Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vong Tuan Hoan Nuoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.36 KB, 13 trang )

Vòng tuần hoàn của nước
Trang 1 trong số 3
Nước tồn tại và vận động liên tục trên mặt đất, trong lòng đất và trong bầu khí
quyển. Nước luôn vận động và chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác, từ
thể lỏng sang thể hơi rồi thể rắn và ngược lại. Vòng tuần hoàn nước đã và đang
diễn ra từ hàng tỉ năm và tất cả cuộc sống trên Trái Đất đều phụ thuộc vào nó,
Trái Đất chắc hẳn sẽ là một nơi không có sự sống được nếu không có nước.
Sơ lược
Nước tuần hoàn theo một vòng khép kín, không có điểm bắt đầu và kết thúc.
Hãy thử bắt đầu từ các đại dương.
Dưới sức nóng của Mật trời, nước bốc hơi vào trong không khí. Những dòng khí
bốc lên đem theo hơi nước, gặp nơi có nhiệt độ thấp hơn, hơi nước bị ngưng tụ
thành những đám mây và di chuyển khắp toàn cầu.
Những đám mây va chạm vào nhau, kết hợp với nhau, gia tăng kích cỡ và rơi
xuống (giáng thủy) dưới dạng mưa, tuyết. Tuyết được tích lại thành những núi
tuyết và băng hà, có thể giữ nước đóng băng hàng nghìn năm. Khi mùa xuân
đến, tuyết tan và chảy thành dòng trên mặt đất, đôi khi tạo thành lũ.
Phần lớn lượng mưa rơi trên các đại dương và trên mặt đất. Một phần chảy trên
mặt đất thành suối, thành sông và đổ về đại dương. Một phần được tích tụ thành
những hồ nước ngọt. Một lượng lớn nước thấm xuống dưới đất tạo thành dòng
chảy ngầm. Một phần nước ngầm chảy ra thành các dòng suối nước ngọt. Nước
ngầm tầng nông được rễ cây hấp thụ rồi thoát hơi qua lá cây.
Nước tiếp tục thấm vào tầng đất sâu hơn bổ sung và tái tạo kho dự trữ nước
ngọt khổng lồ. Tuy nhiên, lượng nước này vẫn luân chuyển theo thời gian, có thể
quay trở lại đại dương, nơi bắt đầu một vòng tuần hoàn mới.
Các phần của vòng tuần hoàn
Cục Địa chất Hoa Kỳ đã định nghĩa 15 thành phần của vòng tuần hoàn nước
như sau:
Nước biển
Ước tính có khoảng 1.338.000.000 km
3


nước được trữ trong đại dương, chiếm
khoảng 96,5%, và đại dương cũng cung cấp khoảng 90% lượng nước bốc hơi
vào trong vòng tuần hoàn nước.
Trong Kỷ băng hà, nhiều đỉnh núi băng và những dòng sông băng được hình
thành, bao phủ 1/3 bề mặt trái đất, làm cho mực nước các đại dương thấp hơn
ngày nay khoảng 122 m (400 feet). Cách đây khoảng 3 triệu năm, khi trái đất ấm
hơn, băng tan làm mực nước của các đại dương có thể đã cao hơn hiện nay
khoảng 50 m (165 feet).
Mước trong đại dương cũng không đứng yên. Những dòng chảy trong lòng đại
dương di chuyển một khối lượng lớn nước đi khắp thế giới, ảnh hưởng lớn đến
vòng tuần hoàn nước và khí hậu. Với vận tốc 97 km một ngày, dòng Gulf (có một
lượng nước nhiều gấp 100 lần tất cả các sông trên trái đất) vận chuyển hàng tỷ
khối nước ấm từ vịnh Mexico lên đến Bắc Đại Tây Dương,
Bốc hơi
Bốc hơi nước là một quá trình nước chuyển từ thể lỏng sang thể hơi hoặc khí.
Bốc hơi nước là đoạn đường đầu tiên trong vòng tuần hoàn mà nước chuyển từ
thể lỏng thành hơi nước trong khí quyển. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các
đại dương, biển, hồ và sông cung cấp gần 90% độ ẩm của khí quyển qua bốc
hơi, với 10% còn lại do thoát hơi của cây.
