khẩu phần : Chất xơ là thành phần khó tiêu hoá do
cấu tạo phức tạp, đa số các loài động vật không tiêu hoá được chất xơ trừ loài gia xúc
nhai lại. Hàm lượng chất xơ càng cao thì tỷ lệ tiêu hoá của thức ăn càng thấp. Người ta
tính tỷ lệ tiêu hoá theo công thức : y = 90 - ax
Trong đó : y là tỷ lệ liều hoá củ
a thức ăn.
a là hằng số phụ thuộc loài gia súc và mức độ thành thục của chất xơ trong
thức ăn.
Ví dụ : theo Axellecon, tỷ lệ tiêu hoá chất hưu cơ thí nghiệm : Đối với bò là : y =
90,1 – 0,879 x
Đối với lợn theo Sneider : y = 93,84 - 1,293 x
Đối với gia cầm theo Becker : y : 86,06 - 1,955 x
Tuy nhiên, để đảm bảo thức ăn có lý lệ liều hoá cao, tỷ lệ chất xơ trong khẩu
phần phải thích hợp như sau :







, TL tham khao, P.V. Hai

93
Bản 5.6. Tỷ lệ xơ trong khẩu phần ăn (%)
Loài
g
ia súc T

l

% chất xơ
Gà con 3-6%
Gà mái 5-8%
L

n th

t 7%
L

n nái 10-12
%
Trâu bò cà
y

30%
Trâu bò thịt, vắt sữa <30%
Chất xơ làm khuôn phân, chất độn để tổng thể tích của thức ăn gây cảm giác no,
kích thích nhu động ruột và cung cấp một phần chất dinh dưỡng cho con vật nhất là ở
loài nhai lại. Tuy nhiên thức ăn được chế biến tốt, bổ sung đầy đủ các thành phần
vitamin, khoáng đa, vi lượng đều ảnh hưởng tốt làm tăng tỷ lệ tiêu hoá và hấp thụ chất
dinh dưỡng.
+ Ảnh hưởng củ
a quá trình nuôi dưỡng : Kết quả nghiên cứu của PH
B1
ov : Sự
hoạt động và tiết dịch tiêu hoá và men tiêu hoá của con vật có liên quan đến màu sắc,
mùi vị, tính chất, khối lượng thức ăn và giờ giấc cho ăn. Vì các điều kiện đó đã tạo nên
phản xạ có điều kiện ở con vật. Chính vì vậy huấn luyện vật nuôi ăn đúng giờ, đúng
loại thức ăn màu sắc mùi vị thơm ngon sẽ kích thích tiêu hoá làm tăng tỷ l
ệ tiêu hoá,
góp phần tăng năng suất chăn nuôi và giảm giá thành sản phẩm.
5.4.2. Tỷ lệ dinh dưỡng
Tỷ lệ dinh dưỡng (TLDD) là tỷ lệ giữa những phần chất dinh dưỡng không chứa
N và chất dinh dưỡng chứa N tiêu hoá được trong khẩu phần ăn của vật nuôi.

Ví dụ : Trong một khẩu phần có 8,8% protit tiêu hoá, 2% lipit tiêu hoá 50% các
gluxit tiêu hoá, 1,1% xơ tiêu hoá.

Mỗi loại gia súc có tỷ lệ dinh dưỡng khác nhau, nếu tỷ lệ dinh dưỡng phù hợp sẽ
làm tăng tỷ lệ tiêu hoá và hấp thụ của khẩu phần thức ăn. Với gia súc non đòi hỏi tỷ lệ
dinh dưỡng hẹp < 6/1, gia súc cày kẻo, tiết sữa tỷ lệ dinh dưỡng trung bình 6/1-8/1, gia
súc làm việc nhẹ, nuôi duy trì tỷ lệ dinh dưỡng rộng > 9/1 .
5.5. CÁC CHẤT DINH DƯỠNG VÀ QUA HỆ CỦA CHÚNG ĐẾN CƠ THỂ VẬ
T

NUÔI
5.5.1. Quan hệ của nước với cơ thể vật nuôi
Nước tuy không phải là chất dinh dưỡng nhưng nó giữ vai trò cực kỳ quan trọng

