Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

Giáo trình Cơ sở chăn nuôi - Chương 7 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.24 KB, 34 trang )


143

Chương 7
NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA VẬT NUÔI

Nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi = nhu cầu dinh dưỡng duy trì + nhu cầu dinh
dưỡng sản xuất
7. 1. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA VẬT NUÔI DUY TRÌ
7.1.1. Khái niệm
Nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi duy trì là nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu cho một
đầu gia súc trong một ngày đêm trong trạng thái nghỉ ngơi, không làm việc, không
lãng giảm trọng lượng, không chửa đẻ không tiết sữa
L
ượng thức ăn hằng ngày để đảm bảo trạng thái duy trì gọi là khẩu phần duy trì.
Người ta quy định điều kiện của trạng thái duy trì như sau:
- Hoạt động của con vật phải giảm đến mức thấp nhất, tiêu hao năng lượng ít
nhất.
- Con vật không cho các sản phẩm, không tăng, giảm trọng lượng, không nuôi
thai, không làm việc, không tiết sữa hay đẻ trứng.
Trạng thái thể chất không thay đổ
i, luôn ở trạng thái cân bằng, con vật có thể đi
lại nhẹ nhàng.
Điều kiện trạng thái trao đổi cơ bản: Con vật phải nghỉ ngơi hoàn toàn, không đi
lại, không có thức ăn trong đường tiêu hoá. Không mất nhiệt năng để duy trì thân
nhiệt, điều kiện nhiệt độ thích hợp là 25
0
C. Trong thí nghiệm. vật nuôi dạ dày đơn phải
nhịn ăn từ 12 giờ, động vật nhai lại nhịn ăn trước 24-48 giờ.
7.1.2. Nhu cầu các chất dinh dưỡng duy trì
7.1.2.1 Nhu cầu nhiệt năng


Có thể xác định nhu cầu nhiệt năng duy trì bằng cách cho vật nuôi sống trong
điều kiện duy trì, ăn các khẩu phần khác nhau. Khẩu phần nào không làm tăng hay
giảm trọng lượng gọi là khẩu phần duy trì giá trị năng l
ượng của khẩu phần đó là giá
trị năng lượng duy trì. Tuy nhiên, phương pháp này không chính xác vì con vật không
giảm khối lượng chưa hẳn là đã không tiêu hao dinh dưỡng tích luỹ trong cơ thể vì
lipit và protit của cơ thể giảm đi nhưng nước lại đi vào tổ chức thay thế một phần trình
trường đã mất. Nhiều tác giả đề nghị căn cứ vào nhu cầu năng lượng cho chuyển hoá

bản để xác định nhu cầu năng lượng duy trì (thí nghiệm trao đổi hô hấp).

- Khi cơ thể sử dụng gluxit như glucoz. ta có phản ứng sau:


144
Như vậy: Khi đốt 1 phân tử gam (180gr) glucoz sẽ tiêu thụ 6 đơn vị thể tích khí
O
2
sản sinh ra 6 đơn vị thể tích khí CO
2
và giải phóng ra 674 kcalo năng lượng và QR
= 1.

Tỷ khối của O
2
= 1,34 gr/l. Vậy, 1 phân tử gam khí O
2
= 32/1,34 = 22,4 lít. Do
đó, 1 lít khí O
2

dùng để ôxy hoá glucozơ sẽ giải phóng năng lượng bằng:

CT là hệ số nhiệt của khí O2 (lượng nhiệt sinh ra tính bằng kcalo khi tiêu thụ 1 lít
khí O2).
- Khi cơ thể sử dụng lipit. ví dụ: Triobin ta có phản ứng:

Tương tự, khi sử dụng Protit người ta tính được QR = 0,8
CT = 4,6 kcalo/11ít O2
Một số nhà khoa học đề nghị căn cứ vào thể trọng của con vật để tính nhu cầu
nhiệt năng trao đổi cơ bản rồi từ đó tính ra nhu cầu nhiệt năng duy trì.
Nếu gọi B là nhiệt năng dùng vào trao đổi cơ bản và A là diện tích bề mặt cơ thể,
mà B tỷ lệ với A. Nên ta có B = k.A(1); k là hãng số tỷ l
ệ Diện tích bề mặt lại tỷ lệ với
thể trọng (W), nên ta có thể biểu diễn mối tương amin này bằng công thức: A =
k
1
.w
c
(2); kì và c là hằng số tỷ lệ thay A vào biểu thức ( 1 ) ta có: B = k.k
i
.w
c
Thay
k.k
ì
= K la có: B = K.w
c

Khảo sát những động vật có vú trưởng thành có tầm vóc khác nhau (chuột, thỏ,
chó, ngựa, cừu, lợn và bò), Brody đã tìm ra hăng số tỷ lệ K > 0,5 và c = 0,75, gia cầm

sau này tìm được c = 0,64. Vì vậy ở động vật có vú trưởng thành, nhiệt năng trao đổi
cơ bản B = > 0,5.W
0.75
. Từ biểu thức trên: ta tìm ra nhiệt năng trao đổi cơ bản của con
vật có thể trọng 500kg, 250kg, 50kg, tương ứng là 6500 kcalo, 3980 kcalo, 1226 kcalo.
Để tính toán, người ta đà rút ra một tỷ lệ sau: Nếu khối lượng con vật A bằng 1/2
khối lượng con vật B thì nhiệt năng dùng trao đổi cơ bản của con vật A = 0,6 nhiệt
năng của con vật B.

145
Ví dụ: Con vật nặng 500kg có nhiệt năng trao đổi cơ bản là 6500 kcalo thì con
vật nặng 250kg có nhiệt năng trao đổi sẽ là: 6500 kcalo
×
0,6 = 3900 kcalo
Để tính nhu cầu duy trì. Brody đề nghị tăng gấp đôi nhiệt năng trao đổi cơ bản.
Nhiệt năng này cung cấp cho con vật tính theo nhiệt năng tiêu hoá.
7.1.2.2. Nhu cầu protit duy trì
Trong điều kiện duy trì, con vật cần phải được cung cấp protit để bổ sung cho
protit bị phân huỷ trong tế bào và để cấu tạo men, kích tố kháng thể. vitamin nhằm
đảm bảo cho con vật trao đổi chất bình thường. Muốn xác định nhu cầ
u protit duy trì
cần phải căn cứ vào nhu cầu protit trao đổi cơ bản. Nhơ (N) dùng trao đổi cơ bản bằng
N bài xuất ra ở nước tiểu (N nội sinh). SMuts nghiên cứu trên những con vật khác
nhau (từ chuột thỏ, đến lợn) đã thấy rằng tỷ lệ N nội sinh và nhiệt sản xuất ra trong
trao đổi cơ bản không thay đổi. Cứ 1kcalo dùng vào trao đổi cơ bản có 2mg N nội
sinh. Trên cơ sở này, SMuls đã đư
a ra công thức lính protit dùng vào trao đổi cơ bản
như sau:
P = 0,88. w
0,73


trong đó: P: protit trao đổi cơ bản.
w: thể trọng con vật; 0,88 và 0,73 là hằng số tỷ lệ.
Nhu cầu Protit duy trì đối với gia cầm: Các kết cả nghiên cứu cho biết ở gia cầm
N nội sinh mất đi hằng ngày khoảng 250 mg/1kg thể trọng (tương ứng với 250
×
6,25
=1600 mg Prolit) tức là là khối lượng cơ thể cần 0,0016gr Protit. Hiệu xuất lợi dụng
Protit ở gia cầm đẻ trứng là 55% ở gia cầm nuôi thịt là 64 %. Vậy, nhu cầu Protit hằng
ngày để duy trì ở gia cầm đẻ trứng là:

7.1.2.3. Nhu cầu duy trì đối với các chất dinh dưỡng khác
7.1.2.3.l. Khoáng
Đối với chuột, thỏ, lợn và người thì nghiên cứu của Mìtchell đã kết luận: Can xi
nội sinh mất đi không đổi và bằng 0,125mg/1 kcalo năng lượng trao đổi cơ bản còn
phôtpho thì băng 1/2 lượng canxi nội sinh, dựa trên kết quả này, các tác giả người Anh
đã xác định nhu cầu duy trì về Ca và P của các loài gia súc khác nhau là: 0,25 - 0,3%
tổng TDN (tổng các chất dinh dưỡng tiêu hoá được).
Nhu cầu duy trì Nacl= 0,5TDN.
Với
đại gia súc, các nhà khoa học Liên Xô đề nghị dùng tiêu chuẩn duy trì sau:
Cứ 100kg thể trọng cung cấp 2-7 g Ca, l,3-3g P và 5g Nacl.
Các chất khoáng khác như: Fe, Cu. Co, I. Zn cũng rất cần thiết chở vật nuôi duy
trì để đảm bảo cho con vật trao đổi chất bình thường.