Nhiệt lượng là nhân tố cần thiết cho nước bốc hơi. Nhiệt năng bẻ gãy liên kết
giữa các phân tử nước, nó là nguyên nhân tại sao nước có thể dễ dàng bốc hơi
tại điểm sôi (212°F, 100°C) nhưng bốc hơi rất chậm tại điểm đóng băng. Khi độ
ẩm tương đối trong không khí đạt 100%, tức là ở trạng thái bão hoà hơi nước,
bốc hơi không thể tiếp tục diễn ra. Quá trình bốc hơi nước tiêu thụ nhiệt năng từ
môi trường làm cho khí hậu mát mẻ
Bốc hơi nước từ các đại dương là cách chính để nước được luân chuyển vào
trong khí quyển. Diện tích rất lớn của các đại dương (trên 70% diện tích bề mặt
của Trái Đất) tạo thuận lợi cho quá trình bốc hơi diễn ra nhanh hơn. Trên phạm
vi toàn cầu, lượng nước bốc hơi luôn bằng với lượng mưa/ tuyết nhưng tỉ lệ này
biến đổi theo vùng địa lý.

Thông thường trên các đại dương lượng bốc hơi nhiều hơn lượng giáng thủy,
trong khi đó trên mặt đất, lượng giáng thủy vượt quá lượng bốc hơi. Phần lớn
lượng nước bốc hơi từ các đại dương lại mưa ngay xuống đại dương. Chỉ
khoảng 10% của nước bốc hơi từ các đại dương được vận chuyển vào đất liền.
Khi bốc hơi, một phân tử nước tồn tại trong khí quyển khoảng 10 ngày.
Nước khí quyển
Mặc dù khí quyển không là kho chứa khổng lồ, nhưng nó là một “siêu xa lộ” để
luân chuyển nước khắp toàn cầu. Trong khí quyển luôn luôn có nước: những
đám mây là một dạng nhìn thấy được của nước trong khí quyển. Thể tích nước
trong khí quyển tại bất kỳ thời điểm nào vào khoảng 12.900 km
3
. Nếu tất cả
lượng nước khí quyển rơi xuống cùng một lúc, nó có thể bao phủ khắp bề mặt
trái đất với độ dày 2,5 cm.
Sự ngưng tụ hơi nước
Sự ngưng tụ hơi nước là quá trình hơi nước trong không khí được chuyển sang
thể nước lỏng. Ngưng tụ hơi nước rất quan trọng đối với chu trình tuần hoàn
nước bởi vì nó hình thành nên các đám mây. Những đám mây này có thể tạo ra
mưa, là cách chính để nước quay trở lại trái đất. Ngưng tụ hơi nước là quá trình
ngược với bốc hơi nước.
Sự ngưng tụ hơi nước cũng là nguyên nhân của hiện tượng sương, hoặc nước
trên mắt kính khi ta đi từ một phòng lạnh đi ra ngoài trong một ngày nóng, ẩm
ướt, còn trong một ngày lạnh nước có thể nhỏ giọt bên ngoài cốc uống nước hay
có nước ở phía bên trong cửa sổ.
Thậm chí trên những bầu trời trong xanh không một gợn mây, thì nước vẫn tồn
tại dưới hình thức hơi nước và những giọt nước li ti không thể nhìn thấy được.
Những phân tử nước kết hợp với những phân tử nhỏ bé của bụi, muối, khói
trong khí quyển để hình thành nên các hạt nhân mây (giọt mây nhỏ, đám mây
nhỏ), nó gia tăng khối lượng và phát triển thành những đám mây. Khi những giọt
nước kết hợp với nhau, gia tăng về kích thước, những đám mây nặng dần lên và

mưa có thể xãy ra.
Các đám mây hình thành trong khí quyển do không khí chứa hơi nước bốc lên
cao và lạnh đi. Nguyên lý của quá trình này là không khí sát mặt đất ấm lên do
bức xạ mặt trời trong khi lớp khí quyển phía bên trên mặt đất lạnh đi là do áp
suất không khí giảm. (Không khí có trọng lượng và tại mực nước biển trọng
lượng của một cột không khí nén xuống trên đầu bạn khoảng 32 kg trên mỗi inch
vuông, áp lực này, được gọi là khí áp, nó là kết quả của mật độ không khí trong
cột không khí phía trên. Càng lên cao càng ít không khí phía bên trên, và vì thế
càng ít áp lực. Khí áp thấp hơn và mật độ không khí giảm theo độ cao. Điều này
làm cho không khí trở nên lạnh hơn).
Giáng thủy
Là nước thoát ra khỏi những đám mây dưới các dạng mưa, mưa tuyết, mưa đá,
tuyết. Nó là cách chính để nước khí quyển quay trở lại Trái Đất. Phần lớn lượng
giáng thuỷ là mưa. Vậy các hạt mưa hình thành như thế nào?