94
trong quá trình trao đổi chất của con vật. Theo Rubnor một con vật bị mất đi toàn bộ
mỡ và 2/3 protit vẫn có thể sống nhưng nếu mất 1/10 nước trong cơ thể đã cảm thấy
khó sống, còn mất 1/5 lượng nước trong cơ thể con vật sẽ chết bởi vì nước có một số
tác dụng chính sau:
Nước tham gia quá trình tiêu hoá và hấp thụ thức ăn : Chúng ta đều biết rằng
thức ăn đượ
c tiêu hoá là nhờ tác động của dịch tiêu hoá mà dịch tiêu hoá thành phần
chủ yếu là nước chiếm tới 98%. Cơ thể vật nuôi chỉ hấp thụ được chất dinh dưỡng khi
chúng ở dạng hoà tan, nước là dung môi chủ yếu để hoà tan các chất dinh dưỡng. Sau
khi được tiêu hoá, các chất dinh dưỡng được hấp thụ vào máu vận chuyển đi nuôi cơ
thể, trong máu có chứa 90% là nước. Sau khi tham gia trao đổi chất trong tế bào, các
chất cặn bã được bài tiế
t ra bên ngoài theo nước tiểu, trong đó thành phần chính cũng
là nước.
Nước tham gia vào các phản ứng hoá học trong cơ thế : Quá trình sống của cơ thể
phụ thuộc vào hàng loạt các phản ứng hoá học liên tiếp xảy ra, hầu hết các phản ứng
này xảy ra trong mỗi trường nước.
- Nước giữ thể hình con vật : Trong cơ thể dùng vật nước chiếm tới 70% - 80%
trong tế bào làm cho tế bào trương phồng giữ
được thể hình và có tính đàn hồi cao.
- Nước làm giảm tác dụng ma sát : Giữa các khớp xương cơ thể phải có dịch
nhờn gọi là dịch bao khớp giúp khi vận động ma sát giảm đi, thành phần chủ yếu của
dịch nhờn là nước.
- Nước tham gia điều tiết thận nhiệt : Nước là nguồn nguyên liệu chủ yếu để điều
tiết thân nhiệt, nước bay hơi cần ph

ải có nhiệt lượng.
Cứ 1gr nước biến thành hơi nước cần 580 calo, chính nhờ quá trình bốc hơi nước
trong cơ thể mà nhiệt được sinh ra trong các phản ứng trao đổi chất thừa ra so với yêu
cầu sẽ được thải đi. Mặt khác. nước lại có tỷ nhiệt gần như cao nhất so với các chất
nên nước trong cơ thể giúp cho thân nhiệt không bị thay đổi đột ngột.
Nước cung cấp cho c
ơ thể gồm 3 nguồn : nước uống vào, nước trong thức ăn còn
gọi là nước sinh lý tế bào và nước trao đổi còn gọi là nước nội sinh.
+ Nước trong thức ăn chiếm tỷ lệ khá lớn nhất là thức ăn xanh có 70-90% là
nước, thức ăn củ quả tươi chiếm 65%-95% là nước, các loại hạt khô nước chiếm l0-
14%
+ Nước trao đổi là nước sinh ra trong quá trình ôxy hoá các chất hữu cơ trong cơ
thể, nhờ
nước trao đổi này mà một số động vật có thể nhịn uống trong một thời gian
dài mà vẫn sống được (như trường hợp ngủ đông hay lạc đà sống trên sa mạc). Nước
trao đổi sinh ra khi ôxy hoá 1 gr chất dinh dưỡng trong cơ thể động vật như sau:
Glucoz cho 0,6gr H
2
O
Tinh bột cho 0,56gr H
2
O
Protit thuần cho 0,42gr H
2
O

95
5.5.2. Quan hệ của protit đối với cơ thể
Protit là hợp chất cao phần tử có chứa Nitơ mang tính chất trung tính chữ protit
bắt nguồn từ chữ la tinh protos : đầu tiên, chủ yếu do Mulder (Đan Mạch) đề xướng.

5.5.2.1. Phân loại protit
Protit thô là tên gọi chung nhất của tất cả các chất hữu cơ trong thành phần cấu
tạo có chứa N, muốn biết hàm lượng protit thô người ta phân tích thành phần hoá học
của thức ăn,
định lượng N tổng số bằng phương pháp Microkeldal để tiên lượng N
chứa trong thức ăn rồi nhân với hệ số riêng của protit (hệ số riêng của prôtit thường là
6,25). Tương ứng hàm lượng N trung bình là 16% trong protit.
Hệ số riêng của protit trứng, thịt, thức ăn họ đậu là 6,25. Hệ số riêng của hạt hoà
thảo là 5,83; khô dầu là 5,30; protit sữa động vật là 6,38.
Protit thô bao gồm protit thuần và nitơ phi protit.
- Protit thuần : Là các loại protit khi thuỷ phân chỉ
cho các axit amin. Số lượng và
thành phần các axit amin quyết định phẩm chất của protit. Nói chung, loại protit nào
có đủ các axit amin không thay thế là loại axit amin mà cơ thể không thể tự tổng hợp
được, là protit có giá trị dinh dưỡng cao. Ngược lại, protit nào thiếu nhiều loại axit
amin không thay thế là protit có phẩm chất kém. Mỗi loài gia súc đòi hỏi một loại axit
amin không thay thế khác nhau.
Ví dụ : ở người axit amin histidin có thể tự tổng hợp nhưng ở gia súc nhai lại thì
không tổng hợp
được, axit amin không thay thế của lợn tương tự như ở chuột gồm có :
lizin. tryptophan. histidin, phenylalanin, leucin, izoleucin, treo nin, methionin, vanin,
một số loại thay thế được một phần là acginin, tyroxin được tạo nên từ phenylalanin và
cystin được tổng hợp từ methionin và serin. Ở gà, ngoài các axit amin quan trọng trên.
glixin và axit glutamic cũng thuộc loại axit amin quan trọng không thể thay thế ở gà
con và gà đẻ trứng. Người ta thường căn cứ vào thành phần và số lượng các axit amin
để phân loại protit. Theo phương pháp này protit thuần được chia thành 3 loạ
i:
- Protit hoàn toàn trong thành phần có đủ các loại axit amin không thay thế.
- Protit nửa hoàn toàn trong thành phần thiếu một vài loại axit aimin không thay
thế. Loại này chỉ duy trì được sức khoẻ nhưng không đảm bảo sinh trưởng bình

