Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Brown (1773-1858): Người phát hiện nhân tế bào ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.71 KB, 11 trang )



Brown (1773-1858):
Ngư
ời phát hiện nhân
tế bào




Robert Brown sinh ngày
21 tháng 12 năm 1773 tại
Montrose, một thành phố
cảng ở miền Đông Bắc
Scotland, nằm dưới chân
dãy núi Grampian. Ông
bố là một mục sư của nhà
thờ Tân giáo. Robert theo học
trường Marischal ở Aberdeen,

Robert
Brown
(1773-
1858)


trường này được xây dựng từ
những năm 1494 và 1593.

Lúc vừa 16 tuổi, Robert đến Đại
học Edinburgh theo học y khoa.


Sau 5 năm học tập, chàng thanh
niên Robert 21 tuổi gia nhập quân
đội Anh với cương vị trợ lý phẫu
thuật viên. Theo các bạn đồng ngũ,
anh đến đồn trú ở Ireland. Suốt 5
năm, ngoài công việc chuyên môn,
Robert thường tìm hiểu và sưu tập
các loại cây cỏ hiếm lạ.

Năm 1798, nhân dịp đến thăm
Luân Đôn, anh có dịp quan biết
ngài Banks (1), Chủ tịch Hội
Hoàng gia. Nghe nói ông này có 1
bộ sưu tập mẫu cây cỏ hiếm lạ nhất
nước Anh, Robert đã ngỏ lời muốn
ghé thăm và được ngài Banks
chấpthuận.

Sẵn niềm ham mê tìm hiểu các loài
cây cỏ nên trong nhiều tuần lễ,
Robert luôn có mặt ở phòng mẫu
cây của ngài Banks. Trong những
buổi chuyện trò với ngài Banks,
anh được biết ngài đã cùng thuyền
trư
ởng James Cook thực hiện nhiều
chuyến đi khảo sát trên con thuyền
“Gắng sức” (Endeavour).

Ngày 18/7/1801, đư

ợc sự giới thiệu
của ngài Banks, nhà khoa học trẻ
tuổi Brown hồ hởi bước l
ên con tàu
“Người thám hiểm” bắt đầu cuộc
hành trình dưới quyền chỉ huy của
thuyền trưởng Flinders. Ngày
8/12/1801, tàu cập bến tại Eo Vua
George, ở bờ Tây nước úc. Brown
rất ngạc nhiên và sung sướng khi
nhìn thấy thảm thực vật của vùng
đất mới thật phong phú. Trong khi
chiếc tàu chạy vòng quanh bờ biển
nước úc để thực hiện những khảo
cứu hải dương học. Suốt 4 năm
trời, Brown lang thang khắp đó
đây. Anh mải m
ê quan sát, ghi chép
và thu thập các mẫu cây cỏ mới lạ.
Cùng tham gia những chuyến khảo
sát, có Bauer (2). Cũng may mắn
cho Brown là dịp học hỏi ở khu
vườn mẫu của ngài Banks, anh đã
có đầy đủ kiến thức thực vật học.
Sau này Ferdinand Bauer đã vẽ
minh họa thật đẹp bộ sưu tập.

Ngày 13/10/1805, anh trở lại nước
Anh và bắt tay ngay vào công việc
sắp xếp phân loại bộ sưu tập gồm