Những đám mây trên bầu trời chứa hơi nước và những hạt nhân mây nhỏ, các
hạt nhân mây này quá nhỏ để có thể rơi xuống thành mưa, nhưng nó cũng đủ
lớn để hình thành nên các đám mây có thể nhìn thấy được. Nước liên tục bốc
hơi và ngưng tụ trong khí quyển. Nếu nhìn gần một đám mây, ta có thể nhìn thấy
những phần đang biến mất (đang bốc hơi) trong khi những phần khác đang phát
triển (ngưng tụ).
Phần lớn lượng nước được ngưng tụ trong các đám mây không rơi xuống thành
giáng thuỷ. Vì để giáng thuỷ xảy ra, trước tiên những giọt nước nhỏ phải được
ngưng tụ. Những phân tử nước có thể kết hợp với nhau thành những giọt nước
lớn hơn và đủ nặng để rơi thành mưa. Cần tới hàng triệu hạt mây để hình thành
chỉ một hạt mưa nhỏ.
Lượng giáng thủy phân bố không đều trên thế giới, trong một nước hoặc thậm
chí trong một thành phố. Ví dụ, tại Atlanta, Georgia, Mỹ, một trận mưa giông mùa
hè có thể cho một lớp nước dày 2,5 cm hoặc nhiều hơn trên một con đường,
trong khi đó ở một vùng khác cách đó vài km thì vẫn khô ráo.
Nước băng và tuyết

Nước được giử lâu dài trong băng, tuyết, và các sông băng là một thành phần
của vòng tuần hoàn nước toàn cầu. Vùng Nam cực chiếm 90% tổng lượng băng
của trái đất, các đỉnh núi băng ở Greenland chiếm 10% tổng lượng băng toàn
cầu.
Một vài số liệu về các dòng sông băng và những đỉnh núi băng
• Băng hà bao phủ 10 - 11% lục địa trái đất
• Nếu tất cả băng hà tan chảy ngày nay, mực nước biển sẽ tăng lên khoảng
70 m (nguồn: Trung tâm Tư liệu Băng và Tuyết Quốc gia)
• Trong kỷ băng hà cuối cùng, mực nước biển thấp hơn ngày nay khoảng
122 m, và những dòng sông băng bao phủ gần 1/3 lục địa trái đất.
• Trong thời kỳ ấm cuối cùng, cách đây 125.000 năm, mực nước biển cao
hơn ngày nay khoảng 5,5 m. Khoảng 3 triệu năm trước đây nước biển có thể đã
cao đến hơn 50,3 m.
Dòng chảy tuyết tan
Trên toàn bộ thế giới dòng chảy tuyết là phần chính của sự luân chuyển nước
toàn cầu. Mùa xuân ở những vùng ôn đới, nhiều dòng suối xuất phát từ tuyết và
băng tan nhanh có thể gây ra lũ lụt, sạt lở đất.
Dòng chảy từ tuyết tan biến đổi theo mùa và theo năm. So sánh các đỉnh lũ giữa
trận lũ lớn trong năm 2000 và trận lũ nhỏ hơn nhiều trong năm 2001, giống như
có một trận hạn hán lớn ảnh hưởng đến California trong năm 2001. Nhưng sự
thiếu hụt nước là do nước được trữ trong băng vào mùa đông ảnh hưởng đến
tổng lượng nước các tháng còn lại của năm. Sự thiếu hụt nước cũng ảnh hưởng
đến lượng nước trong các hồ tại hạ lưu, và sự thiếu hụt nước ở các hồ lại ảnh
hưởng đến lượng nước tưới và nước cấp thành phố.
Dòng chảy mặt
Nhiều người chỉ nghĩ đơn giản rằng mưa rơi, chảy tràn trên mặt đất (dòng chảy
mặt) và chảy vào sông, sau đó đổ ra các đại dương. Đó là sự đơn giản hoá, bởi
vì các sông còn nhận và mất nước do thấm. Tuy nhiên, lượng lớn nước trong
sông là do dòng chảy trực tiếp trên mặt đất cung cấp và được định nghĩa là dòng
chảy mặt.

