Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Doanh nhân Việt Nam có từ bao giờ? doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.46 KB, 8 trang )

Doanh nhân Việt Nam có
từ bao giờ?
Trải qua nhiều giai đoạn của lịch sử, bằng nhiều thuật ngữ
khác nhau (người buôn bán, thương nhân, tầng lớp tư sản,
giới công thương), đến nay thuật ngữ doanh nhân VN mới
chính thức trả về nguyên ngữ. Chưa bao giờ đội ngũ doanh
nhân VN có được các điều kiện để phát triển như hiện nay.
Đây là quan điểm của nhà Sử học Dương Trung Quốc – Đại
biểu Quốc hội khóa XI, XII, Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử
VN tại buổi phỏng vấn của Báo DĐDN, nhân ngày Doanh
nhân VN (13/10).
- Dưới góc độ một nhà sử học, ông có thể tạo dựng lại hình ảnh
của doanh nhân VN gắn với từng thời kỳ hình thành và phát triển
của lịch sử ?
Trước tiên phải nói rằng, doanh nhân VN là một sản phẩm của
lịch sử. Chúng ta có thể trở lại chân dung của tầng lớp doanh
nhân qua từng thời kỳ của lịch sử. Bắt đầu từ thuật ngữ thương
nhân, một thuật ngữ Hán Việt. Người xưa thường gọi thương
nhân là những người buôn bán, với vai trò giao lưu, lưu thông
hàng hóa, sản vật. Tuy nhiên, văn hóa làng xã của VN đã chi phối
rất mạnh mẽ sự phát triển của thương nhân thời phong kiến.
Về cơ bản, nền kinh tế thời phong kiến theo kiểu tự cấp, tự túc.
Mỗi làng thường có một cái chợ để giao lưu hàng hóa với quy mô
nhỏ, lẻ. Ngay đến Thăng Long được gọi là kinh kỳ – kẻ chợ thì
thực tế bên cạnh cơ quan chính trị trung ương cũng chỉ là một mô
hình chợ lớn hơn. Hơn nữa, nhiều giai đoạn, việc buôn bán, giao
lưu hàng hóa phần lớn do người Hoa nắm giữ.
Chỉ trừ một số trường hợp được coi là đột biến như Gốm Chu
Đậu, hay Hội An Vì một số cảng của VN thời đó nằm ở con
đường tơ lụa trên biển nên việc giao lưu hàng hóa có phát triển.
Tuy nhiên, nhìn chung, xã hội phong kiến VN không phát triển về


thương mại. Do vậy, tầng lớp thương nhân cũng chưa phát triển.
Đến thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân đã du nhập phương
thức sản xuất tư bản vào VN. Cùng với nó là hình thành một bộ
phận tư sản VN (thuật ngữ chính trị). Nhưng trên thực tế, khi lực
lượng này chưa đủ lớn mạnh thì cách mạng đã nổ ra thành công.
Lực lượng này cũng bị triệt tiêu theo.
Chỉ có một bộ phận chủ đồn điền, chủ các DN khá phát triển ở
Nam bộ. Do thực dân Pháp áp dụng chế độ trực trị, bô phận này
đã phát triển với tiểm lực kinh tế không nhỏ, tuy nhiên, để trở
thành một lực lượng chính trị thì chưa. Chiến tranh thống nhất
nước nhà thành công, lực lượng này cũng cuốn theo cuộc chiến.
Như vậy, có thể nói, nhìn lại toàn bộ những giai đoạn trước,
doanh nhân VN chưa phát triển.
- Xét cả về mặt thuật ngữ và tầm nhìn, ông có thể phân tích bức
thư của Bác Hồ gửi giới công thương, ngày 13/10/1945?
Chỉ riêng cách gọi “giới công thương” của Cụ Hồ
đã thể hiện phần nào một cách nhìn biện chứng.
Với cách gọi này, Cụ Hồ đã loại bỏ ngôn ngữ
chính trị (tầng lớp tư sản) ra khỏi những tư duy
cũ kỹ và lỗi thời. Cụ Hồ đã coi hoạt động công
nghiệp, thương nghiệp là một nghề nghiệp, phi nông nghiệp. Mối
quan hệ cực kỳ quan trọng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi
nhà nước đã được đặt ra rất biện chứng. Dân có giàu – nước
mới mạnh.
Chỉ với một dung lượng ngắn, nội dung bức thư đã thể hiện đầy
đủ một tầm nhìn đi trước thời đại tới nửa thế kỷ. Trong thư, Cụ
Hồ đã thể hiện sự quan tâm, tạo mọi điều kiện để giới công
thương phát triển. Quyền lợi của cá nhân và quyền lợi của Nhà
nước không đối lập nhau. “Việc nước và việc nhà bao giờ cũng đi
đôi với nhau”. Chính vì vậy, giới công thương đã đồng lòng đi