thường.
- Protit không hoàn toàn : Thành phần chỉ có vài loài axit amin không thay thế
nên không thể duy trì sức khoẻ và sinh trưởng bình thường được.
Ví dụ : protit của ngô, sắn, khoai lang
Các amin : Hợp chất chứa N nhưng không phải protit. Bao gồm tất cả các chất có
nguồn gốc từ những sả
n phẩm trung gian của quá trình tổng hợp protit như nitrit, nitrat
hoặc sản phẩm của quá trình phân giải protit ở trong cơ thể như urê. axit uric, purun,
pirimidin. nucleozit. serin, alanin. axit glutamic. axit aspHctic
5.5.2.2. Vai trò của protit trong nuôi dưỡng vật nuôi

96
Tác dụng chủ yếu của protit là tham gia tạo hình cơ thể, thành phần dinh dưỡng
chủ yếu nhất cấu tạo nên tế bào mô cơ, cấu tạo các tổ chức cơ quan bộ phận cơ thể,
cần tạo men, kích tố, kháng thể và nhiều loại vitamin. Anghen đã có câu nói nổi tiếng
"Sống là phương thức tồn tại của các thể protit" nó đã nói lên vai trò của protit không
thể thiếu trong đời sống động v
ật. Protit là chất cơ sở để cấu tạo nên bào thai, nguyên
liệu chính để con vật hoàn thành quy luật sinh trưởng phát dục, là chất bổ sung chủ
yếu để thay cũ đổi mới tế bào với hoạt tính sinh dục cao hơn. Trong nuôi dưỡng vật
nuôi, nếu thiếu protit gia súc non sẽ bị đình trệ sinh trưởng phát dục, gia súc trưởng
thành sức sản xuất bị giảm sút, thai phát dục kém hoặc chết yểu, gia súc cho thịt sinh
trưởng ch
ậm, phẩm chất thịt kém. Nếu quá trình nuôi dưỡng bị thiếu protit kéo dài sẽ
làm rối loạn trao đổi chất, cơ thể phát triển không bình thường thậm trí có thể bị chết
nếu thiếu trầm trọng bởi không có chất dinh dưỡng nào thay thế được vai trò của protit
trong cơ thể sống. Lượng protit tối thiểu để duy trì sinh trưởng phát dục bình thường
của động vật trong một ngày đêm như sau:
Cừu : 1 gr protit tiêu hoá /1kg th
ể trọng.

Người : 1 - 1,5gr protit liều hoá/1kgthể trọng.
Ngựa 1 - 1,4gr protit tiêu hoá /1kg thể trọng.
Bò sữa nghỉ vắt sữa : 0,7gr protit tiêu hoá/1kg thể trọng.
Bò sữa đang vắt sữa 1gr protit tiêu hoá/1kg thể trọng.
5.5.2.3. Vai trò của axit amin
Axit amin là thành phần cấu tạo của protit, hiện nay người ta đã phát hiện được
trên 20 loại axit amin trong cơ thể động vật. Bằng thí nghiệm trên chuột W.C. Rose
1930 đã nhận thấy trong số những axit amin cấu tạo nên protit có 9 loạ
i cơ thể chuột
không thể tự tổng hợp được, thiếu những axit amin này chuột sẽ ngừng sinh trưởng.
Những axit amin còn lại, chuột có thể tự tổng hợp được một phần hoặc hoàn toàn.
Những axit amin cơ thể không tự tổng hợp được gọi là các axit amin không thay thế
hay axit amin quan trọng bắt buộc phải được cung cấp từ bên ngoài. Đối với cơ thể vật
nuôi nhu cầu
đối với axit amin khác nhau. Đối với lợn và gia cầm. qua nghiên cứu cho
thấy chúng không những đòi hỏi phải cung cấp một lượng axit amin nhất định mà còn
yêu cầu phải cân bảng với tỷ lệ nhất định giữa các axit amin không thay thế. Nhiều thí
nghiệm đã chứng minh nếu thiếu một loại axit amin cần thiết nào đó trong thức ăn mà
không được bổ sung thêm đầy đủ thì tỷ lệ hấp thụ lợ
i dụng các axit amin khác của toàn
bộ khẩu phần bị giảm đi rõ rệt, nếu một loại nào đó thừa cũng không được dự trữ trong
cơ thể mà sẽ bị phân huỷ hoặc thải ra ngoài.
Ví dụ : Nếu thiếu phenylalanin sẽ ảnh hưởng tới phần tiết tyroxin và adrenalin,
thiếu tryptophan gia súc sinh sản kém. thừa methionin thì tỷ lệ cái/đực sẽ nhiều khi
sinh sản.
Người ta còn tính được sự hấp th
ụ lyzin là 100% thì tỷ lệ hấp thụ methionin và
cystein là 30-40% . tỷ lệ hấp thụ phenylalanin và tyrozin là 78%, tỷ lệ hấp thụ histydin