Thông thường, một phần nước mưa rơi thấm ngay vào đất, nhưng khi đất đạt tới
trạng thái bão hoà hay không thấm, thì bắt đầu chảy theo sườn dốc thành dòng
chảy. Trong một trận mưa lớn, bạn có thể nhìn thấy các dòng nước nhỏ chảy
xuôi sườn dốc. Nước sẽ chảy theo những kênh trên mặt đất trước khi chảy vào
trong các sông lớn quay trở về đại dương.
Cũng giống như tất cả các thành phần khác
trong vòng tuần hoàn nước, quan hệ giữa mưa và dòng chảy cũng biến đổi theo
thời gian và không gian. Những trận mưa tương tự nhau xuất hiện trong vùng
rừng rậm Amazon và trong vùng sa mạc tây bắc nước Mỹ sẽ tạo những dòng
chảy mặt khác nhau. Dòng chảy mặt bị chi phối bởi các nhân tố khí tượng địa
vật lý và địa hình. Chỉ khoảng 1/3 lượng nước mưa rơi trên bề mặt đất chảy vào
sông suối và quay trở lại đại dương. 2/3 còn lại bị bốc thoát hơi hoặc thấm vào
mạch nước ngầm. Con người thường sử dụng nước cho các mục đích khác
nhau từ dòng chảy nước mặt.
Dòng chảy sông ngòi
Cục Địa chất Mỹ định nghĩa “dòng chảy” là lượng nước chảy trong sông, suối,
hoặc lạch nước.
Sông ngòi rất quan trong không chỉ đối với con người mà đối với sự sống khắp
mọi nơi. Con người sử dụng nước sông cho nhu cầu ăn uống, tưới tiêu, sản xuất
ra điện, làm sạch chất thải (xử lý nước thải), giao thông thuỷ, và kiếm thức ăn.
Sông ngòi còn là môi trường sống chính cho tất cả các loài động và thực vật
nước. Sông ngòi bổ sung nước cho tầng nước ngầm và các đại dương.
Dòng chảy sông ngòi luôn thay đổi từng ngày thậm chí từng phút. Tất nhiên,
mưa tác động chính tới dòng chảy trên các lưu vực. Mưa rơi làm tăng mực nước
sông, và mực nước sông có thể tăng ngay cả khi mưa ở rất xa trên thượng
nguồn.
Lượng trữ nước ngọt
Nước ngọt trên mặt đất, một thành phần của chu trình nước, yếu tố cần thiết cho
mọi sự sống trên trái đất. Nước mặt bao gồm nước trong các dòng sông, ao, hồ,
hồ nhân tạo, và các đầm lầy nước ngọt.

Lượng nước trong các sông và hồ luôn luôn thay đổi phụ thuộc vào lưu lượng
vào và ra. Dòng chảy vào từ mưa, dòng chảy tràn trên mặt đất, lượng nước
ngầm dưới đất, và lượng nước gia nhập từ các sông nhánh. Dòng chảy ra khỏi
các hồ và sông bao gồm lượng bốc hơi và dung tích nước bổ sung cho nước
ngầm. Con người cũng sử dụng nước mặt cho các nhu cầu thiết yếu của mình.
Lượng và vị trí của nước mặt thay đổi theo thời gian và không gian, một cách tự
nhiên hay dưới sự tác động của con người. Nước mặt duy trì sự sống
Trong vùng châu thổ sông Nile ở Ai Cập, cuộc sống có thể sinh sôi tại những
vùng sa mạc nếu được cung cấp đủ lượng nước (mặt hoặc ngầm). Nước trên
mặt đất thực sự giúp duy trì cuộc sống. Nước ngầm tồn tại thông qua sự di
chuyển của nước mặt vào trong tầng nước ngầm dưới mặt đất. Nước ngọt trên
bề mặt trái đất tương đối khan hiếm. Chỉ khoảng 3% của tổng lượng nước trái
đất là nước ngọt, các hồ nước ngọt và các đầm (nước) ngọt chiếm 0,29% tổng
lượng nước ngọt trên trái đất, hồ Bai-cal ở Liên bang Nga chiếm 20% tổng lượng
nước ngọt trên trái đất, Hồ Lớn (Huron, MichiGan, và Superior) cũng chiếm 20%
tổng lượng nước ngọt trên trái đất. Các sông chỉ chiếm khoảng 0,006% tổng
lượng nước ngọt trên trái đất. Ta có thể nhận thấy rằng nước ngọt, yếu tố cần
thiết cho sự tồn tại cuộc sống trên trái đất, chỉ chiếm một phần cực nhỏ “một giọt
nước trong biển cả mênh mông” của tổng lượng nước trên trái đất.