theo Cụ Hồ, đi theo cách mạng. Thể hiện rõ nhất lúc bấy giờ là
Tuần lễ vàng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công cuộc phát triển, kiến thiết đất
nước nói chung, phát triển giới công thương nói riêng đã thể hiện
rất biện chứng không chỉ qua bức thư gửi giới công thương mà
còn là một quan điểm xuyên xuốt. Hồ Chí Minh đã coi Chủ nghĩa
Mác – Lê Nin như một kim chỉ Nam, khi áp dụng ở VN thì cần căn
cứ vào thực tế. Từ lúc đó, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng VN là
nước dân chủ, sẵn sàng mở cửa cho các quốc gia đến đầu tư
khai thác từ tài nguyên, bến cảng, đất đai, miễn là hai bên cùng
có lợi.
- Thực tế thành tựu của 20 năm đổi mới của VN vừa qua cũng
chính là nhờ một cách nhìn đổi mới, thưa ông ?
Chúng ta đã có một thời áp đặt khuôn mẫu mô hình kinh tế từ
bên ngoài vào. Hậu quả là chúng ta đã rơi vào khủng hoảng cả
về mặt lý luận và thực tiễn. Nền kinh tế VN đã có lúc nằm bên bờ
vực phá sản. Tuy nhiên, với việc đổi mới tư duy, cách nhìn nhận
và những tư tưởng từ trước đó nửa thế kỷ của Hồ Chí Minh đã
được đặt lại đúng vị trí của nó. Với khẩu hiệu “Nhìn thẳng vào sự
thật” và “tự cởi trói chính mình”, chúng ta đã thiết lập lại những
giá trị cơ bản của nền kinh tế. Những chính sách hội nhập và nền
kinh tế thị trường không những tạo điều kiện tốt cho phát triển mà
thực tế nó còn lôi chúng ta theo nhịp phát triển của kinh tế thế
giới.
Và cùng với sự đổi mới này, thuật ngữ doanh nhân VN đã thực
sự ra đời và thể hiện đầy đủ vai trò của nó. 20 năm chỉ là một thời
gian rất ngắn của lịch sử. Tuy nhiên, đội ngũ doanh nhân VN đã
tiến những bước dài để trưởng thành. Giai đoạn 5 năm tiếp theo
20 năm đó lại càng minh chứng cho sự phát triển vượt bậc của
doanh nhân VN. Ví du như Cà phê Trung Nguyên, FPT, Gạch

Đồng Tâm Chưa bao giờ đội ngũ doanh nhân VN có được các
điều kiện để phát triển như hiện nay.
- Thực tế doanh nhân VN đã phát triển rất nhanh. Tuy nhiên, theo
ông đâu là hạt nhân để làm giàu và tích lũy ?
Để làm giàu và tích lũy được tài sản thời gian qua chủ yếu dựa
vào 3 yếu tố: đất đai, quyền lực và cơ hội (theo cả nghĩa tích cực
và tiêu cực). Việc dịch chuyển quyền sử dụng về đất đai thời gian
qua đã giúp rất nhiều DN giàu lên. Rồi đến việc sử dụng những
lợi thế về quyền lực chính trị cũng khiến cho không ít người trực
tiếp hoặc gián tiếp có được những tài sản đáng kể. Tiếp đến là
những cơ hội như chứng khoán, cổ phần hóa, sự biến động của
thị trường, cơ hội giao thương
Tuy nhiên, đây cũng chính là những sản phẩm của lịch sử phát
triển. Về cơ bản, nó cũng sẽ qua đi và nhường chỗ cho những
hạt nhân mới. Ví dụ như sự nhanh nhạy về thông tin, khả năng
tiếp cận công nghệ mới, cơ hội mới Và một điều quan trọng mà
các hạt nhân kinh tế cũ để lại là kinh tế thị trường và dân chủ
(quyền được sống với những tài sản của mình, do mình tích lũy
được).
- Ông đánh giá thế nào về cơ hội để doanh nhân VN tiếp cận
được những hạt nhân kinh tế mới ?
Chúng ta đang hình thành một đội ngũ doanh nhân trẻ, doanh
nhân mới. Đây là một lực lượng nhanh nhạy và năng động. Với
việc hội nhập và mở cửa mạnh mẽ như hiện nay, đội ngũ này sẽ
sớm trở thành một lực lượng quan trọng. Từ sự hỗ trợ về mặt cơ
chế, đến những cơ hội để học hỏi, cộng tác, doanh nhân trẻ hiện
nay có thể ngay lập tức tiếp cận với công nghệ mới, cơ hội mới
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, sự cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thị
trường. Nhà nước đã coi doanh nhân VN là những chiến sĩ thời
bình. Bên cạnh việc tạo điều kiện cho họ phát triển, Nhà nước

cũng cần bảo trợ họ. Đã là chiến sĩ thì có anh hùng và cũng có cả
thương binh, liệt sĩ. Không nói tới sự đào thải tự nhiên của nền
kinh tế, những sai sót về mặt cơ chế chính sách cũng khiến
không ít doanh nhân phải “thân bại, danh liệt”. Chính vì vậy, một
cơ chế bảo hộ với những đối tượng này là điều Nhà nước cần
tính đến. Có được như vậy, đội ngũ doanh nhân VN mới thực sự
yêu tâm “chiến đấu” trên thương trường.

×