97

là 33% . vanin là 12% …
Như vậy : Khi xác định giá trị dinh dưỡng của thức ăn ta phải xem xét tới hàm
lượng axit amin lyzin trong protit của thức ăn nhiều hay ít để kịp thời bổ sung. Cũng
chính vì vậy mà người ta thấy rằng khẩu phần mất cân đối về axit amin sẽ tiêu tốn
nhíều protit tổng số mới bảo đảm cho cơ thể sinh trưởng bình thường. Những axit
amin thường thiếu trong khẩu phần của gia súc là lyzin, methionin, triptophan.
5.5.2.4. Giá tr
ị sinh vật học (GTS VH) của protit
Giá trị sinh vật học của protit là chỉ tiêu đánh giá chất lượng của protit cao hay
thấp, nói lên khả năng tích luỹ protit của cơ thể động vật.
Có nhiều phương pháp xác định giá trị sinh vật học của protit.
Những phương pháp thường dùng phổ biến là phương pháp cân bằng N của
Thomat Mitchell. Theo ông, giá trị sinh vật học của protit được đánh giá bằng tỷ lệ %
giữa protit tích luỹ
được trong cơ thể và protit tiêu hoá được trong thức ăn đó:

Một loại protit nào đó có giá trị sinh vật học cao chứng tỏ chất lượng protit càng
tốt, GTSVH protit động vật thường cao hơn protit thực vật. Thí nghiệm trên lợn, giá trị
sinh vật học của protit sữa là 84- 85%. Bột cá là 75%, protit đậu tương là 73%, protit
ngô là 54%. Tuỳ loài vật nuôi, phẩm giống vật nuôi khác nhau mà giá trị sinh vật học
cũng khác nhau.
5.5.2.5 Biện pháp nâng cao giá trị sinh vật học của protit
5.5.2.5.1. Hỗn họp nhiều loại thức
ăn
Hỗn hợp nhiều loại thức ăn nhằm bổ sung chất dinh dưỡng cho nhau, giúp cân
đối về axit amin cần thiết, thoả mãn nhu cầu vật nuôi, do đó nâng cao giá trị sinh vật
học của protit. Thí nghiệm trên chuột cho thấy nếu không hỗn hợp thì ngô có giá trị
sinh vật học là 60%sữa là 85%( nhưng nếu hỗn hợp 3 phần ngô với 1 phần sữa thì giá
trị sinh vật học của hỗn hợp là 76% trên chuột thí nghiệ
m chứ không phải là 66% như

tính toán. Mặt khác, mỗi loại thức ăn chỉ có vài loại axit amin quan trọng, do đó khi
phối hợp cũng cần phải xem xét thành phần của các loại axit amin trong loại thức ăn
đó để phối hợp cân đối các axil amin.
5.5.2.5.2. Xử lý bằng nhiệt độ
Xử lý bằng nhiệt độ sẽ làm tăng giá trị sinh vật học của protit đối với nhiều loại
protit họ Đậ
u. Đặc biệt, là đậu tương do nhiệt độ đã phá huỷ chất ức chế men trypsin,

98
đồng thời giải phóng methionin từ một liên kết bền vững mà dịch và men liều hoá cơ
thể động vật không thuỷ phân được. Bột khô dầu đậu tương chế biến ở nhiệt độ 112-
115
0
C sắc trong hai phút rưỡi hay 105
0
C trong 90 phút sẽ làm giá trì sinh vật học protit
tăng gấp 2 lần so với bột khô dầu đậu tương sống.
Tuy nhiên, đối với một số loại thức ăn khác, việc chế biến bằng nhiệt độ cao
trong thời gian kéo dài có thể ảnh hưởng xấu đến giá trị sinh vật học của protit như
protit của trứng, sữa, thịt, cá, ngũ cốc vì ở nhiệt độ cao đã làm biến tính nhiều lo
ại
protit nhất là những protit đơn giản. Mặt khác, axit amin của protit sẽ liên kết với
đường của thức ăn tạo thành liên kết khó phân huỷ, làm cản trở sự hấp thụ của cơ thể.
Ví dụ :
-Trong sữa casein, ở nhiệt độ cao, những axit amin chứa các nhóm amin-NH2
không nằm trong mối liên hệ peptit chủ yếu là nhóm amin của lyzin, guanido của
deginin, nhóm indol của tryptophan và nhóm imidazol của histidin đã liên kết với
đường tạo thành liên kết khó bị men tiêu hoá phân gi
ải.
- Lyzin trong protit của thức ăn ở nhiệt độ cao sẽ bị mất khả năng lợi dụng vì

nhóm cacboxyl của axit amin dicacboxylic đã phản ứng với amin của lyzin tạo thành
một liên kết peptit mới khó bị tiêu hoá, thuỷ phân.