146
7.1.2.3.2. Nhu cầu vitamin duy trì
Nhu cầu vitamin phụ thuộc vào thành phần khẩu phần và chức năng trao đổi của
từng loại vitamin. Trong khẩu phần ít lipit thì số lượng các vitamin trong khẩu phần

duy trì như sau (theo đề nghị của Mitchell): tiamin 1,1; riboflavin: 1,4; pindoxin 3,2;
axit pHntotenic 4,8 (mg/kg thức ăn). Các loại ăn tạp (lợn) và ăn thịt cần axit folic: 0-
2mg và cyancobalamin 10-20
g
µ
cho 1kg chất khô thức ăn. Vitamin A cần 6500-8500
uil100kg thể trọng, nếu là caroten phải cung cấp gấp 2-3 lần trên. Đối với gia súc nhai
lại không cần bổ xung vitamin nhóm B do vi sinh vật dạ cỏ có thể tự tổng hợp được
các vitamin này để cung cấp cho cơ thể.
7.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu dinh dưỡng duy trì
7.1.3.1. Thể trọng con vật
Những vật nuôi cùng loài, cùng giống nhưng thể trọng khác nhau có nhu cầu duy
trì khác nhau. Con vật càng lớn thì nhu c
ầu duy trì càng nhiều nhưng nếu tính trên một
đơn vị khối lượng thì con vật càng nhỏ thì nhu cầu duy trung thể trọng càng cao.
Bảng 7.1. Lượng nhiệt tạo ra trong một ngày (kcalo)
Loài vật nuôi Thể trọng (kg)

Lượng nhiệt tạo ra / 1kgP

Ngựa 44 1 11,3
Lơn 128 19,0
chó 15 51,5
Thỏ 2,3 75,1
7.1.3.2. Trạng thái hoạt động cơ
Trong trạng thái duy trì, mặc dù vật nuôi hoạt động rất ít nhưng ngay cả lúc
không hoạt động con vật vẫn có nhu cầu dinh dưỡng nhất định và phụ thuộc vào trạng
thái cơ. Ví dụ: vật nuôi đúng 1/2 thời gian, nằm 1/2 thời gian thì tiêu hao năng lượng
so với con vật đứng toàn bộ sẽ giảm được 15 % năng lượng. Điều này rất có ý nghĩa
trong chăn nuôi ở giai đ

oạn vỗ béo.
7.1.3.3. Giống,ltoại hình và giới tính của vật nuôi
Phẩm giống khác nhau, loại hình sản xuất khác nhau, giới tính vật nuôi khác
nhau thì nhu cầu duy trì cũng khác nhau. Nghiên cứu cho thấy bò đực giống thịt vỗ
béo tiêu hao năng lượng/1kg thể trọng thấp hơn 15% so với bò giống sữa. Ngựa đua
tiêu hao nhiệt năng hơn ngựa keo là 37% mặc dù ngựa kẻo vạm vỡ hơn. Cùng phẩm
giống và loại hình thì con đự
c tiêu hao năng lượng cao hơn so với con cái do hoạt
động trao đổi chất mạnh hơn.
7.1.3.4. Các điều kiện ngoại cảnh khác
Các điều kiện ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, gió và điều kiện khí hậu
thời tiết khác nhau đều ảnh hưởng đến nhu cầu duy trì của vật nuôi. Gia súc sống trong

147
mùa xuân trao đổi chất mạnh hơn mùa đông nên nhu cầu duy trì cao hơn. Nhưng mùa
đông, con vật lại phải toả nhiệt để duy trì thân nhiệt nên tiêu hao nhiều năng lượng
Vì vậy cần để vật nuôi ở nhiệt độ tới hạn khi tiến hành thí nghiệm (trâu bò: 15
0
C.
chó: 15-20
0
C, thỏ: 1 5-26
0
C ).
7.2. NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA VẬT NUÔI SẢN XUẤT
7.2.1. Nhu cầu dinh dưỡng của vật nuôi sinh trưởng
7.2.1.1. Một sô đặc điểm sinh trưởng vật nuôi
Sự trao đổi chất diễn ra khá mạnh, đồng hoá luôn luôn mạnh hơn dị hoá và được
thể hiện ở sự tăng khối lượng cơ thể, tăng kích thước các chiều. Không những tổ chức
cơ thể, số lượ

ng và chất lượng tế bào có sự tăng lên rõ rệt mà các cơ quan như tuần
hoàn, hô hấp, tiêu hoá, bài tiết. thần kinh và sinh dục đều có sự phát triển ở mức độ
khác nhau.
Các bộ phận của cơ thể phát triển không đồng đều. Sự tích luỹ các chất đinh
dưỡng trong cơ thể không giống nhau. Trong quá trình sinh trưởng, xương được phát
triển đầu liên rồi đến các tổ chức cơ và cu
ối cùng là mô mỡ, chờ; kỳ phôi thai, sơ sinh
đến trưởng thành tăng khá nhanh. Sau đó chậm lại và khi đạt khối lượng trưởng thành
thì tăng rất chậm, sau đó ngừng hắn. Khi vật nuôi đang lớn thì khối lượng, kích thước
các cơ quan, bộ phận của cơ thể cũng không tăng lên một cách đều đun mà tăng với
các mức độ khác nhau. Nói chung, sự tích luỹ lipit và năng lượng tăng lên theo lứa
tu
ổi. Còn tích luỹ protit, khoáng và nước giảm dần theo độ tuổi.
Quá trình sinh trưởng của vật nuôi phụ thuộc rất nhiều vào mức độ dinh dưỡng.
Nếu mức độ dinh dưỡng cao, hợp lý thì vật nuôi lớn nhanh đạt khối lượng tối đa trong
thời gian ngắn. Nếu mức dinh dưỡng thấp, không hợp lý thì vật nuôi còi cọc, hậm lớn
và phải mất một thời gian dài mới đạt khối lượng tố
i đa. Quá trình sinh trưởng còn
chịu sự chi phối của hormon sinh trưởng tuyến yên. Hormon sinh trưởng làm tăng quá
trình đồng hoá. kích thích sự phát triển của cơ mà xương. Ngoài ra. còn có hormon
thyroxín của tuyến giáp trạng cũng tham gia quá trình sinh trưởng. Nếu nhược năng
tuyến giáp, con vật sinh trưởng chậm lại. Nếu ưu năng thì con vật sẽ sinh hưởng quá
mức, các hormon có tác dụng làm tăng quá trình trao đổi chất, ôxy hoá ở mô bào và
tăng quá trình sinh năng lượng trong cơ thể.
Ứng d
ụng vào thực tế nuôi dưỡng:
- Cần phải tăng cường nuôi dưỡng tốt khi chưa tới điểm ngoặt sinh trưởng: trâu
bò 18 tháng tuổi, lợn 6-8 tháng tuổi.
- Không kéo dài thời gian nuôi đối với vật nuôi lấy thịt.
- Thiến hoạn dung kỳ, hạn chế sự tiêu hao năng lượng không cần thiết.

- Chú ý huấn luyện định hướng cho vật nuôi từ khi còn non.
7.2.1.2. Nhu cầu vê các chất dinh dưỡng
7.2.2.1. Nhu cầu protit

148
Vật nuôi đang lớn thì sự sinh trưởng về cơ và xương là chủ yếu, do vậy nhu cầu
Protit trong khẩu phần là rất lớn. Qua phân tích thành phần hoá học của thịt động vật
đang bú sữa người ta thấy: nước chiếm 72-80% chất hữu cơ 20-26%, muối vô cơ 1-
1.5%. Trong chất hữu cơ thì chủ yếu là Protit khoảng 16,5-20,9%. Do đó việc xác định
nhu cầu và cung cấp Protit cho vật nuôi sinh trưởng là rất cần thiế
t. Trong dịch ép của
cơ có 2 loại: Loại chứa N và loại không chứa N. Loại chứa N gồm: crealin. creatin
pholphat, axít amin. lexitin, phun Loại không chứa N gồm axit lactic, glycogtn, mỡ
trung tính. Các loại muối khoáng trong cơ có nhiều Ca, Na, P, K
- Quy luật trao đổi protit
Giai đoạn đầu của thời kỳ sinh trưởng do tấc độ sinh trưởng nhanh, quá trình trao
đổi protit diễn ra mạnh. cơ thể có khả năng tích luỹ nhiều protit. Khi tuổi của vật nuôi
càng tăng lên thì tốc độ sinh tr
ưởng, sự trao đổi và sự tích luỹ Protit cũng giảm dần.
Dưới đây là các kết quả thí nghiệm về tích luỹ Protit.
Bảng 7.2. Lượng Protừ tích luỹ hằng ngày của bò thí nghiệm (%)
STT Ngày tuổi 8 12 44 65 100 160 270 480
Lượng Protit tích luỹ
gr/100kg thể trọng
400 300 240 160 120 80 50 9
Bảng 7.3. Sự tích luỹ Prolit của lợn thí nghiệm (%)
TT Tháng tuổi 3 4 5 6 7 8 10
1 Thể trọng 30 40 60 80 100 120 150
2 Tỷ lệ Protit
tích luỹ

14-16 14-16 10-14 10-12 8-10 6-8 5-6
Với gia súc non, kết quả thí nghiệm cho thấy có sự liên hệ mật thiết giữa: Cường
độ sinh trưởng của con với hàm lượng Protit có trong sữa mẹ, cường độ sinh trưởng
của con càng cao khi hàm lượng Protit trong sữa mẹ càng cao.
Mollgrard nhận thấy cường độ sinh trưởng không phải là sự tăng lên về thể trọng
mà là sự tăng lên về protit. Mollgrard đà dùng công thức sau đây để nói lên mối quan
hệ giữa tăng protit và tuổi c
ủa bò:

Trong đó:
P: Lượng protit tăng lên hằng ngày của 1000kg thể trọng bò
A: Ngày tuổi của bò.



149
Bảng 7.4. Quan hệ giữa Protit trong sữa mẹ và số ngày để trọng lượng sơ sinh
tăng gấp đôi
Loài động vật Khối lượng khi
trưởng thành (kg)
Hàm lượng Protit
trong sữa mẹ (%)
Số ngày để trọng
lượng sơ sinh tăng
gấp đôi
Người 75 1,2 180
Ngựa 600 1,1 60
Bò 500 3,3 47
Dê 50 5,0 20
Lợn 80 7,5 14

Chó 15 9,7 8
Thỏ 3 15,5 6

- Một quy luật khác là theo sự tăng lên của lứa tuổi, lượng Protit tích luỹ so với
lượng Protit ăn vào cũng giảm dần.