khoảng 3900 loài. Sau 5 năm
nghiên cứu, tìm đọc các tài liệu rồi
so sánh các mẫu vật, cuốn sách
“Thảm thực vật ở Tân Hà Lan”
(1810) ra đời gây ngạc nhiên cho
giới khoa học vì tài quan sát tinh
tường và văn phong rành mạch của
nhà thực vật học Brown vừa tròn
38 tuổi. Do ở thời đó, người ta ch
ưa
chú ý nhiều đến các cây cỏ, nên
mặc dù những ghi chép từ nước úc
rất phong phú, ông cũng chỉ cho
xuất bản một tập. Sau khi đọc cuốn
sách, thêm một lần nữa, ng
ài Banks
phát hiện tài năng của Brown nên
đã mời nhà khoa học trẻ tuổi đến
phụ trách khu vườn mẫu và cả thư
viện quý giá của ngài, sau này ngài
Banks đã ghi trong di chúc cho
phép Brown toàn quyền sử dụng
khu vườn mẫu và thư viện riêng
của ngài. Từ năm 1825, liên tục
suốt trong gần mười năm, các tác
phẩm của Brown được xuất bản
bằng tiếng Đức.

Năm 1827, Brown được mời đến
làm việc ở Viện Bảo tàng Anh,

đồng thời phụ trách khoa thực vật
vừa mới được thành lập và mang
tên Banks, lúc này ông đã 54 tuổi.
Năm sau, giới khoa học lại ngạc
nhiên khi đọc cuốn sách “Những
nhận xét vi thể (1827) của Brown,
trong đó, tác giả ghi nhận đã quan
sát thấy những mảnh nhỏ chuyển
động ở bên trong những hạt phấn
hoa sống của giống Clarkia
pulchella. Sau đó, khi tiếp tục quan
sát thêm nhiều hạt phấn hoa cả
sống lẫn chết của nhiều loại cây
khác nhau, lần nào Brown cũng
nhận thấy có hiện tượng chuyển
động những mảnh nhỏ của chất
dịch (về sau mới biết là dịch dạng
keo). Sau phát hiện của Brown,
nhiều nhà khoa học cũng nghiên
cứu và đều xác nhận đúng như v
ậy.
Hiện tượng này, về sau được gọi là
chuyển động Brown. Trong suốt
quá trình nghiên cứu và phân loại
các cây cỏ, Brown không chỉ thể
hiện tài năng mô t
ả, quan sát tinh tế
mà còn biểu hiện rõ thái độ thận
trọng, trung thực. Một lần sưu tập
được một loại hoa rất đẹp, có

đường kính tới 1m, khi khảo cứu
tài liệu, ông biết rằng loại này,
trước đây đã được một nhà khoa
học trẻ tuổi tên là Arnold ghi nhận
lần đầu tiên ở đảo Sumatra, thuộc
Indonesia, cùng với một người bạn
tên là Raflord. Vì vậy, trong bảng
phân loại, ông đã đặt tên loài hoa
đó là Rafloleza arnoldi.

Năm 1831, trong khi đang tiến
hành những thử nghiệm với hai
giống Orchidacea và
Asclepiadaceae, với tài năng quan
sát tinh tế vốn có, Brown lại ghi
nhận và mô tả một hình thái đặc
biệt, hiện diện bên trong tế bào mà
chưa ai nói tới: nhân của tế bào.
Leeuwenhoek có lẽ đã nhìn thấy
nhân của hồng cầu cá và Franz
Bauer có lẽ đã vẽ nhân tế bào để
minh họa một mẫu vật của John
Hunter. Nhưng việc phát hiện ra
nhân tế bào chẳng làm ai chú ý cho
tới 7 năm sau, khi Schleiden và
Schwann công bố luận thuyết tế
bào (1838).

Là một nhà thực vật học tài năng,
Brown đã đi vào lịch sử sinh học

khi phát hiện ra chuyển động
(mang tên ông) và nhân tế b
ào. Ông
còn có nhiều đóng góp vào việc
phân loại thực vật học, mở rộng
hiểu biết và hoạt động giới tính ở
các loài cây cấp cao. Ông là người
đầu tiên phân biệt những cây hạt
trần (gymnosperm) với những cây
hạt kín (angiosperm) và cũng là
một trong số những người mở
đường cho ngành cổ thực vật học
(Paleobotany)(1851).

Brown qua đời tại Luân Đôn ngày
10/6/1858, hưởng thọ 85 tuổi.


×