5.5.2.5.3. Bổ sung thêm axit amin cần thiết
Bổ sung axit amin cần thiết vào khẩu phần còn thiếu làm tăng giá trị sinh vật học
của protit. Thông thường các axit amin lyzin, lryptophan, methionin thường dùng để
bổ sung vào khẩu phần.
5.5.2.5.4. Ủ men sinh vật : Làm tăng số lượng, chất lượng protit do tế bào nấm
men có khả năng tổng hợp protit từ đạm vô cơ.
5.5.3. Quan hệ của lipit với cơ thể
Đối với cơ thể gia súc, lipit có vai trò dinh dưỡng sau:
- Lipit là thành phần quan trọng cấu tạo nên màng tế bào, cấu tạo hồng cầu trong
máu, tế bào thần kinh, tế bào cơ quan nội tạng
- Lipit là thành phần dự trữ năng lượng tốt nhất cho cơ thể dưới dạng mỡ lá, mỡ
dưới da, mỡ ở màng treo ruột (mỡ cơm xôi), mỡ xen kẽ ở cơ và xương. Xung quanh
thận, buồng trứng mỡ dự trữ ở đuôi của c
ừu, u vai của lạc đà là cơ quan dự trữ mỡ
đặc biệt.
Năng lượng toả ra khi ôxy hoá lai mỡ gấp 2,3 lần so với lại các chất dinh dưỡng
khác như protit và đường bột.

99
- Lipit là nguyên liệu tạo thành vitamin D
3
và các chất nội tiết tố như progesterol,
tertosterol, oestrogen các kích tố này lại quan hệ mật thiết tới sinh sản của gia súc,
do đó thiếu lipit khả năng sinh sản sẽ bị đình trệ.
- Lipit là dung mỗi hoà tan vitamin A, D, K, E cho nên nếu thiếu lipit trong thức
ăn sẽ dẫn tới thiếu 4 loại vilamin trên, từ đó gây rối loạn trao đổi chất và sinh trưởng,
sinh sản của cơ thể.

Lipit trong cơ thể được ôxy hoá, cung cấp n
ăng lượng cho hoạt động sống của cơ
thể, mặt khác lớp mỡ dự trữ dưới da còn có tác dụng là lớp đệm bảo vệ cho cơ thể
tránh được những tác động cơ học và nhiệt độ bên ngoài.
Hàm lượng lipit chứa trong các loại thức ăn thay đổi nhiều, thông thường các hạt
cây có nhiều dầu hàm lượng lipit cao, nói chung hạt có nhiều hơn cành lá, rễ, củ chứa
ít lipit nhất. Lipit của các lo
ại cỏ xanh chứa nhiều axit béo chưa no, các loại thức ăn
xanh phơi khô như : rơm, cao lương, ngô, có hàm lượng axit béo linoleic và linolenic
tương tự như thức ăn xanh. Mỡ thực vật chứa nhiều axit béo không no hơn mỡ động
vật nên thường mềm nhão hơn. Để xác định độ no, đói của lipit người ta thường dùng
chỉ số xà phòng hoá hoặc chỉ số iod (thực hiện trong phòng thí nghiệm sinh hoá)
Axit béo chưa no trong mạch cacbon có chứa nhi
ều mối liên kết đôi kém bền
vững nên dễ bị ôxy hoá làm mỡ nhanh bị ôi thiu. Đối với loài gia súc nhai lại, do trong
dạ cỏ có loài vi sinh vật hydrat hoá biến axit béo không no trong cỏ xanh thành axit
béo no nên mỡ trâu bò thường cứng. Đối với lợn, nếu thức ăn nhiều bột đường thì mỡ
cứng vì chứa nhiều axit béo no nhất là Stearic, nhưng nếu nuôi bằng thức ăn xanh
nhiều hay thức ăn hạt có dầu, cám gạo sẽ làm cho mỡ m
ềm nhão, kém phẩm chất.
5.5.4. Quan hệ của gluxit với cơ thể
Gluxit là thành phần chủ yếu trong thức ăn thực vật bao gồm các loại:
- Đường đơn (monoxaccarit) : glucoz, fructoz, glactoz - Đường đôi (dixaccarit) :
lacloz, maltoz , xaccaroz
- Đường ba (trixaccarit) : rabinoz
- Đường đa (polyxaccarit) : tinh bột, dextrin, xenluloz.
5.5.4.1. Vai trò của gluxit
- Gluxit là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể vật nuôi theo con
đường gluxit của thức ăn liều hoá thành glucoz, glucoz được hấp thụ vào máu dự trữ
dưới d

ạng mỡ và phân giải cung cấp năng lượng.
Đối với cơ thể động vật, ít nhất có 1/2 nguồn nhiệt năng cung cấp cho hoạt động
sống là do gluxit.
- Gluxit góp phần cấu tạo nên các tổ chức cơ thể và tổ chức sống như thể Riboz
trong nhân tế bào, glucolipit trong tế bào tổ chức não, thần kinh
- Gluxit có tác dụng điều tiết sinh lý, xúc tiến quá trình ôxy hoá chất béo, giảm
bớt sự phân giải protit nếu c
ơ thể có đủ chất đường. Ngoài ra còn có tác dụng duy trì