Thấm
Bất cứ nơi nào trên thế giới, một phần lượng nước mưa và tuyết đều thấm
xuống lớp đất và đá dưới bề mặt. Lượng thấm bao nhiêu phụ thuộc vào một số
các nhân tố. Trên đỉnh băng của Greenland lượng nước mưa thấm xuống là rất
nhỏ, ngược lại, một dòng sông chảy vào trong hang động ở vùng Georgia, Mỹ,
cho thấy sông cũng có thể chảy trực tiếp vào trong nước ngầm.
Một phần lượng nước thấm xuống sẽ được giữ lại trong những tầng đất nông, ở
đó nó có thể chảy vào sông nhờ thấm qua bờ sông. Một phần nước thấm xuống
sâu hơn, bổ sung cho các tầng nước ngầm. Nếu tầng nước ngầm nông hoặc đủ
độ rỗng để cho phép nước chảy tự do qua nó, con người có thể khoan các giếng
trong tầng nước ngầm này và sử dụng nước cho những mục đích của mình.

Nước ngầm có thể di chuyển được những khoảng cách dài hoặc được trữ lại
trong tầng nước ngầm trong một thời gian dài trước khi quay trở lại bề mặt hoặc
qua thấm vào các thuỷ vực khác, như thấm vào các sông và đại dương.
Khi nước mưa thấm vào trong tầng đất sát mặt, nó hình thành vùng không bão
hoà và vùng bão hoà. Trong vùng không bão hoà, nước tồn tại trong các lỗ rỗng
của lớp đá bên dưới mặt đất, nhưng tầng đất chưa đạt tới trạng thái bão hoà.
Phần phía trên của tầng không bão hoà là vùng đất. Vùng đất này có không gian
phân bố được tạo ra từ rễ cây trồng, nước mưa có thể thấm vào tầng này. Cây
trồng sử dụng nước trong tầng đất này. Bên dưới vùng không bão hoà là vùng
bão hoà, ở đây nước chứa đầy trong các khe rỗng giữa các phần tử đất và đá.
Có thể khoan giếng trong vùng này và bơm nước lên.
Nước ngầm
Lượng nước mà ta không thể nhìn thấy được - nước ngầm (nước tồn tại và di
chuyển trong lòng đất) - chiếm một lượng rất lớn so với lượng nước ta có thể
nhình thấy được. Nước ngầm đóng góp lớn cho dòng chảy sông ngòi của nhiều
con sông. Con người đã sử dụng nước ngầm từ hàng ngàn năm nay và vẫn
đang tiếp tục sử dụng nó hàng ngày, phần lớn cho nhu cầu nước uống và nước
tưới. Cuộc sống trên trái đất phụ thuộc vào nước ngầm cũng giống như là nước
bề mặt.
Một phần lượng mưa rơi trên mặt đất và thấm vào trong đất trở thành nước
ngầm. Phần nước chảy sát mặt sẽ lộ ra rất nhanh khi chảy vào trong lòng sông,
nhưng do trọng lực, một phần lượng nước tiếp tục thấm sâu vào trong đất. Nếu
các lớp đá cho phép nước chảy qua tương đối tự do thì nước ngầm có thể di
chuyển sâu hơn vào các tầng nước ngầm sâu ở đó nó sẽ mất hàng ngàn năm
để quay trở lại vòng tuần hoàn.
Suối
Một tầng nước ngầm liên tục được bổ sung nước đến khi nước chảy tràn trên
mặt đất, kết quả là hình thành các con suối. Các con suối có thể rất nhỏ, chỉ có
nước chảy khi có một trận mưa đáng kể, đến các dòng suối lớn chảy với hàng
trăm triệu gallon nước mỗi ngày.

Các con suối có thể hình thành trong bất kỳ loại đá nào, nhưng phần lớn chúng
hình thành trong các loại đá vôi và đolomit, dễ dàng rạn nứt và hoà tan do mưa
axit. Khi đá bị phá huỷ và hoà tan, các khoảng trống hình thành cho phép nước
chảy qua. Nếu dòng chảy theo phương ngang, nó có thể chảy tới mặt đất, hình
thành các con suối.
Nước từ các suối thường sạch. Tuy nhiên, nước trong một vài con suối có thể có
màu trà. Vùng Tây Nam Colorado (gần Alamowater), nước suối có màu đỏ của
sắt do nước ngầm tiếp xúc với khoáng sảt trong lòng đất. Tại bang Florida (nơi
có trụ sở của Flowmatic), nhiều nguồn nước mặt chứa các
axit tanin tự nhiên từ các chất hữu cơ ở trong đất đá làm cho
nước suối có mầu. Lưu lượng của nước màu trong các suối
cho thấy nước đang chảy tự do trong tầng nước ngầm mà
không được lọc qua các vùng đá vôi.