Bảng 7.5. Tỷ lệ lợi dụng protit qua tác tháng tuổi (%)


Tháng tuổi 1 3 6 9 12 24
Protit tích luỹ cơ thể so
với Protit ăn vào
50-70 20-55 15-40 5-20 5-20 15

Soxhlet đã thí nghiệm trên bê bú sữa thấy rằng lượng Protit tích luỹ trong cơ thể
lên tới 72%. Ở thí nghiệm trên bê sinhh trưởng cho thấy kết quả sau đây:
+ Thí nghiệm của Wohlbier (lúc ):
Tuần 1: 9%. Tuần 2: 84,3%. Tuần 3: 74,7%. Tuần 4: 67,7%.
+ Thí nghiệm của Wellmann (%):
Tuần 6-7: 63%. Tuần 8-9: 54%. Tuần l0-13: 43%.
Qua các kết quả thí nghiệm cho thấy: Các tuần tuổi sinh trưởng lượng Protit tích
luỹ rất cao, sau đó giảm đi rõ rệt. Vì vậy, cần ph
ải cho vật nuôi đang sinh trưởng ăn đi
lượng Protit theo nhu cầu quy định.
Nhu cầu Protit thô: lợn cai nữa 24%, lợn 30-50 kg: 16-18%, lợn 50kg đến xuất
chuồng: l3-14%, gà bóc trứng đến 8 tuần tuổi: 20-22% Protit, gà 8-18 tuần tuổi: 16% -

150
18%, gà mái và gà giống: 15%. Bê dưới 200kg: 275g Protit/ngày, bê 250kg cần 300g
Protit tiêu hoá trên ngày. Bò 300kg cần 325g Protit tiêu hoá /ngày.

7.2.1.2.2.Nhu cầu chất khoáng của vật nuôi sinh trưởng
Quan hệ giữa sinh trưởng của xương với nhu cầu cung cấp Ca, P và vitamin D:
- Sự sinh trưởng của xương có quan hệ tới việc cung cấp Ca. P và vitamin D.
Trong thời kỳ sinh trưởng, nếu cung cấp đủ, vật nuôi sẽ sinh trưởng bình thường; nếu
cung cấp không đủ, sẽ làm cho xương mềm, xốp và dễ gẫy. Trong xươ
ng gia súc non,
tác dụng kết tủa và hoà tan thường xuyên xảy ra. Dạng Ca, P kết tủa chủ yếu là CaCO
3

Ca
3
(PO
4
)
2
.
Thí nghiệm trên chó cho thấy: Bình thường, xương đùi chó có 44,9% Ca, nhưng
khi bị bệnh mềm xương thì chỉ còn 17,7%. Trong xương của người có Ca: %, P: 17%
Thí nghiệm cho biết nếu vitamin D được cung cấp đầy đủ thì tỷ lệ hấp thụ Ca, P
có thể lên tới 50-80% nhưng nếu thiếu thì chỉ hấp thụ 20%. Gia súc non trong thời kỳ
sinh trưởng không những phải cung cấp đầy đủ Ca. P mà còn phải ở tỷ lệ thích hợp
m
ới đảm bảo sinh trưởng phát dục bình thường. Giai đoạn non, tỷ lệ Ca/P = 1,5-2/1.
Giai đoạn trưởng thành. tỷ lệ Ca/P là 1,2/1.
Ví dụ: Bê nghé 2-4 tháng tuổi cần 15-20 gr Ca và 10-15 gr P mỗi ngày, 6- 12
tháng tuổi cần 25-30gr Ca và 15-20gr P mỗi ngày. Với lợn: Ca chiếm 0,4-0,5%, p
chiếm 0,3-0,4% trong chất khô của khẩu phần.
- Sự trao đổi Ca, P của vật nuôi đang sinh trưởng cũng mang tính quy luật Thí
nghiệm chứng minh rằng thời kỳ đầu sinh trưởng, Ca và P tích luỹ khá nhiều, giai
đoạn sau thì sự tích luỹ Ca và P giảm dần.

Kết quả thí nghiệm trên bê thể hiện ở báng sau:
Bảng 7.6. Tự tích luỹ Ca, P của bê qua các tháng tuổi/100kg trọng lượng
Tháng tuổi
1 3 5 8 18
Ca tích luỹ (gr)
20 14 10 5 3
P tích luỹ (gr)
12 7 6 3 1.5
Tỷ lệ sử dụng Ca %
88 58 47 30 22
Tỷ lệ sử dụng p %
70 56 44 31 24

Thí nghiệm trên cừu và chó cũng thấy kết quả tương tự.
- Sự hấp thụ Ca. P phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Tháng tuổi, khẩu phần. loại thức
ăn bô sung. Nếu bổ sung quá nhiều CaCO
3
cũng ảnh hưởng không tốt tới sự trao đổi
Ca và P.


151
Bảng 7.7. Thí nghiệm của Zaitsechek và Weiser

Lượng Ca, P tích luỹ
Tỷ lệ % Ca so với
trọng lượng thức ăn
CaO P
2
O

5

1.90 76.0 91.0
4.28 12.4 15.7

Sự tích luỹ Ca và P trong cơ thể giảm đi khi hàm lượng Ca tăng lên trong khẩu
phần. Do đó, lượng CaCO
3
không nên quá 2% khẩu phần. Sự trao đổi khoáng còn phụ
thuộc vào những phản ứng của thức ăn toan tính hay kiềm tính ở trong khẩu phần.
Khẩu phần hơi kiềm một chút sẽ có tác dụng tốt, gia súc dễ hấp thụ chất khoáng hơn
và duy trì mức độ bình thường của chất khoáng trong máu và mô cơ. Người ta thấy cứ
tăng 1 kg trọng lượng của gia súc non thì lượng khoáng tích luỹ lại bằng trọng lượng
chất khoáng của 1kg trọng lượng gia súc lớn. Đối với bò. cừu non thì 1kg tăng trọng
tích luỹ khoảng 12- 16 gr Ca và 7-9gr P. Đối với lợn khoảng 7gr Ca và 4 gr P. Đây là
khoáng tích luỹ nhưng thực tế phải cung cấp tăng hơn nhiều vì sự hấp thụ chất khoáng
trong khẩu phần thường thấp. Những tháng đầu sau khi đẻ: gia súc non hấp thụ Ca. P
trong sữa khoảng 90%, nhưng đến khi ăn thức ăn thô chỉ hấp th
ụ 30-40%. Vì vậy, thực
tế nuôi dưỡng lượng khoáng cung cấp trong khẩu phần phải nhiều hơn nhu cầu của gia
súc.
7.2.1.2.3. Quan hệ của dinh dưỡng và sự phát triển của cơ quan nội tạng.
Gia súc trong thời kỳ sinh trưởng, sự phát triển cơ quan nội tạng có sự khác nhau.
Một trong những nguyên nhân là mức độ nuôi dưỡng.
Người ta làm thí nghiệm dùng thức ăn tinh và sữa để nuôi bê tới 5 tháng tuổi, xác
định thể trọ
ng, sự phát triển dạ cỏ, dạ múi khế và ruột già, ruột non cho kết quả sau:













152
Bảng 7.8. So sánh sự phát triển dung tích dạ cỏ và dạ múi khê, ruột non và
ruột già ở bê qua các tháng tuổi.
Tháng
tuổi của

Thể
trọng
Dung
tích dạ
múi khế
(kg)
Dung
tích dạ
cỏ (kg)
Tỷ lệ dạ
múi
khế/dạ
cỏ
Chiều
dài ruột

non (m)
Chiều
dài ruột
già (m)
Tỷ lệ
ruột
non/ruột
già
Sơ sinh 41,5 1,3 0,73 1/0,58 16 2,0 7,8/1
15 ngày
tuổi
41,7 3,8 1,80 1/0,4 20,6 2,7 7,5/1
30 ngày
tuổi
65,7 4,9 4,50 1/0,9 21,5 3,5 6/1
5 tháng
tuổi
230,5 20,5 65,0 1/3,1 26,7 10,0 2,6/1
Số lần
gấp của
5 tháng
so với sơ
sinh
5,56 16,4 89,5 5,4 1,67 5,05
Qua bảng trên cho thấy ở 5 tháng tuổi, dung tích dạ múi khế táng gấp 16,4 lần sơ
sinh nhưng dung tích dạ cỏ gấp 89,5 lần sơ sinh.
Chiều dài ruột non tăng 1,67 lần nhưng ruột già tăng 5,05 lần so với sơ sinh.
Trâu, bò, là gia súc nhai lại, thức ăn chủ yếu là thức ăn thô xanh có nhiều chất
xơ. Trước kỳ cai sữa, tăng cường sinh trưởng phát dục của dạ cỏ, ruột già tạo đi
ều kiện

cho việc tiêu hoá chất xơ trong thức ăn thô xanh. Sau này đó là đặc tính di truyền của
chúng, hiểu biết điều này giúp chúng ta có biện pháp nuôi dưỡng phù hợp để kích
thích và tăng cường phát dục của dạ cỏ và ruột già bằng biện pháp bổ sung thức ăn
sớm, tập cho bê nghé ăn thức ăn thô, xanh thì tỷ lệ dạ tô ong, lá sách và dạ cỏ so với dạ
múi khế là 7,8/1. Trong khi lô thí nghiệm cho ăn thức ăn tinh nhi
ều thì tỷ lệ này chỉ
tăng dung tích dạ cỏ là chủ yếu. Kết quả thí nghiệm trên lợn cũng cho thấy lô cho ăn
nhiều thức ăn thô xanh, chiều dài ruột già tăng nhanh hơn ruột non và ngược lại. Lô
cho ăn nhiều thức ăn tinh thì ruột non tăng nhanh hơn ruột già. Lượng protit nuôi khác
nhau cũng ảnh hưởng khác nhau tới sinh trưởng của cơ quan nội tạng. Thí nghiệm trên
lợn, người ta thấy lô thí nghi
ệm dược ăn nhiều thức ăn protit cho thấy các cơ quan như
gan. thận, tim, phổi, cơ bắp đều phát triển hơn lô đối chứng. Trong khi đó ở lô đối
chứng thì dạ dày phát triển hơn.