100
đường huyết (glucoz máu) chống chứng tích thể xe ton trong máu vì có tính khử mạnh,
tác dụng giải độc khi cơ thể nhiễm độc một số chất.
5.5.4.2. Phân loại gtuxit
5.5.4.2.1. Đường đơn
Đường 6 cacbon có 3 loại quan trọng : glucoz, fructoz, galactoz.
Trong cơ thể động vật, chúng có thể biến thành glycogen và dùng để duy trì hàm
lượng đường huyết bình thường trong máu. Trong đó, glucoz là quan trọng nhất, phân
bố rộng rãi trong thiên nhiên, trong cơ thể động vật nguồn nhiệt năng do nó cung cấp
chiếm 1/2 tổng số nhiệt năng. Glucoz thường có nhiều trong các loại thực vật (trong
nho chiếm 20%), trong máu 0.1-0,2%, tuy nhiên nếu hàm lượng glucoz trong máu quá
cao sẽ sinh bệnh đái đường. Fructoz có nhiều trong hoa quả chín, ít có trong cơ thể
động vật và dễ chuyển biến thành glucoz. Galactoz không có trong tự nhiên chỉ có khi
phân giải đường lactoz trong sữa thành glucoz và galactoz.
5.5.4.2.2. Đường đôi : Trong sữa có 1actoz, trong mía có xaccaroz.
5.5.4.2.3. Đường đa : Cấu tạo phức tạp, thường ở dạng khó hoà tan, có hai loại
quan trọng là tinh bộ
t và xenluloz.
Tinh bột : Có công thức cấu tạo chung là (C
6
H

10
O
5
)
n
Phân bố rộng rãi trong thiên
nhiên, trong các loại cây hoà thảo, trong rễ, củ, quả Trong cơ thể động vật có glycogen
cấu tạo tương tự tinh bột.
Tinh bột dê thuỷ phân thành glucoz dưới tác dụng của nhiệt, men, axit là nguồn
năng lượng quan trọng của cơ thể động vật. Về dinh dưỡng, tinh bột là thức ăn dễ tiêu
hoá, nhất là khi dùng nhiệt độ để xử lý tạo điều kiện trương nở
thức ăn giúp cơ thể tiêu
hoá.
Hàm lượng tinh bột trong gạo tẻ thường là : 65.5%, trong ngô 72%, trong sắn
tươi là 12-24%
- Xenluloz : (chất xơ) phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, cấu tạo nên màng tế
bào thực vật. Công thức chung là [(C
6
H
10
O
5
)
x
]
y
Do cấu tạo rất phức tạp nên rất khó bị
phân huỷ, là thành phần khó tiêu hoá nhất của thức ăn: do vậy loại thức ăn nào có
nhiều xenluloz thì giá trị dinh dưỡng giảm đi như vậy xenluloz có vai trò sau:
+ Cung cấp một phần chất dinh dưỡng cho cơ thể vật nuôi nhất là loài nhai lại.

+ Làm chất độn để tăng thể tích của thức ăn gây cảm giác no.
+ Làm khuôn phân giúp nhu động đường tiêu hoá tăng.
5.5.5. Vai trò củ
a chất khoáng
Chất khoáng có vai trò to lớn trong các tổ chức sống của cơ thể động vật cũng
như thực vật. Chức năng của chất khoáng trong cơ thể vật nuôi muốn hình muốn vẻ
nhưng không thể coi chúng là nguồn cung cấp năng lượng. Chất khoáng là chất cấu tạo
trong thành phần tất cà các tế bào và mô cơ thể. Trong xương, chất khoáng chiếm
khoảng 83% lượng khoáng của cơ thể
(90% can xi, 80-85% photpho và 70% manhê có

101
mặt trong xương). Bộ xương phát triển vững chắc là yếu tố quan trọng trong quá trình
sinh trưởng phát triển cũng như sức khoẻ và tính năng sản xuất của vật nuôi.
- Chất khoáng tham gia vào quá trình chuyển hoá vật chất trong cơ thể, tham gia
vào các quá trình sinh lý, quá trình hô hấp của cơ thể, khoáng tham gia vận chuyển
ôxy và thải khí cacbonic. Trong quá trình tiêu hoá, các chất khoáng đảm bảo điều kiện
thích hợp cho sự hoạt động của các fecmen liều hoá trong dạ
dày và ruột động vật.
Chất khoáng tham gia đầy trì ổn định áp suất thẩm thấu, duy trì tình trạng bình thường
của chất nguyên sinh, chất khoáng còn giữ ổn định độ pH trong dịch mô và máu. Tính
ổn định của áp suất thẩm thấu được điều hoà bởi sự chuyển muối khoáng từ thành ruột,
dạ dày ra ngoài cùng với sự hoạt động của thận tạo nên sự cân bằng cần thiết do thải từ