Các suối nước nóng vẫn chỉ là suối thông thường nhưng
nước tại đó ấm, một vài chỗ còn nóng như các con suối bùn ở Hòa Bình, Nha
Trang, Bà Rịa. Nhiều suối nước nóng xuất hiện ở những vùng gần núi lửa hoạt
động, được bổ sung nước nóng do tiếp xúc với đá nóng sâu dưới bề mặt đất.
Càng dưới sâu các tảng đá càng nóng hơn, và nếu nước dưới sâu bề mặt đất
chảy tới một khe nứt rộng nó có thể tạo ra một dòng chảy lên lớp đất trên mặt,
và tạo ra một suối nước nóng.
Sự thoát hơi
Thoát hơi là quá trình nước được vận chuyển từ các rễ cây đến các lỗ nhỏ bên
dưới bề mặt lá, ở đây nước chuyển sang trạng thái hơi và thoát vào khí quyển.
Do đó, thoát hơi thực chất là bốc hơi của nước từ lá cây. Lượng nước bốc thoát
hơi từ cây trồng ước tính chiếm khoảng 10% của hàm lượng nước trong khí
quyển.
Thoát hơi thực vật là một quá trình không nhìn thấy được. Trong cu kỳ phát triển
của cây trồng, một lá cây sẽ thoát một lượng hơi nước gấp nhiều lần trọng lượng
của chính nó. Một mẫu ngô có thể thoát hơi khoảng 11.400 - 15.100 lít
nước/ngày, và một cây sồi lớn có thể bốc hơi được 151.000 lít nước/năm.

Lượng nước bốc thoát hơi từ cây cối biến đổi lớn theo thời gian và không gian.
Một số nhân tố tác động đến tốc độ bốc thoát hơi nước:
• Nhiệt độ: Tốc độ bốc thoát hơi tăng lên khi nhiệt độ tăng, đặc biệt trong
mùa phát triển của cây trồng khi nhiệt độ không khí ấm hơn.
• Độ ẩm tương đối: Khi độ ẩm tương đối của không khí xung quanh cây
trồng tăng thì tốc độ bốc thoát hơi giảm. Nghĩa là nước bốc hơi khi không khí
khô dễ dàng hơn là trong không khí bão hoà ẩm.
• Gió và sự di chuyển của không khí: Sự di chuyển của các lớp không khí
xung quanh một cây tăng lên làm cho bốc thoát hơi cũng tăng cao.
• Loại cây: Loại cây khác nhau sẽ thoát hơi nước với tốc độ khác nhau. Các
loại cây sống trong vùng khô cằn thì thoát hơi ít hơn các loại cây khác. Ví dụ cây
xương rồng và cây lúa
Lượng trữ nước ngầm
Một lượng lớn nước được trữ trong đất. Nước này vẫn tiếp tục chuyển động, có
thể rất chậm, và nó vẫn là một phần của vòng tuần hoàn nước. Phần lớn nước
ngầm là do mưa và lượng nước thấm từ lớp đất mặt. Tầng đất phía trên là vùng
không bão hoà, trong tầng này lượng nước thay đổi theo thời gian, mà không
làm bão hoà tầng đất. Bên dưới lớp đất này là vùng bão hoà, tất cả các khe nứt,
các ống mao dẫn, và các khoảng trống giữa các phân tử đá được lấp đầy nước.
Thuật ngữ “nước ngầm” được dùng để mô tả cho khu vực này. Một thuật ngữ
khác của nước ngầm là “bể nước ngầm”. Bể nước ngầm là kho chứa nước
ngầm khổng lồ và con người khắp nơi trên thế giới phụ thuộc vào nước ngầm
trong cuộc sống hàng ngày.
Cách hay nhất để hiểu được khái niệm đất bão hoà nước tại một độ sâu nhất
định nào đó là đào một cái hố tại một bãi biển, nếu sự thấm diễn ra vừa đủ để
còn giữ lại nước. Mực nước trong hố là mực nước ngầm. Biển ở phía phải của
hố, mực nước trong hố bằng với mực nước biển. Tất nhiên, mực nước trong hố
đào cũng lên xuống từng phút theo sự lên xuống của thuỷ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×