, TL tham khao, P.V. Hai

153
7.2.1.2. Nhu cầu vê vitamin
Vật nuôi đang sinh trưởng cần đầy đủ các loại vitamin nhưng quan trọng nhất là
vitamin A, D và vitamin nhóm B.
Tuỳ theo từng loài vật và lứa tuổi khác nhau mà nhu cầu các loại vitamin khác
nhau.
7.2.1.2.5. Đặc điểm nhu cầu dinh dưỡng của gia súc sơ sinh
- Nhu cầu về sữa: Trong thời kỳ phôi thai gia súc sơ sinh sống hoàn toàn dựa vào
cơ thể mẹ. Giai đoạn sơ sinh, con vật phải sống trong điều kiện hoàn toàn mới, thầ
n
kinh con vật chưa phát triển ổn định, cơ quan tiêu hoá phát triển yếu chưa hoàn thiện.
Sức đề kháng kém nên lúc này thức ăn lý tưởng nhất của gia súc non là sữa mẹ. Sữa

mẹ là thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, tỷ lệ tiêu hoá gần như hoàn toàn và phù hợp
với chức năng sinh lý tiêu hoá, nhu cầu sinh trưởng của con vật. Đặc biệt sữa đầu có
hàm lượng các chất dinh dưỡng cao, nhiều kháng thể làm tăng sứ
c để kháng của con
vật và có tác dụng tẩy nhẹ đường tiêu hoá. Với bê nghé cần cung cấp sữa trong 6 tháng
đầu với lợn con thì từ 45-60 ngày tuổi mới được cai sữa.
- Quan hệ giữa bổ sung thức ăn với sinh trưởng của gia súc non.
Qua thực tiễn cho thấy bất kì loại gia súc non nào cũng cần phải bổ sung thêm
thức ăn mới đám bảo sinh trưởng nhanh vì:
+ Sự tăng lên về sản lượng s
ữa của con mẹ không thoả mãn được nhu cầu cho sự
sinh trưởng của gia súc non ngày càng tăng lên.
+ Bổ sung thức ăn sớm còn nhằm bổ sung thêm một số chất khoáng và vitamin
trong sữa mẹ không đủ. Ví dụ: ở lợn khi tới 3 tuần tuổi, thể trọng tăng gấp 5 lần, 8
tuần tuổi tăng gấp 8- 10 lần so với sơ sinh, mỗi ngày cần 7mg Fe trong sữa mẹ. Thực
tế chỉ cung cấ
p được 1 mở, do đó lợn con cần phải cung cấp thêm Fe ngay từ tuần tuổi
đầu tiên (Becker. 1959). Theo Winzenried (1965) thì lợn con bú mẹ cần nguyên tố vi
lượng này. Chúng đòi hỏi tới 27 mà Fe/1kg tăng trọng. Trong khi sữa mẹ chỉ cung cấp
được 10- 15% nhu cẩu. Do đó, lợn con dễ bị thiếu máu trầm trọng. Theo Symoens (
1967) đã tính toán rằng lợn con ở lứa tuổi 1-3 tuần có nhu cầu về sắt là 114 mô, nhưng
chúng chỉ nhận được t
ừ mẹ 24 mà, vì vậy còn phải bổ sung 90 mà từ bên ngoài. Ngoài
ra, các chất khoáng như Co, Cu, Mg, Zn cần phải được bổ sung thêm.
+ Bổ sung thức ăn sớm còn tập cho gia súc non thích nghi với thức ăn mới để khi
cai sữa không gây xáo trộn về nuôi dưỡng, đồng thời có tác dụng kích thích bộ máy
tiêu hoá phát triển có lợi cho việc tiêu hoá và hấp thụ các thức ăn sau này.
7.2.2. Nhu cầu dinh dưỡng của gia súc sinh sản
Sinh sản là một chức năng rất quan trọng c
ủa động vật nhằm bảo tồn và phát

triển nòi giống. Nếu một nhân tố nào gây ảnh hưởng xấu tới sinh sản sẽ gây tôn thất rất
lớn đối với ngành chăn nuôi nói riêng và với nền kinh tế quốc dân nói chung. Sinh sản
là một quá trình sinh học phức tạp của cơ thể, một trong những nguyên nhân ảnh

154
hướng tới sinh sản của gia súc là vấn đề dinh dưỡng. Vì vậy, việc nghiên cứu mối quan
hệ giữa dinh dưỡng và sinh sán nhằm nâng cao khả năng sinh sán của gia súc là điều
có ý nghĩa lớn trong việc phát triển chăn nuôi.
7.2.2.1. Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến khả năng sinh sản của đực giống
Khả năng phối giống của đực giống thể hiện ở hai mặt:
- Có tính h
ăng để đảm bảo sự giao phối và xuất tinh.
Có phẩm chất tinh dịch tốt để đảm bảo tỷ lệ thụ thai cao, nâng cao sức sống và
sức sản xuất ở đời con.
7.2.2.1.1. Quan hệ dinh dưỡng và tính năng
Điều hoà chức năng sinh dục của vật nuôi được thực hiện theo cơ chế thần kinh-
thể dịch với sự tham gia chủ yếu của vỏ não, vùng dướ
i đồi tuyến yên là tinh hoàn.
Testosteron là hormon do tính hoàn tết ra gây biểu hiện sinh dục thứ cấp và hoạt động
tính dục dưới sự điều tiết của tuyến yên thông qua hormon.
Hoạt động của tuyến yên liên quan mật thiết đến dinh dưỡng trong khẩu phần ăn.
Nếu vật nuôi ăn không đủ chất dinh dưỡng như Prolit, khoáng, vitamin thì sự hoạt
động của tuyến yên giảm, hormon tiết ra ít dần làm tính hăng giảm. Ngược lại, n
ếu ăn
đủ chất linh dưỡng, vật nuôi sẽ có phản xạ tính dục mạnh mẽ, tính hăng cao, thời gian
giao phối kéo dài.
7.2.2.1.2. Quan hệ dinh dưỡng với phẩm chất tinh dịch
Phẩm chất tinh dịch được đánh giá bằng số lượng, chất lượng, mật độ tinh trùng
trong 1ml tinh dịch, hoạt lực, sức kháng, sức sống của tinh trùng cao, tỷ lệ kỳ hình
thấp. Phẩm chất tinh dịch liên quan chặt ch

ẽ đến dinh dưỡng trong khẩu phần ăn. Dinh
dưỡng thông qua hoạt động của tuyến yên đã ảnh hưởng đến khả năng sản sinh tinh
trùng của tinh hoàn. Ví dụ: kích tố FSH kích thích ống sinh tinh sản sinh ra tinh trùng.
Nếu FSH tiết ra ít thì phẩm chất tinh dịch kém, số lượng tinh trùng giảm, hoạt lực tinh
trùng yếu Dinh dưỡng đầy đủ thì cơ thể sẽ phát triển cân đối, khoẻ mạnh, thần kinh
vững vàng và hưng phấn. Các ch
ất dinh dưỡng ảnh hưởng trực tiếp nhất đến phẩm chất
tinh dịch là Protit với đầy đủ các axit amin không thay thế, các chất khoáng đa và vi
lượng, các loại vitamin A. D, E và nhóm B. Một số nghiên cứu khác cho biết ở bò đực,
cừu, lợn, thỏ và chuột đực bị thiếu ăn, hoạt động của tuyến sinh dục phụ cũng bị ảnh
hưởng xấu hàm lượng fructoz do những tuyến này tiết ra b
ị giảm đi làm sức sống của
tinh trùng giảm. Thức ăn nuôi bê thiếu vitamin A làm tinh hoàn bị teo, mất tính hăng,
không nhảy cái được. Những triệu chứng này thường xảy ra trước những triệu chứng
khác như bại liệt, quáng gà.
Vitamin C cũng có ảnh hưởng rõ rệt đến phẩm chất tinh dịch. Ở những bê đực có
khả năng sinh dục cao cho thấy trong 100ml tinh dịch có 3-8mg vitamin C, nhưng
những con có khả năng sinh dụ
c kém chỉ có 2mg vitamin C/100ml tinh dịch. Nếu tiêm
vitamin C cho con vật có khả năng sinh dục kém thì phẩm chất tinh dịch tăng lên rõ
rệt, tinh dịch loãng trở nên đặc, sức sống và hoạt lực tinh trùng tăng. Trong các chất