cơ thể ra ngoài cùng với nước tiểu một số chất có áp suất thẩm thấu cao hơn hoặc thấp
hơn. Chất khoáng còn giữ ổn định độ pH trong dịch mô và đặc biệt là trong máu. Như
chúng ta đã biết cơ thể cố giữ ổn định pH : 7.36 (hơi mềm) của phản ứng máu. Sự xê
dịch rất nhỏ của phản ứng máu về phía này hoặc phía khác đều dẫn t
ới tình trạng phá
huỷ hoạt động sinh lý bình thường của cơ thể. Do máu có độ đệm rất nhạy nên sức

chống đỡ lớn đối với mọi biến đổi về phản ứng của mình. Tính chất này của máu dựa
vào các chất đệm và trong chất đệm có một số chất khoáng.
Trong máu có 3 hệ thống chất đệm khác nhau:
- Chất đệm cacbonat cấu tạo từ bicacbonat natri và cacbonal kali.
- Chất đệm photphat cấ
u tạo từ monodiphotphat natri và kali.
- Chất đệm protit.
Độ đệm là khả năng chống lại sự biến đổi của phản ứng khi bổ sung chất axit
hoặc kiềm vào máu.
Chất khoáng có khả năng tạo ra phản ứng thích hợp trong mỗi trường, ở đó các
fecmen, hormon thể hiện tác dụng của mình. một vài chất khoáng : Cu, Zn, Mg, I
2,

Co… có trong thành phần của các fecmen, hormon, vitamin và làm tăng hoạt tính của
chúng. Chất khoáng còn tham gia thành phần một số vitamin. Nhờ có muối khoáng
trong cơ thể mà đã giải độc được một số độc tố trong thức ăn trong quá trình trao đổi
chất.
Bên cạnh hàm lượng tuyệt đối của chất khoáng trong thức ăn, quan hệ giữa một
số nguyên tố với nhau và quan hệ của tổng số gam đương lượng các nguyên tố bazơ
với tổng số gam đương lượng của các nguyên tố axit có một ý nghĩa quan trọng trong
dinh dưỡng động vật (gam đương lượng các chất gọi là số lượng gam-phầntử của nó
trong phản ứng tương đương với 1gr nguyên tử hidro hoặc 1/2 gr nguyên lử ôxy).
Nghiên cứu thành phần chất khoáng ở động vật cho thấy hầu như tất cả các chất
nguyên tố hoá học đều có trong cơ thể động v
ật. Vì vậy không chỉ hạn chế xem xét vai
trò và kiểm tra khẩu phần theo một số ít chất khoáng mà cẩn phải nghiên cứu toàn diện
các chất khoáng trong cơ thể, hàm lượng khoáng trong thức ăn từ đó xác định mức độ
bổ sung của từng loại.

102

Theo trường phải của viện sỹ V.I.Vernatxki thì các nguyên tố khoáng được chia
thành 3 nhóm, căn cứ vào thành phần của nó trong cơ thể động vật:
- Nguyên tố khoáng đa lượng : Gặp trong cơ thể với hàm lượng 10 – 10
-2
%
- Nguyên lố khoáng vi lượng : Gặp trong cơ thể với hàm lượng 10
-2
- 10
-5
%.
- Nguyên tố siêu vi lượng : Có hàm lượng nhỏ hơn 10
-5
%.
Theo cách phầnchia này : Nguyên tố đa lượng gồm có : Ca, P, S K, Mg, Na, Cl,
Al, Si
- Nguyên tố vi lượng có : Fe, Cu, Co, I
2
Mg, F, Zn
- Nguyên tố siêu vi lượng : Mo, Bo
Vai trò của các chất khoáng chủ yếu cấu tạo nên bộ xương của động vật dưới
dạng tricanxi photphat chiếm khoảng 70% tổng lượng khoáng. Nếu thiếu Ca, P trong
khẩu phần hoặc tỷ lệ Ca, P không thích hợp sẽ dẫn đến bệnh còi xương và mềm xương
ở gia súc, kìm hãm quá trình sinh trưởng phát triển. Chỉ có 1 % Ca ở dạng tự do phân
bố ở các mô mềm còn P có tới 20% dưới dạng photphoprotien, photphocreatin.
photpholipit, hexopholphat, trong các mối liên kết cao năng như ATP, ADP
Trong huyết thanh, Ca chiếm 9-12mg/100ml, P chiếm 4- 9mg/100ml. Ca và P có
chức năng sinh lý quan trọng. Ca dưới dạng ion củng với K
+
và Na
+

có tác dụng kích
thích hoạt động thần kinh và giữ cho thần kinh hoạt động bình thường, Ca còn tham
gia và quá trình đông máu, đông sữa, kích thích men ọxydaza hoạt động giúp cân bằng
nồng độ muối vô cơ. P tham gia phân giải chất đường, P còn tham gia vào quá trình
vận động của cơ vì có nhiều trong ATP, ADP, CP, là nguồn cung cấp năng lượng của
cơ, ngoài ra P còn có vai trò trong tổ chức não và thần kinh như leucitin, xephalin.
sphingomyelin. Vì vậy, người phương tây thường nói "Không có photpho thì không có
sự suy nghĩ".
Nguồn cung c
ấp : Có trong sữa động vật, trong thức ăn khoáng như vỏ sò, ốc,
hến, vôi, thạch cao, bột xương Trong thức ăn xanh hàm lượng P nhiều hơn Ca.
P và Ca muốn được hấp thụ phải ở dạng hoà tan, vì vậy: bất kỳ nguyên tố nào có
tác dụng hoà tan Ca, P đều làm tăng khả năng hấp thụ Ca, P, đặc biệt trong mỗi trường
axit. Vì vậy, đường lactoz và các loại đường nói chung đều làm cơ quan tiêu hoá có
phán ứng axit nên đều làm t
ăng hấp thụ lợi dụng Ca, P.

Nhưng nếu ăn nhiều chất béo thì Ca không được hấp thụ vì không đủ muối mật
để hoà tan xà phòng Ca.
, TL tham khao, P.V. Hai

103
Muốn Ca, P được hấp thụ thì tỷ lệ Ca, P phải thích hợp. Ở gia súc non, tỷ lệ này
là 1.5-2/1 , gia súc trưởng thành là 1,2- 1,5/1 . Phải cung cấp đủ vitamin D vì vitamin
D có tác dụng làm giảm pH ở ruột, tạo nên mỗi trường axit làm tăng hoà tan Ca, P.
5.5.5.1. Na, P, Cl, Mg
Na và K có trong thành phần tất cả các mô của động vật. cần thiết cho duy trì sự
kích thích mô cơ hoạt động trong đó Na kích thích còn K ức chế. Na tham gia trong
máu và dịch lâm ba, tham gia cân bằng pH trong cơ thể, điều chỉnh áp suất thẩm th
ấu

giữa các tế bào và máu, giữ cho cơ thể có hàm lượng nước nhất định. K là thành phần
trong tế bào tham gia vào hoạt động của cơ và thần kinh, Cl có trong cơ thể động vật
chiếm 0,15 % thể trọng có mặt trong các tế bào và thể dịch. Trong dạ dày, CI ở dạng
HCI tham gia hoạt hoá men pepsinogcn thành pepsin, tham gia phân giải protit HCl
còn có tác dụng làm trương phồng protit.
Nguồn cung cấp : Trong các loại thức ăn thực vật có nhiều K, còn Na và Cl chủ
yếu được cung c
ấp từ muối ăn. Nếu thiếu muối cơ thể động vật sẽ kém ăn, gia súc non
sẽ chậm lớn, sức khoẻ giảm sút, tiết sữa giảm, hoạt động của cơ và thần kinh bị rối
loạn, tim loạn nhịp
Mg có số lượng không nhiều nhưng cùng Ca có trong tất cá các mô và cơ quan.
Mg làm tăng hoạt tính một vài fecmen, tham gia quá trình chuyển hoá gluxit và rất cần
thiết cho sự sinh sản bình thường. Tuy nhiên, khi
đưa vào cơ thể quá nhiều Mg sẽ làm
tăng sự bài tiết Ca trong quá trình trao đổi chất dẫn đến kìm hãm sự phát triển của gia
súc non. Ở động vật ăn cỏ, khi hàm lượng Mg trong máu cao sẽ gây nên sự "Mê
manhe" (hiện tượng buồn ngủ kéo dài) còn khi lượng Mg trong máu quá thấp sẽ gây
bệnh tetania, con vật trở nên khó tính, mất bình tĩnh, giảm tính thèm ăn, cuối cùng dẫn
đến co giật và hôn mê.
5.5.5.2. Fe, Cu, Co, I
2
, Zn (nguyên tố vi lượng)
* Fe nằm ở ranh giới giữa các nguyên tố đa lượng và vi lượng.
Về hàm lượng trong cơ thể. Fe chiếm vị trí thứ 1 1 vị thường có số lượng 10
-2
%.
Fe chứa trong thành phần hemoglobin chức năng chủ yếu là vận chuyển O
2
từ phổi tới
mô bào và vận chuyển CO

2
từ mô bào về phổi. Fe có trong một vài fecmen hô hấp,
trong cơ thể nó ở dạng hợp chất vô cơ và hữu cơ, 1/2 lượng Fe nằm trong hemoglobin.
Trong cơ thể, hemoglobin phân giải sẽ giải phóng Fe được đọng lại ở gan, lách hoặc
được đưa tới tuỷ xương để tạo hồng cầu. Nếu thiếu Fe, trong khẩu phần gia súc sẽ có
biểu hiện thiếu máu, chậm lớn. Qua phân tích thức ăn cho thấy ngô có 1 3mg Fe/1 kg.
đậ
u có 57mg, cám có 127mg Fe, yến mạch có 70mg, cỏ khô họ Đậu l00mg, sữa bò
2,4mg/1kg
* Cu : Tham gia tạo máu, tạo xương, thiếu Cu xương nhẹ, mềm dễ gãy đồng thời
còn làm giảm chức năng sinh sản của động vật, giảm sản lượng sữa, rối loạn chức
năng sinh lý, phát sinh còi cọc, giảm tính ngon miệng, thiếu máu, gia súc non sẽ chậm
lớn, lông thô mất tính đàn hồi và mất màu sắc tự nhiên của lông.

×