155
khoáng, ngoài Ca, P, Na, Cl, Fe, Cu, Co,. I
2
thì Zn và Mn có ảnh hưởng rất rõ rệt đến
phẩm chất tinh dịch. Bò đực nếu thiếu Mn thì mật độ và sức sống tinh trùng giảm,
thiếu Zn thì sự sản sinh tinh trùng không bình thường.
7.2.2.2. Quan hệ giữa dinh dưỡng với khả năng sinh sản của gia súc cái giống
Dinh dưỡng là yếu tổ quan trọng nhất liên quan mật thiết đến sự thành thục, khả

năng thụ thai, sự phát triển của bào thai cũng nh
ư khả năng tiết sữa nuôi con của vật
nuôi cái giống.
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng đến động dục và khả năng thụ thai.
Sự thành thục về tính được thể hiện bảng hiện tượng động dục.
Sự động dục là do tuyến yên và vùng dưới đồi chi phối. Khi khẩu phần
ăn thiếu Protit hoặc một loại axit amin nào đó thì hoạt động của tuyến yên giả
m,
hormon folliculo stimulin (Fsll) tiết ra ít do vậy không đủ kích thích buồng trứng phát
dục, vì vậy động dục không bình thường hoặc mất đi. Đối với lợn nái và bò cái sau khi
tách con, thời gian động dục trở lại dài hay ngắn là phụ thuộc vào sức khoẻ của con mẹ
và chế độ dinh dưỡng. Động dục mang tính chu kỳ là do sự khống chế của hệ thần
kinh trung ương qua phương thức phản xạ thần kinh - thể dị
ch. Nếu thức ăn thiếu
Protit hoặc không cân đối về axit amin không thay thế, chu kỳ động dục và rụng trứng
không có quy luật nhất là khi thiếu lyzin. Khi thiếu Protit, khoáng và vitamin thì chu
kỳ tính sẽ kéo dài, bao noãn thành thục chậm, thậm chí bị teo lại làm tỷ lệ thụ thai
thấp.
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng với vật nuôi mang thai: Vật nuôi thai có sự
thay đổi về trao đổi chất và khối lượng trung bình trong thời kỳ mang thai, cường độ
trao
đổi chất của con mẹ tăng lên từ 20%-40%. Khối lượng cơ thể tăng lên 20-25% do
sự phát triển của bào thai, của tử cung và tuyến vú cũng như sự tích luỹ chất dinh
dưỡng của cơ thể mẹ. Tốc độ phát triển của bào thai tăng lên rất nhanh ở 1/3 thời gian
chửa cuối.
Ví dụ: Thai lợn ngoại 28 ngày nặng l,5gr, 50 ngày nặng 50gr, 70 ngày
nặng 220gr, 90 ngày nặng 400 -600gr, 114 ngày nặng 1000-1300gr. Khi mang thai,
cường độ trao đổ
i chất của con mẹ tăng lên rõ rệt, đồng hoá mạnh hơn dị hoá, quá trình
tích luỹ Protit và khoáng tăng mạnh vào thời gian chửa cuối, nhu cầu tích luỹ của con

mẹ gấp 1,5-2 lần bào thai.
7.2.2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của gia súc có thai
- Nhu cầu nhiệt năng: Mitchell đã khảo sát nhiệt năng tích luỹ hằng ngày của lợn
con có chửa cho kết quả sau:





156

Bảng 7.9. Nhiệt năng tích luỹ hằng ngày của lợn nái chửa (kcalo)
Tuần chửa 2 4 6 8 10 12 14 16
Nhiệt năng tích luỹ (kcalo) 6 21 45 76 115 160 213 273
Tỷ lệ tích luỹ so với tuần
cuối
2 8 17 28 42 59 78 100
Đối với các loài gia súc khác cũng thấy kết quả tương tự. Do nhiệt năng tích luỹ
trong thai tăng lên cho nên nhu cầu về nhiệt năng của gia súc có thai cũng tăng lên.
Nhiệt năng tăng lên còn đáp ứng nhu cầu trao đổi chất của con mẹ tăng lên, nói chung
cần cung cấp cao hơn duy trì 15-20%, thời gian chửa cuối tăng hơn 40%.
Nhu cầu dinh dưỡng vật nuôi có thai được xác định theo chứa kỳ I và chửa kỳ II
(chửa k
ỳ I ở lợn là 0-84 ngày, bò là 6 tháng rưỡi. Chứa kỳ 11 ở lợn là 30 ngày và ở bò
là 3 tháng). Thời gian đầu, bào thai phát triển chậm nên dinh dưỡng chủ yếu cung cấp
cho con mẹ. Vì vậy thời gian này chỉ cần cung cấp lượng dinh dưỡng vừa phải. Ở thời
kỳ chửa cuối, bào thai tăng lên nhanh chóng (2/3 thể trọng thai tăng lên ở 1/3 thời gian
chửa cuối), đồng thời tử cung, bầu vú gia súc cái cũng phát triển theo cùng với quá
trình tích luỹ của cơ thể mẹ nên cần phải cung cấp nhiều chất dinh dưỡng mới đảm bảo
thai phát triển bình thường.

- Nhu cầu về Protit: Trong giai đoạn có thai, các tổ chức cơ thể phát triển rất
mạnh, vì vậy cần phải cung cấp đầy đủ Protit theo nhu cầu đặc biệt vào thời gian chửa
cuối. Một số nghiên cứu đã đề nghị: Với lợn mang thai, nhu cầu Protit cao h
ơn mức
duy trì 32%, giai đoạn chửa cuối tăng gấp 2 lần mức duy trì. Bò cái có thai thì nhu cầu
Protit cao hơn mức duy trì 17%, thời gian chửa cuối tăng hơn 40% so với mức duy trì.
Người ta có thể dựa vào thí nghiệm nuôi dưỡng để tính ra nhu cầu protit cho lợn mẹ có
thai như sau: Trong giai đoạn có thai, lợn mẹ tăng khoảng 20-25kg. Tỷ lệ Protit trong
cơ thể mẹ khoảng 15%. Nếu giá trị sinh vật học của khẩu ph
ần là 65%, tỷ lệ tiêu hoá là
80% lợn nái có khối lượng là 100kg thì ta có thể tính được nhu cầu Prolit hằng ngày
của lợn nái như sau:
+ Nhu cầu tích luỹ Protit duy trì: 120 x 0,5 = 60gr (hệ số 0,5 gọi là hệ số chuyển
đổi phụ thuộc cơ thể mẹ ).
+ Nhu cầu tích luỹ Prot ít cửa lợn mẹ: 25.000gr
×
1 5%/14 = 33gr.
Nhu cầu hằng ngày =60 gr + 33 gr = 93gr.
+ Nhu cầu Protit thô trong thức ăn hằng ngày: =
8,065,0
93
×
gr
178,8 gr/ngày
- Nhu cầu về khoáng: Chất khoáng đối với gia súc có chửa không kém gì protit.
Trong đó Ca, P là hai nguyên tố đa lượng rất cần thiết để tạo bộ xương của thai và duy
trì sức khoẻ của con mẹ. Loài nhai lại cần cung cấp P nhiều hơn Ca. Trâu bò kém sinh

157
sản do thiếu P là tình trạng khá phổ biến vì trong thức ăn thô xanh thường có nhiều Ca

và thiếu P. Đối với lợn thường thiếu Ca, lượng Ca cần trung bình 0,4% trong chất khô
của khẩu phần (kỳ đầu 0,3%, kỳ cuối 0 5%). Đối với trâu bò cần 0,12 ca trong vật chất
khê khẩu phần. Lượng Ca, P theo tỷ lệ l.3-2/1. Ngoài ra, cần cung cấp đủ vitamin D và
cho vật nuôi vận động, tắm nắng hợp lý. Các chất khoáng đa lượng và vi lượng là: Na,
Cl, Fe, Cu, Co, I
2
, Zn, Mg cũng cần được bổ sung đầy đủ theo nhu cầu. Đặc biệt, cần
phải cung cấp đầy đủ Fe với số lượng gấp 2-3 lần so với duy trì.
Bảng 7.10. Nhu cầu chất khoáng của lợn nái (cho 1kg thức ăn)
TT Chất khoáng Nái chửa Nái nuôi con
1 Ca (%) 0,8 0,75
2 P (%) 0,5 0,50
3 Fe 80 80
4 Cu (mg) 5 5
5 Mn (mg) 10 10
6 Zn (mg) 50 50
7 I
2
(mg)

0,14 0,14

- Nhu cầu Vitamin: Những loại vitamin rất quan trọng đối với gia súc sinh sản có
thai là vitamin: A, D, E, C và nhóm B.
Gia súc thiếu vitamin A, E kéo dài sẽ dẫn đến teo thai, sảy thai hoặc thai chết
yểu. Nhu cầu bò chửa kỳ cuối mỗi ngày cần 12- 16mg caroten, mùa đông cần 30-60mg
caroten/100kg thể trọng. Ngựa cái chửa cần 16-20 mở caroten/100 hể trọng.
Nhưng nếu chăn thả trên bãi cỏ tốt sẽ đáp ứng được nhu cầu trên.
Đối với lợn có chử
a cần cung cấp 3600UI vitamin A/1kg thể trọng.

Vitamin D cần cung cấp cho lợn 160 UI/1g thể trọng, với bò chửa cần tăng
cường vận động lắm nắng hợp lý. Ngoài ra, phải cung cấp đủ các nhu cầu vitamin
nhóm B, trừ loài nhai lại có khả năng tổng hợp vitamin nhóm B nhờ vi sinh vật dạ cỏ.
7.2.3. Nhu cầu dinh dưỡng của gia súc tiết sữa
Tiết sữa là chức năng riêng của loại có vú, sữa không những là thức ă
n cần thiết,
lý tưởng cho gia súc non mà còn là thức ăn có giá trị cao cho con người. Khả năng sản
xuất sữa của con vật phụ thuộc vo hai yếu tố cơ bản.
Phẩm chất giống của con vật: khả năng sản xuất sữa do di truyền của phẩm giống
và đặc tính cá thể quyết định chế độ dinh dưỡng, biện pháp kỹ thuật chăm sóc và nuôi
dưỡng.
Vì vậy,
để có chế độ chăm sóc và nuôi dưỡng hợp lý, chúng ta cần nghiên cứu

158
thành phần của sữa và sự hình thành sữa như thế nào.
7.2.3.1. Thành phần của sữa
Tính chất lý học: Sữa là một nhũ tương màu trắng đục hơi ngà; tỷ trọng 1,025 -
1,032; có vị ngọt; mùi thơm, hơi dính; độ pH hơi axit.
Thành phần hoá học: Các loài động vật khác nhau thì thành phần hoá học của sữa
cũng khác nhau, đó là nguyên nhân gây ra sự khác nhau về cường độ sinh trưởng giữa
chúng. Thành phần sữa một số
loài động vật được trình bày ở bảng sau:
Loài
động vật
Vật chất
khô
Protit
thô
Albumin

+
Globunlin
Casein Lipit Đường
lactoz
Khoáng
Khỉ 8,8 1,5
Ngựa 9,8 2,1
Bò Sữa 12,8 3,4
Dê 13,1 3,8
Lợn 16,4 5,2
Chó 23,0 9,7
Thỏ 30,5 1
Chuột 58,9

Bảng 7.11. Thành phần sữa một số loài động vật (%)
Loài
động
vật
Vật
chất
khô
Protit
thô
Albumin +
Globunlin
Casein Lipit Dircmg
Lactoz
Khoáng
Khỉ 8,8 1,5 0,6 0,9 1,1 6,0 0,4
Ngựa 9,8 2,1 0,8 1,3 0,8 4,7 0,3

Bò sữa 12,8 3,4 0,7 2,7 3,6 5,0 0,8
Dê 13,1 3,8 1,2 2,6 4,1 4,4 0,8
Lợn 16,4 5,2 1,0 4,2 6,2 4,2 0,9
Chó 23,0 9,7 5,6 4,1 9,3
3,1
0,9
Thỏ 30,5 15,5 - - 10,5 2,0 2,6
Chuột 58,9 11,2 - - 45,8 1,3 0,6
Qua bảng trên ta thấy con vật càng nhỏ thì vật chất khô trong sữa càng cao.
Lượng protit, lipit, đường chiếm tỷ lệ lớn. Protit sữa bao gồm các loại casein, albumin
và globulin. Casein không bị đông vón khi nhiệt độ cao và có tính keo dính, chống
được sự sa lắng của các tiểu phần protit khác nên sữa cừu, bò, đê đun sôi vẫn giữ được
trạng thái ổn định. Sữa các loài gia súc khác có lượng casein thấp, albumin cao sẽ dễ bị

159
đông vón khi gặp nhiệt độ cao nên không được đun sôi sữa. Trong các chất chứa N còn
có ure và axit uric, crcatinic.
Trong giai đoạn 7- 10 ngày sau đẻ, phẩm chất sữa đầu khác nhiều so với sữa
thường. Đặc điểm của sữa đầu có độ đậm đặc cao, màu vàng. Trong thành phần có
hàm lượng protit cao nhất là globulin, chất khoáng có chứa nhiều Ca, P, Fe, Mg và
nhiều vitamin các loại.
Bảng 7.12. Thành phần sữa đầu của bò và lợn (%)
Thành phần trong sữa đầuS
ữa bò Sữa Lợn
Vật chất khô 25,33 24,1
Albumin và globulin 13,60
-
Casein ■ 4,04 15,1
Lipit 3,60 3,4
Đường lactoz 2,67 2,8

Khoáng 1,56 1,5
Chính vì thành phần dinh dưỡng cao lại có chất tẩy nhẹ đường tiêu hoá nên trong
mọi trường hợp phải cho gia súc non bú đủ sữa đầu vừa có dinh dưỡng cao, vừa có sức
đề kháng cho gia súc.

7.2.3.2. Sự hình thành sữa
Được hình thành từ máu nhưng không phải là dịch lọc thông thường mà là một
quá trình biến đổi hết sức phức tạp trong tuyến sữa.
Để tạo thành 1kg sữa cần phải có 500-600 lít máu chảy qua tuyến vú, qua hệ
thống mao mạch ch
ằng chịt trong hệ thống bào tuyến. ta biết rằng tuyến vú của bò chỉ
bằng 2-3% trọng lượng cơ thể, vậy mà lượng sữa tiết ra một năm với lượng vật chất
khô gấp 3-4 lần lượng chất khô của cơ thể thì chúng ta đủ biết tuyến vú phải làm việc
với cường độ như thế nào? Kết quả phân tích so sánh thành phần dinh dưỡng trong
máu và sữa bò thể hiệ
n qua bảng dưới đây.
Bảng.7.13. Thành phần dinh dưỡng trong máu và sữa bò (%)

Các thầnh phần dinh dưỡng Máu bò Sữa bò
H
2
0 91 87
Albumin 3,2 0,52
Globulin 4,4 0,15
Casein - 2,6
Glucoz 0,05 -
Lactoz - 4,9
Ma trung tinh 0,2 3,7
Cholesteron 0,09 dấu vết


160
Canxi 0,009 0,12
Photpho 0,011 0,10
Na 0,34 0,05
K 0,03 0,15
Cl 0,35 0,11
Qua bảng số liệu ta thấy trữ lượng và thành phần dinh dưỡng trong máu và sữa
bò hoàn toàn khác nhau. Như vậy, sự hình thành sữa là quá trình trao đổi chất phức tạp
của tuyến vú khi máu chảy qua.
7.2.3.3. Nhu cầu dinh dưỡng
7.2.3.3.1. Nhu cầu protit.
Đối với gia súc tiết sữa, protit cần cho duy trì, tiết sữa, cho quá trình hao tổn dinh
dưỡng trong quá trình tiết sữa, trao đổi chất và tiêu hoá
Qua thí nghiệm người ta thấy protit tiêu hoá dùng vào việc tiết sữa gấp 1,4- 1 6
lần hàm lượng protit có trong s
ữa. Căn cứ vào đó người ta tính lượng protit tiêu hoá
cần cho việc sản xuất 1kg sữa ở các loài gia súc như sau:
Sữa bò: 50-60gr Lợn: 80-120gr
Cừu: 70-80gr Ngựa : 35-45 gr

Do đó, cần căn cứ vào sản lượng sữa hằng ngày để tính toán nhu cầu protit cho
phù hợp. Theo kết quả nghiên cứu về nhu cầu protit của bò sữa thì cứ 1000kg thể trọng
cần 0,7kg protit tiêu hoá cho duy trì. Lượng protit tiêu hoá dùng cho việc sản xuất sữa
băng 138-175% protit có trong sữa (Haecker). Theo ý ki
ến chung, cứ 1000kg thể trọng
bò sữa cần 0,7 kg protit duy trì, protit tiêu hoá cho việc tiết sữa bằng 150-160% lượng
protit trong sữa. Nếu protit được cung cấp đầy đủ sẽ làm tăng sản lượng sữa; nếu thiếu
protit, cơ thể sẽ phải huy động protit có trong cơ thể vào trao đổi chất và tạo sữa; nếu
thừa protit, thận sẽ phải làm việc quá sức dẫn tới suy thận và hàm lượng N trong máu
tăng quê huyết t

ăng gây trúng độc và các bệnh lý khác. Theo Okellner, thức ăn chứa N
có tác dụng kích thích tiết sữa làm tăng hàm lượng sữa nhưng thành phần sữa không
có biển đổi khi giảm lượng protit cung cấp. Còn theo Mollgrard và Ereleriksen lại giải
thích khác. Theo kết quả thí nghiệm của các ông, lượng sữa tiết ra và lượng mỡ trong
sữa có quan hệ chặt chẽ với lượng protit trong khẩu phần. Theo kết quả nghiên cứu của
Haecker, tỷ lệ sử dụng protit trong sữa bi
ến động từ 60-70%, tức là có 60-70% lượng
protit tiêu hoá trong thức ăn chuyển thành protit sữa. Đồng thời, phải hết sức chú ý tới
thành phần của các axit amin trong protit của thức ăn cung cấp. Axit amin không thay
thế, Trong đó hàm lượng lyzin, lơ xin, izolơxin, valin có tương đối nhiều ở tất cả các
loại sữa của các loài gia súc nhưng trong thức ăn thực vật lại rất ít 4 loại axit amin này.
Do đó khi nuôi lợn cần chú ý cung cấp một l
ượng thích hợp cho thức ăn có chứa nhiều
loại axit amin không thay thế trên như khô dầu đậu tương, khô dầu bông, bột cá, bột
máu, bột thịt

161
Đối với gia súc nhai lại. do vi sinh vật dạ cỏ có khả năng tổng hợp protit nên
không phải bổ sung các axít amin như đối với lợn. Nhưng qua thí nghiệm thực tế cho
thấy khẩu phần ăn thiếu lyzin sẽ ảnh hưởng tới sản lượng sữa của bò. Vì vậy, những
bò cao sản cũng cần bổ sung một phần axit amin không thay thế theo tiêu chuẩn. Cứ
1kg sữa tiêu chuẩn 4% mỡ sữa cầ
n cung cấp: lyzin: 2,3gr. tryptophan: 0,8gr; acginin:
1,3gr. histidin: 0.6gr; phenylalanin: 12gr; lơxin: 3,6gr; valin: 2,5gr: methionin: 12gr.
7.2.3.3.2. Nhu cầu về gluxit
Đường lactoz là thành phần chủ yếu của gluxit. Trong sữa lactoz gồm có 1 phân
tử đường glucoz là một phân tử đường galactoz tạo thành. Tuyến vú đã sử dụng glucoz
trong máu cung cấp để tạo thành galactoz và từ đó kết hợp glucoz để tạo thành lactoz
(galactoz + glucoz = lactoz).
Nếu lượng thức ăn cung cấp không đủ gluxit dẫn tới lượng đường huyết giảm.

Do đó, thành phần lacloz trong sữ
a sẽ giảm theo, đồng thời còn ảnh hưởng tới trao đổi
chất và làm giảm sức khoẻ vật nuôi tiết sữa
Nói chung, gluxit trong thức ăn không thiếu nên vấn đề thiếu gluxit đối với gia
súc ít khi xảy ra. Chỉ cần cung cấp thức ăn đấy đủ.
7.2.3.3.3. Nhu cầu lipit
Hàm lượng mỡ sữa là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng sữa. Mỡ
trong sữa không phải do m
ỡ trong thức ăn tạo thành mà còn do các chất dinh dưỡng
khác. Joordan đã dùng cỏ khô + ngô + yến mạch đã lấy gần hết mỡ để nuôi bò sữa, kết
quả mỡ trong sữa được tạo thành là 28,53kg, trong khi đó mỡ trong thức ăn chỉ có
2,59kg, đồng thời bò mẹ lại béo hơn trước. Điều đó chứng tỏ rằng ngoài mỡ ra, protit
và gluxit của thức ăn có thể chuyển hoá thành m
ỡ sữa Trong đó gluxit chuyển hoá
khoảng 70%. So sánh protit trong thức ăn và protit trong sữa thì protit trong thức ăn
được chuyển thành mỡ không quá 7,7kg. Sự chuyển hoá gluxit thành mỡ sữa theo sơ
đồ sau:

Nghiên cứu ở loài nhai lại bằng cách dùng muối axetat natri có nguyên tử đánh
dấu C
14
tiêm vào mạch máu bò sữa, dê sữa. Kết quả là mỡ sữa của bò và dê thí nghiệm
có sự tồn tại của nguyên tử đánh dấu C
14
. Điều đó chứng tỏ tuyến vú của bò và dê đã
sử dụng muối axetat natri để tạo thành mỡ sữa. Sở dĩ như vậy là vì vi sinh vật dạ cỏ
của loài nhai lại có khả năng phân giải chất xơ thành CO
2
, CH
4

, axit axetic, axit
propionic và các axit béo cấp thấp khác.
Axit axetic được hấp thụ vào máu và chuyển đến tuyến vú để tạo thành mỡ sữa.
Glucoz cũng là nguồn tạo mỡ sữa tốt nhất vì glucoz dễ tiêu hoá trực tiếp thành
glyxerin, sau đó tổng hợp với axit béo để tạo thành mỡ sữa.

162
Tuy vậy, cần phải cung cấp một tỷ lệ lipit nhất định trong khẩu phần vì vai trò
của lipit trong việc hoà tan vitamin A, D, K, E, đặc biệt là gia súc tiết sữa cao sản.
7.2.3.3.4. Nhu cầu vê khoáng
Chất khoáng trong sữa chủ yếu là Ca, P, Na, K, Cl, Fe, Mg nhưng hàm lượng ở
các loài gia súc là khác nhau. Trong đó quan trọng nhất là Ca, P. Tổng lượng khoáng
trong sữa thường chiếm từ 0,5-1,5%.
Bảng 7.14. Hàm lương khoáng trong sữa của một số loài gia súc (gr/1kg sữa)


Căn cứ vào hàm lượng khoáng trong sữa, ta có thể tính được nhu cầu khoáng của
các loài gia súc khác nhau.
Ví dụ: Bò sữa mỗi ngày tiết ra 10kg sữa cần cung cấp Ca: 1l,9gr, P: 8,4gr; Na:
7,2gr; Cl: 13,7gr
Những ngày đầu sau khi đẻ, lợn và bò sữa cao sản thường phát sinh hiện tượng
cân bằng âm về Ca, đó là biểu hiện của sự thiếu Ca trong cơ thể hay Ca cung cấp trong
thức ăn không đủ theo nhu cầu. Trong khi đó, sản lượng sữa tiết ra rất lớn, l
ượng Ca
trong sữa càng nhiều. Nếu Ca trong thức ăn không đủ, gia súc cái sẽ phải huy động Ca
trong xương làm cho xương mềm, xốp, dễ gẫy hoặc biến dạng, thậm chí vỡ xương
chậu ở bò sữa cao sản (hiện tượng loãng xương do thiếu Ca) ỡân tới làm giảm sản
lượng sữa, giảm sức khoẻ gia súc cái. Ở thời kỳ đầu tiết sữa, mặc dù Ca, P trong thức
ăn cung cấ
p đủ vẫn xảy ra hiện tượng cân băng âm về Ca vì nhu cầu Ca trong sữa cao

mà sự hấp thụ Ca trong thức ăn lại có hạn, do vậy phải chú ý cung cấp đủ Ca, P từ khi
con vật mang thai nhằm tăng cường tích luỹ Ca, P trước khi đẻ để hạn chế cân bằng
âm, nhất là gia súc cao sản.
7.2.3.3.5. Nhu cầu về vitamin
Hàm lượng vitamin trong sữa khá phong phú, nhất là sữa đầu trong đó có nhiều
vitamin A, D, C và nhóm B. Hàm lượng vitamin trong sữa có liên quan trực tiếp v
ới
hàm lượng vilamin trong thức ăn cung cấp cho con mẹ.
Trong mùa hè, lượng vitamin trong sữa cao vì caroren trong cỏ nhiều. Mùa đông
thì ngược lại, vitamin trong sữa giảm xuống 50-60% so với mùa hè vì mùa đông thiếu
cỏ xanh.
Bò: sản lượng sữa 15-20kg/ngày cần cung cấp 300mg caroten.
, TL tham khao, P.V. Hai

163
Bò: sản lượng sữa 30kg/ngày cần cung cấp 400mg caroten.
Lợn nái nuôi con: cần cung cấp 3-35mg caroten/100kg thể trọng.
Cừu: cần cung cấp 20-25mg/100kg thể trọng.
Nhu cầu vitamin nhóm B cao ở các loại gia súc dạ dày đơn như lợn chó thiếu
vitamin nhóm B ảnh hưởng lớn tới tiêu hoá và trao đổi chất, do đó sản lượng sữa giảm.
Riêng loài nhai lại không cần cung cấp mà chỉ cần cung cấp khoáng vi lượng vì hệ vi
sinh vật dạ cỏ có khả năng t
ự tổng hợp vitamin nhóm B từ các nguyên liệu có trong
thức ăn.
Đối với vitamin D rất cần thiết cho gia súc tiết sữa vì nó liên quan đến khả năng
hấp thụ Ca, P, liên quan đến sức khoẻ của con mẹ. Với gia súc cao sản cần cung cấp
đủ vitamin D dưới dạng men bia khô chiếu tia tử ngoại. Lượng cho ăn 80-160 g men
bia khô/ngày sẽ cho 400 Ui vitamin Dung sữa.
7.2.3.3.6. Nhu cầu về nhiệt năng
Trong sữa có protit, lipit và đường lactoz. Khi ôxy hoá, trong cơ thể chúng sẽ

sinh ra nhi
ệt năng. Xác định tổng số nhiệt năng của sữa là xác định tổng số nhiệt năng
của các thành phần dinh dưỡng có trong 1 kg sữa.
Khi ôxy hoá 1g lipit sữa cho 9,3kcalo.
Khi ôxy hoá 1g protit sữa cho 5,82kcalo.
Khi ôxy hoá 1g glactoz cho 4, 1 kcalo.
Từ đó tính tổng số nhiệt năng của 1kg sữa.
Ví dụ: Tổng số nhiệt năng của 1kg sữa tiêu chuẩn có 4% mỡ sữa; 3,4% protit;
4,7% đường lactoz là 753 kcalo. Căn cứ vào thí nghiệm cân bằng vật chất, cân bằng
nhiệ
t năng, người ta tính được rằng muốn sản ra 1000kca1o nhiệt năng của sữa cần 0,6
đơn vị thức ăn ME. Vì vậy muốn sản xuất 1kg sữa có 753kcalo sẽ cần:

Nếu bò sữa cao sản có sản lượng sữa 40kg/ngày cần cung cấp: 40
×0,45 đvtă =
18 đvtă để sản xuất sữa. Còn xác định nhu cầu duy trì ở bò sữa theo phương pháp của
Liên Xô, người ta dùng phương pháp xác định tổng nhiệt năng tiêu hao trong một thời
kỳ nhất định (cả thời gian tiết sữa, một ngày hay một giai đoạn) đối chiếu với sản
lượng sữa để tính nhu cầu nhiệt năng cho sản xuất sữa.
Ví dụ: Bò cùng thể
trọng 400kg, nhu cầu sản xuất 1kg sữa ở những con có sản
lượng sữa khác nhau như sau: Sản lượng sữa 1500 kg/chu kỳ nhu cầu là 1,3 đvtă, sản
lượng sữa 3000 kg/chu kỳ là 0 95đvtă, sản lượng sữa 5000kg/chu kỳ là 0,83đvtă (kể cả
nhu cầu duy trì).
Đối với bò có sản lượng sữa là 3000 kg/chu kỳ thì thể trọng khác nhau sẽ đòi hỏi
nhu cầu khác nhau: Nếu bò nặng 400kg nhu cầu 0,95
đvtă; bò 500 kg là 0,99 đvtă; bò
550 kg nhu cầu là 1,02 đvtă. Điều đó chứng tỏ sản lượng sữa cao sản thì nhu cầu duy

164

trì cũng sẽ cao do cường độ trao đổi chất mạnh.
7.2.4. Nhu cầu dinh dưỡng của gia súc cày kéo
Về mặt sinh lý, gia súc cày kéo có nhiều điểm khác với các loại gia súc khác, khi
làm việc bao giờ dị hoá cũng lớn hơn đồng hoá. Cường độ trao đổi chất tăng lên phụ
thuộc vào tính chất và khối lượng công việc.
Nuôi dưỡng đúng có nghĩa là làm thế nào để bù đắp lại được những năng lượng
đã tiêu hao trong quá trình làm việ
c. Trước hết, chúng ta cần nghiên cứu một số vấn đề
sau:
7.2.4.1. Công và công suất
Công là biểu hiện kết quả làm việc của gia súc, là đại lượng đo được bằng khối
lượng công việc mà con vật thực hiện được trên một đoạn đường đi nhất định. Đơn vị
tính là kGm.
Để tính công, người ta phải đo sức kéo của con vật và quãng đường con vật thực
hiệ
n công việc. Nếu tính theo sức kéo công được xác định là:
A= P x L
Trong đó A: công.
P: sức kéo trung bình (Kg).
L: chiều dài di chuyển của con vật.
Nếu là trâu bò cày kéo thì L = Diện tích cày/độ rộng sá cày.
Nếu tính công suất thì: N=
t
A

trong đó: N là công suất, A là công và t là thời gian làm việc.
Đơn vị công suất kGm/s thường dùng đơn vị phổ biến là mã lực.
nhã lực = 75kGm/s.
Như vậy: Công suất là công được hoàn thành trong một đơn vị thời gian nhất
định.

7.2.4.2. Nguồn gốc năng lượng của cơ khi làm việc
Muốn xác định chế độ nuôi dưỡng hợp lý đối với gia súc làm việc thì cần phải
biết những chất gì là nguồn nă
ng lượng chủ yếu để sinh năng lượng cho con vật khi
làm việc. Nếu phân tích hàm lượng hoá học của cơ ta có: H
2
0 72-78%, vật chất khô
22-28%. Trong vật chất khô thì protit 16-20,9% còn lại là gluxit dưới dạng glycogen,
khoảng 1 %lipil, các chất khoáng và một số chất chứa nào khác như creatin, crealin
photphat (CP), adenozin triphotphat (ATP), adenozin diphotphat (ADP). Chính vì vậy
mà có một thời gian dài người ta cho rằng protit là thành phần chủ yếu của cơ, là
nguồn gốc năng lượng của cơ khi làm việc.
Nhưng sau này nhiều thí nghiệm cân bằng N của gia súc làm việc đã chứng tỏ
không phải chỉ có protit mà con vật phải sử dụng gluxit và lipit
để sinh năng lượng.

165
Hiệu suất làm việc của vật nuôi quyết định bởi cường độ hoạt động của cơ bắp. Nguồn
năng lượng tiêu tốn khi vật nuôi hoạt động cơ bắp là do sự ôxy hoá các chất dinh
dưỡng của thức ăn ăn vào. Người ta đã làm các thí nghiệm sau:
- Thí nghiệm 1: Một cơ bắp được đặt trong điều kiện hiếu khí và kích thích co cơ
với mức độ v
ừa phải 10 lần/phút, thì thấy cơ co cho đến khi hết glucogen trong cơ:

- Thí nghiệm 2: Cũng đặt cơ trong điều kiện hiếu khí nhưng kích thích co cơ với
nhịp độ nhanh cho thấy cơ co cho đến khi hết glucogen nhưng chỉ một phần nhỏ
glycogen biến thành CO
2
+ H
2

O+ Q, Còn đại bộ phận glucogen tạo thành axit lactic.
Năng lượng do ATP đủ để sử dụng cho cơ co trong khoảng 1/2 giây, sau đó ADP lại
kết hợp với H
2
PO
4
để tái tổ hợp ATP và sử dụng năng lượng của glycogen phân giải
ra.
- Thí nghiệm 3: Đặt cơ trong điều kiện yếm khí, kích thích thấy cơ co cho đến
khi glucogen biến hoàn toàn thành axit lactic.
- Thí nghiệm 4: Đặt cơ trong điều kiện yếm khí nhưng ngăn chặn sự phân huỷ
glucogen bằng cách tiêm vào cơ axit monoiodaxetic thì thấy cơ co được trong thời
gian ngắn cho đến khi lượng ATP thành ADP.
Qua 4 thí nghiệm trên người ta rút ra kết luận:
- Glycogen là chất ch
ủ yếu cung cấp năng lượng cho cơ hoạt động, nó có thể
phân giải theo con đường yếm khí và hiếu khí.
- Năng lượng trực tiếp dùng để co cơ là năng lượng của ATP.
- Phản ứng ATP
→ ADP+Q xảy ra rất nhanh khi cơ bị kích thích và đáp ứng kịp
thời cho cơ ngay. Còn glycogen phân giải thành CO
2
+ H
2
O + axit lactic + Q là quá
trình diễn ra chậm, năng lượng này thực chất là dùng để tái tạo ATP chứ không dùng
để co cơ.
- Bên cạnh đó CP cũng đóng vai trò quan trọng là nguồn dự trữ và cung cấp năng
lượng cho cơ. Có thể tóm tắt quá trình chuyển hoá các chất này trong cơ khi gia súc
làm việc như nội dung sau.

7.2.4.2.1. Crealin pllotphat (CP)
Trong cơ có chứa 20-30.10
-6
mol/1gr cơ (mol là đơn vị lượng chất chứa 6,02.10
-
23
hạt vi mô gọi là số avôgadro ký hiệu là N, 1 mol phân tử của bất kỳ phần tử nào
cũng chứa 6,02.10
-23
phân tử. Một mol ion của bất kỳ lớn nào cũng chứa 6,02.10
-23

ion). có không bền vững trong môi trường axit. Khi cơ bị kích thích, CP sẽ phân giải
sinh ra axit photphoric và creatin đồng thời giải phóng năng lượng (sinh ra 1 axit
photphoric thì toả ra l02-122kcalo phản ứng xảy ra như sau:

166

Nhiệt năng do CP cung cấp dùng để co cơ, đó là nguồn nhiệt năng đầu tiên khi co
cơ, nhưng vì CP có rất ít nên năng lượng do nó cung cấp cho cơ không nhiều. Hơn
nữa, sau khi phân giải cung cấp năng lượng thì nó lại tái tổ hợp: C+P

CP, lại tiêu
hao năng lượng nhất định của cơ.
7.2.4.2.2. Adenozin triphotphar (ATI )
Năm 1928, người ta phát hiện trong cơ có chứa một chất đặc biệt có chứa liên kết
cao năng với hàm lượng nhỏ khoảng 5.10
-6
mol/gr cơ, đó là ATP, ATP không bền
vững, dễ bị phân huỷ thành ADP và axit photphoric, đồng thời giải phóng năng lượng.

1 phân tử ATP phân giải thành ADP tạo ra 12kcalo.

Năng lượng này duy trì co cơ nhưng vì nồng độ ATP thấp nên nó chỉ đủ để sử
dụng cho cơ co trong khoảng 1/2 giây, sau đó ADP lại kết hợp với H
3
PO
4
để tái tạo
ATP và sử dụng năng lượng của cơ.
7.2.4.2.3. Vai trò của gluxit, 1ipi, protit
Như trên đã nói, glycogen là nguồn gốc chủ yếu cung cấp năng lượng cho cơ
hoạt động, khi cơ bị kích thích nhanh, glycogen vừa phân giải theo con đường hiếu khí
vừa phân giải yếm khí sinh ra axit lactic. Khi kích thích vừa phải glycogen chỉ phân
giải theo con đường hiếu khí. Vì vậy, khi cường độ làm việc cao thì lượng axit lactic
sinh ra nhiều trong cơ bắp làm cho cơ đau nhứ
c, mệt mỏi. Thông thường khi nghỉ ngơi
axit lactic trong cơ chỉ có 0,02 -0.03% nhưng khi cơ làm việc thì hàm lượng axit lactic
tăng lên tới 0.3-0,5%. thậm chí 0.5 -0,6%. Nhưng chỉ có một phần nhỏ axit lactic được
ôxy hoá (20%) sinh ra CO
2,
H
2
OVà Q. Nhiệt năng này dùng để tái tạo ATP và CP. Còn
đại bộ phận axit lactic không được sử dụng sẽ đi vào máu để: chuyển về gan và tái tạo
glycogen.
Nguồn gốc năng lượng cho cơ làm việc được cung cấp từ gluxit khi thiếu mới
huy động đến lipit và cuối cùng mới sử dụng đến protit nếu năng lượng cung cấp từ
gluxit và lipit không đủ. Quá trình chuyển hoá các nhóm chất này như sau:

167


Chúng ta thấy gluxit sau khi được hấp thụ một phần chuyển ngay thành đường
glycogen của cơ, còn lipit và protit thì phải qua nhiều quá trình chuyển biến phức tạp
hơn nên không lợi bằng gluxit.
Ví dụ: Tính theo đơn vị công thì tiêu hao năng lượng của gluxit ít hơn lipit 9-
10%. Hơn nữa, trong thức ăn vật nuôi chủ yếu là gluxit còn lipit và protit ít hơn nhiều
nên có thể nói nguồn gốc năng lượng của cơ khi làm việc chủ yếu do gluxil cung cấp,
ch
ỉ khi thiếu gluxit cơ thể mới sử dụng đến lipit và protit.
7.2.4.3. Nhu cầu về các chất dinh dưỡng
7.2.4.3.1. Nhu cầu về nhiệl năng
Trong nuôi dưỡng gia súc cần chú ý cung cấp đủ nhiệt năng của thức ăn để bù
đắp được những nhiệt năng đã bị tiêu hao trong quá trình làm việc. Nhu cầu năng
lượng của vật nuôi làm việc được xác định bằng tổng nhiệt năng của con vậ
t đã tiêu
hao trong quá trình làm việc. Theo các tài liệu của Liên Xô cũ thì trung bình khi làm
việc, gia súc chỉ sử dụng 25% nhiệt năng sinh ra để biến thành công cơ giới. Số còn lại
bị mất đi để di chuyển chính bản thân con vật và mất đi do sự toả nhiệt rà môi trường
để điều hoà thân nhiệt. Trung bình, nhu cầu duy trì bằng 1 đvtă/100kg thể trọng. Ta có
thể tính được nhu cầu năng lượng của v
ật nuôi làm việc như sau:
Nhiệt năng làm việc = Nhiệt năng cơ giới
×
4;
Công cơ giới: A= P
×L
Tổng số nhiệt năng phải cung cấp cho vật nuôi làm việc = nhiệt năng duy trì +
nhiệt năng làm việc.
Ví dụ: Xác định nhu cầu năng lượng cho 1 con trâu nặng 300 kg, làm việc 8
giờ/ngày. Biết nhu cầu duy trì 1kg cần 120 kcalo ME, nhu cầu làm việc 2,5 kcalo

ME/kg khối lượng cơ theo giờ làm việc.

×